Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh bến tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (888.34 KB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

PHAN THANH NGHỊ

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bến Tre

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Người hướng dẫn: TS. Vương Cường

Hà nội - 2004


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 4
Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ

VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH THEO HƢỚNG
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ................................................... 9
1.1. Cơ cấu kinh tế và sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ............................................. 9
1.1.1. Khái niệm và nội dung, cơ cấu kinh tế ............................................ 9
1.1.2. Yêu cầu khách quan của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa .................................................... 13
1.2. Những nhân tố ảnh đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta .. 20
1.2.1. Nhóm nhân tố về địa lý, tự nhiên .................................................. 20


1.2.2 Nhóm nhân tố kinh tế - xã hội ....................................................... 22
1.2.3. Nhóm nhân tố chính trị ................................................................. 25
1.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một số nước và một số địa
phương ...................................................................................................... 27
1.3.1 Khái quát quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở một số nước ...... 27
1.3.2. Những kinh nghiệm có khả năng áp dụng vào điều kiện hiện nay ở
nước ta ................................................................................................... 30
Chƣơng 2 .................................................................................................... 35
THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH ............ 35
Ở TỈNH BẾN TRE - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ................................... 35
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh
Bến Tre. .................................................................................................... 35
2.1.1. Điều kiện tự nhiên của tỉnh Bến Tre ............................................. 35
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội .............................................................. 37
2.1.3. Điều kiện chính trị ........................................................................ 40

1


2.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của tỉnh Bến Tre từ 1991
đến nay ...................................................................................................... 44
2.2.1. Giai đoạn chuẩn bị chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1986 - 1990) ...... 44
2.2.2. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành tỉnh Bến Tre từ 1991 2000 ....................................................................................................... 55
2.2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành tỉnh Bến Tre từ năm 2001 đến nay .... 72
2.3. Những vấn đề đặt ra trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh
Bến Tre ..................................................................................................... 81
2.3.1. Trong lĩnh vực nông nghiệp .......................................................... 81
2.3.2. Trong lĩnh vực công nghiệp .......................................................... 83
2.3.3 Trong lĩnh vực dịch vụ, thương mại ............................................... 85
Chƣơng 3 .................................................................................................... 88

MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY .... 88
QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở TỈNH BẾN TRE 88
3.1. Những phương hướng nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành tỉnh Bến Tre ........................................................................ 88
3.1.1. Phương hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của tỉnh Bến Tre 88
3.1.2. Phương hướng phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp
3.1.3. Phương hướng phát triển và chuyển dịch cơ cấu thương mại, dịch
vụ tỉnh Bến Tre ....................................................................................... 96
3.2. Một số giải pháp để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành tỉnh
Bến Tre ..................................................................................................... 98
3.2.1 Giải pháp về thị trường ................................................................. 98
3.2.2. Xây dựng quy hoạch phát triển cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bến Tre
............................................................................................................. 102
3.2.3. Giải pháp về vốn ........................................................................ 107
3.2.4. Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng ......................................... 109
3.2.5. Giải pháp về khoa học - công nghệ............................................. 110
3.2.6. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực ......................................... 113

2


KẾT LUẬN ............................................................................................... 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 119

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta hiện nay là: đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta
trở thành nước công nghiệp. Để chuyển nước ta trở thành một nước công
nghiệp, Đại hội IX của Đảng xác định mục tiêu và phương hướng phát triển
kinh tế đến năm 2010 như sau: “Năm 2010, tổng sản phẩm trong nước (GDP)
tăng ít nhất gấp đôi so với năm 2000; chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ
cấu lao động, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn khoảng 50%” [9, tr
90]. Đồng thời Đại hội IX còn chỉ rõ mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm
(2001 - 2005) là: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải
thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế” [9, tr. 216].
Trước yêu cầu phát triển kinh tế chung của cả nước và yêu cầu phát
triển kinh tế địa phương, Bến Tre tất yếu phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong quá trình phát triển đi lên. Vì Bến Tre là một tỉnh nằm trong vùng đồng
bằng Sông Cửu Long, nền kinh tế của tỉnh chủ yếu là nông nghiệp, với những
điều kiện thiên nhiên sẵn có như: đất đai, khí hậu, sông ngòi, nguồn lao
động... Bến Tre có khả năng phát triển mạnh kinh tế, trở thành một tỉnh giàu
có. Nhưng thực tế, Bến Tre vẫn là tỉnh nghèo so với các tỉnh trong vùng, với
GDP bình quân đầu người dưới 400USD vào năm 2000. Để định hướng phát
triển, Đại hội Đảng Bộ tỉnh Bến Tre lần VII xác định cơ cấu kinh tế của tỉnh
là “nông - công nghiệp và dịch vụ”. Với cơ cấu này, cùng với thực hiện những
chính sách kinh tế - xã hội, những năm gần đây, kinh tế tỉnh Bến Tre có bước
tăng trưởng khá. Tuy vậy, Bến Tre vẫn chưa khai thác hết tiềm năng, các thế
mạnh của mình để thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh. Thực tế cho thấy, việc

1


chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh còn chậm, trình độ kinh tế còn ở mức
thấp, cơ bản vẫn là thuần nông, chưa tạo được những ngành kinh tế mũi nhọn

có tầm chi phối; công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ, du lịch, kinh tế đối
ngoại tuy có tiến bộ so với giai đoạn trước nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu
và tiềm năng cho phép. Trước yêu cầu trên, Đại hội VII Đảng bộ tỉnh Bến Tre
chỉ rõ phương hướng phát triển kinh tế của tỉnh 5 năm tới (2001 - 2005) là: “
...đẩy mạnh tốc độ phát triển nền kinh tế tỉnh nhà nhanh và bền vững hơn; tiếp
tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
trước nhất là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn gắn với
đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng; nâng cao hiệu quả xóa đói giảm nghèo,
giải quyết lao động và việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân” [13, tr. 47].
Như vậy muốn kinh tế phát triển, Bến Tre phải chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tức là phải giảm tỷ trọng nông
nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ một cách hợp lý. Đây là yêu cầu
tất yếu của xu hướng phát triển kinh tế; vì nền kinh tế của một nước, một tỉnh
muốn đi lên giàu có không thể chỉ thuần nông mà nhất thiết phải chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre” làm nội
dung nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đã có nhiều công trình, đề tài, luận văn và những bài viết
được nghiên cứu, đăng tải và công bố như:
- GS.PTS. Trần Ngọc Hiên: “Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế” - “Giải
pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế”.

2


- Ngô Đình Giao: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân”, tập II, Nxb. Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994.
- Bùi Tất Thắng: “Xu hướng thay đối cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam
trong những năm gần đây”, Tạp chí Thông tin lý luận, số 4/1995.
- Đỗ Hoài Nam: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế năm 2000”, Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế (218), tháng 7/1996.
Song những công trình nghiên cứu khoa học ấy nghiên cứu về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hoặc nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên
phạm vi cả nước hoặc trên một địa phương khác không thuộc tỉnh Bến Tre.
Riêng đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre” chưa được nghiên cứu.
Vì vậy việc nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành tỉnh Bến Tre
hiện còn mới mẻ, cần được phân tích làm rõ thêm trên cả hai mặt lý luận và
thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích của đề tài là trên cơ sở tiếp thu lý luận và thực tiễn về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay, từ đó mô tả và phân tích thực trạng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay của tỉnh Bến Tre; đồng thời đề xuất một
số phương hướng và giải pháp để tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh
Bến Tre đạt kết quả cao hơn trong những năm sắp tới.
- Để đạt mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích làm rõ khái niệm, nội dung và sự cần thiết phải chuyển dịch
cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Sưu tầm các tài liệu, phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của tỉnh trong những năm vừa qua.
+ Đề xuất những phương hướng và giải pháp để thực hiện chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của tỉnh Bến Tre theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong những năm tới.

3



4. Cơ sớ lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh; dựa vào đường lối, chính sách, chương trình quy
hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của tỉnh Bến Tre từ năm 2001 - 2010. Ngoài
ra, còn tham khảo, tiếp thu ý kiến một số nhà khoa học trong và ngoài nước.
4.2. Nguồn tài liệu
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã sử dụng nhiều tài liệu khác nhau
như:
Tác phẩm của Các Mác, Ăng ghen, V.I.Lênin, Hồ Chí minh về cơ cấu
kinh tế; Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI, VII,VIII,
IX; Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ IV, V,VI, VII;
Niên giám thống kê tỉnh Bến Tre 1999-2003; Địa trí Bến Tre và còn nhiều tài
liệu khác, được chú thích ở Danh mục tài liệu tham khảo.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, cụ thể là sử dụng các phương pháp tổng
quát, logic, lịch sử, diễn dịch - quy nạp, thống kê, so sánh; đặc biệt là phương
pháp tổng kết thực tiễn.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu, làm rõ việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành của tỉnh Bến Tre, không nghiên cứu tất cả các nội dung chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Luận văn đi sâu phân tích chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Bến
Tre từ 1991 đến nay và đề ra những phương hướng, giải pháp chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của tỉnh đến năm 2010.
6. Đóng góp của luận văn

4



- Khi đề tài hoàn chỉnh sẽ góp thêm cơ sở khoa học, góp phần làm rõ
hơn vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh.
- Từ lý luận này có thể vận dụng để giải quyết những vấn đề do thực
tiễn của tỉnh Bến Tre đặt ra như quy hoạch và ban hành các quyết sách để
phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của tỉnh, nhằm đạt hiệu quả
cao và bền vững.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và học tập
những môn, những phần có liên quan đến kinh tế địa phương trong các trường
Cao đẳng, Trung học Chuyên nghiệp của tỉnh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chƣơng 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành hiện nay ở tỉnh
Bến Tre - Những vấn đề đặt ra.
Chƣơng 3: Một số phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bến Tre.

5


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ
VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH THEO HƢỚNG
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Cơ cấu kinh tế và sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

1.1.1. Khái niệm và nội dung, cơ cấu kinh tế
- Cơ cấu kinh tế, một phạm trù kinh tế có vị trí rất quan trọng trong
quá trình xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia ở từng thời kỳ.
Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ; sự phát triển
của phân công lao động xã hội; xu thế toàn cầu hóa về sản xuất và đời sống;
quy luật lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh, lợi thế của nước phát triển muộn
về công nghiệp... Tất cả những yếu tố đó đều có ảnh hưởng, liên quan đến sự
hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng quốc gia ở từng thời kỳ
nhất định.
Thuật ngữ “cơ cấu kinh tế”, tùy theo phạm vi xem xét rộng hay hẹp, ta
sẽ có nội dung khái niệm cơ cấu kinh tế có sự khác nhau về mức độ. Dưới đây
là quan điểm chung nhất và tương đối đầy đủ, đó là: cơ cấu kinh tế là tổng thể
các quan hệ kinh tế hợp thành nền kinh tế quốc dân, kinh tế của một địa
phương, một cơ sở. Các quan hệ này có quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau
tồn tại như một chỉnh thể mang tính hệ thống, thể hiện ở chất lượng, nhịp độ
phát triển và tỷ trọng giá trị của từng bộ phận cấu thành tổng thể, diễn ra trong
điều kiện kinh tế - xã hội nhất định nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế
từng thời kỳ.

6


- Cơ cấu kinh tế, nếu xem xét ở cấp độ nền kinh tế quốc dân hay trên
một vùng lãnh thổ, thì nội dung của nó bao gồm: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu
vùng kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu kỹ thuật - công nghệ, cơ cấu
lao động... Trong đó cơ cấu ngành kinh tế là cốt lõi của cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế có các đặc trưng là: tính khách quan, tính thị trường, tính mục
tiêu, tính kết hợp giữa số lượng và chất lượng, tính lịch sử, tính động, tính
hiện đại, tính hiệu quả kinh tế - xã hội.

Như vậy, về mặt nội dung cơ cấu kinh tế là một hệ thống đa cơ cấu hợp
thành:
+ Thứ nhất, là cơ cấu ngành của nền kinh tế quốc dân, xác định mối
quan hệ giữa các ngành với nhau; từ đó phân biệt với các loại cơ cấu kinh tế
khác. Ở nước ta hiện nay, Đảng ta xác định cần tập trung xây dựng một cơ
cấu kinh tế hợp lý, mà “bộ xương” của nó là “cơ cấu kinh tế công - nông
nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng” [6, tr. 12].
+ Thứ hai, là cơ cấu vùng lãnh thổ thể hiện sự phân bố lực lượng sản
xuất, sự phân công lao động trên các vùng lãnh thổ khác nhau và mối quan hệ
giữa các vùng này trong nền kinh tế quốc dân thống nhất. Về cơ cấu vùng,
Đảng ta xác định các vùng kinh tế ở nước ta như sau:
 Vùng kinh tế Bắc Bộ, trong đó có tam giác kinh tế tăng trưởng (Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh).
 Vùng Đông Nam Bộ, trong đó có tứ giác kinh tế tăng trưởng (Thành
Phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bình Dương - Bà Rịa Vũng Tàu).
 Vùng Duyên Hải miền Trung, trong đó có vùng kinh tế tăng trưởng
(Đà Nẵng - Chu Lai - Dung Quất - Quãng Ngãi...).
 Vùng Trung Du và miền núi phía Bắc.
 Vùng kinh tế Tây Nguyên.
 Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.
7


+ Thứ ba, là cơ cấu thành phần kinh tế bao gồm tổng thể các khu vực
kinh tế. Nó được xác định bởi quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối, trong đó quan hệ sở hữu giữ vai
trò quyết định) khác nhau và mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế này trong
nền kinh tế quốc dân. Đại hội IX xác định nền kinh tế nước ta hiện nay có sáu
thành phần kinh tế. Đó là:
 Kinh tế Nhà nước

 Kinh tế tập thể.
 Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
 Kinh tế tư bản, tư nhân.
 Kinh tế tư bản Nhà nước.
 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong đó, kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo và kinh tế Nhà nước
cùng với kinh tế tập thể hợp thành nền tảng cho chế độ xã hội mới - Xã hội
Chủ nghĩa.
+ Thứ tư, cơ cấu kỹ thuật - công nghệ là tổng thể các loại trình độ (thế
hệ) kỹ thuật và công nghệ tồn tại trong nền kinh tế được hình thành trong mối
quan hệ tương tác giữa công cụ thủ công, nửa cơ khí, cơ khí, tự động hóa,....
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng tương ứng với các
nguồn lực, trong đó quan trọng nhất là vốn và sức lao động.
Công nghệ nước ta hiện nay mang tính đa dạng, đan xen nhiều trình độ,
vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số
ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Làm như vậy, ta vừa
tận dụng tiềm năng lao động, vừa rút ngắn khoảng cách lạc hậu giữa nước ta
với các nước trong khu vực, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
+ Thứ năm, cơ cấu lao động: trên cơ sở cơ cấu kinh tế được chuyển
dịch, đẩy mạnh phân công lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông
8


nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, trong đó tỷ trọng lao
động dịch vụ tăng nhanh hơn tỷ trọng lao động công nghiệp trong tổng lao
động xã hội; tỷ trọng lao động giản đơn giảm dần và tỷ trọng lao động trí tuệ
tăng nhanh và ngày càng chiếm ưu thế trong cơ cấu lao động.
- Trong quá trình phát triển cơ cấu kinh tế không chỉ đa dạng về nội
dung, mà còn phải đạt cơ cấu tối ưu (hợp lý).

Tối ưu hóa cơ cấu kinh tế của một nước, một địa phương trên vùng
lãnh thổ là yêu cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Một
cơ cấu kinh tế tối ưu phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
+ Một là, phản ánh được và đúng các quy luật khách quan (bao gồm
các quy luật tự nhiên, kỹ thuật, kinh tế và xã hội) nhất là các quy luật kinh tế.
Các quy luật kinh tế sau đây được coi trọng:
 Quy luật quan hệ sản xuất phải luôn phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật này có liên quan đến cơ cấu kỹ
thuật - công nghệ và cơ cấu thành phần kinh tế trong cơ cấu kinh tế ở nước ta,
một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội bỏ qua chế độ Tư
bản Chủ nghĩa.
 Các quy luật kinh tế của thị trường như: quy luật giá trị, quy luật cạnh
tranh, cung - cầu, quy luật lưu thông tiền tệ...
 Các quy luật kinh tế của tái sản xuất như: quy luật phân phối tổng sản
phẩm xã hội, quy luật tích lũy, quy luật tiến bộ khoa học - kỹ thuật, quy luật
tăng năng suất lao động... Các quy luật này có liên quan đến quy mô và tốc độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đồng thời chúng có liên quan đến 4 khâu (sản
xuất, phân phối, lưu thông và tiêu dùng) trong quá trình tái sản xuất.
Tóm lại, đảm bảo yêu cầu phản ánh được và đúng các quy luật khách
quan, là cái quyết định cho cơ cấu kinh tế được hình thành mang tính chất
khoa học.

9


+ Hai là, đảm bảo tính thị trường. Yêu cầu này được thực hiện trên cơ
sở đẩy mạnh phân công lao động xã hội gắn xây dựng cơ cấu kinh tế với nhu
cầu thị trường; chủ động hội nhập, hình thành cơ cấu kinh tế mở, phù hợp với
xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa; thực hiện chiến lược hướng mạnh xuất
khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có

hiệu quả; gắn liền với sự phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng.
+ Ba là, tính hiện đại, việc xây dựng cơ cấu kinh tế, cơ cấu khoa học công nghệ phải phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ của khoa học và công
nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới. Làm cho kỹ thuật và công
nghệ của ta chậm lạc hậu với phát triển của thời đại.
Đảm bảo được yêu cần này là điều kiện tốt để ta thực hiện hợp tác và
phân công quốc tế có hiệu quả, rút ngắn khoảng cách tụt hậu giữa nước ta với
các nước trong khu vực và trên thế giới.
+ Bốn là, đảm bảo tính hiệu quả kinh tế - xã hội, nhờ đó cho phép cơ
cấu kinh tế khai thác tối đa mọi nguồn lực, tiềm năng của đất nước, của địa
phương, của ngành, xí nghiệp cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Hiệu quả kinh tế xã hội là tiêu chí rất quan trọng, là kết quả cuối cùng của một cơ cấu kinh tế
tối ưu (hợp lý).
Các yêu cầu nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau và đều có tác dụng chi
phối sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta nói chung và tỉnh
Bến Tre nói riêng trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá
(CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước.
1.1.2. Yêu cầu khách quan của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một quá trình, trải qua những
chặng đường nhất định, và thực hiện phải thông qua việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.

10


- C.Mác chỉ rõ: “Cuộc cách mạng trong phương thức sản xuất của một
lĩnh vực công nghiệp này gây ra cuộc cách mạng trong các lĩnh vực khác.
Điều đó áp dụng trước hết cho những ngành công nghiệp tuy bị cô lập do sự
phân công lao động xã hội, thành thử mỗi một ngành sản xuất ra một hàng
hóa độc lập, nhưng vẫn quyện chặt với nhau thành những giai đoạn của một
quá trình chung. Ví dụ, việc kéo sợi bằng máy đã làm cho việc dệt bằng máy

trở nên cần thiết, và cả hai đã đưa đến cuộc cách mạng cơ khí - hóa học trong
ngành phiếu, in và nhuộm vải” [27, tr. 553].
C.Mác còn viết: “Nhưng chính cuộc cách mạng trong phương thức sản
xuất công nghiệp và nông nghiệp cũng đòi hỏi một cuộc cách mạng trong
những điều kiện chung của quá trình sản xuất xã hội, tức là trong phương tiện
giao thông và vận tải” [27, tr .554].
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ mật thiết giữa công nghiệp
và nông nghiệp, Người viết: “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của
nền kinh tế. Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho
nhân dân, cung cấp đủ nguyên liệu (như bông, mía, chè cho nhà máy), cung
cấp đủ nông sản (như lạc, đỗ, đay...) để xuất khẩu đổi lấy máy móc. Công
nghiệp phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân,
trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ
sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp, và cung cấp dần dần máy cày, máy bừa cho
các hợp tác xã nông nghiệp. Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát
triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng
nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh chóng
đi đến mục đích” [28, tr. 544-545].
Qua đây cho thấy, cả C.Mác và Hồ Chí Minh đều nhấn mạnh mối quan
hệ, sự tác động qua lại giữa các ngành trong quá trình phát triển, vì vậy khi
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải tiến hành đồng

11


bộ giữa các bộ phận trong nền kinh tế, tránh sự phiến diện, dẫn tới mất cân
đối lớn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình làm thay đổi cấu trúc, tỷ trọng,
tốc độ và chất lượng các mối quan hệ kinh tế ngành, vùng và thành phần kinh
tế nhằm đạt tới một cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, đảm bảo cho sự tăng trưởng và

phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, chủ yếu là chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
lạc hậu, kém hiệu quả sang một cơ cấu ngày càng phù hợp với xu hướng phát
triển của nền sản xuất hiện đại.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
là làm cho tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp ngày tăng, nông nghiệp ngày
càng giảm; tỷ trọng giá trị sản phẩm dịch vụ ngày càng tăng, tổng giá trị sản
phẩm nông - công nghiệp ngày càng giảm tương ứng.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là yêu cầu khách quan của nước ta hiện nay, vì mấy lý do sau đây:
- Thứ nhất, do thực trạng nền kinh tế nước ta đặt ra.
Qua 10 năm (1991 - 2000) thực hiện chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội, nến kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn rất
quan trọng. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) sau 10 năm tăng hơn gấp đôi
(tăng 2,07 lần). Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong 10 năm 7,5%.
Cụ thể là nông nghiệp phát triển liên tục; sản lượng lương thực bình quân mỗi
năm tăng 1,3 triệu tấn, đưa lương thực bình quân đầu người từ 330kg năm
1990 lên 360kg năm 1995 và 444kg năm 2000, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới.
Về công nghiệp, đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao. Giá trị sản lượng
công nghiệp 10 năm (1991 - 2000) tăng 13,6%/ năm, cao hơn mục tiêu đề ra.
Trong đó công nghiệp quốc doanh tăng 11,4%, công nghiệp ngoài quốc doanh

12


tăng 11%, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 22,5%. Sản lượng
một số sản phẩm quan trọng tăng nhanh.
Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, giá trị tăng 8,4%/ năm, trong đó
5 năm đầu tăng 10,1%, và 5 năm sau tăng 6,8%.
Tích lũy nội bộ của nền kinh tế tăng đáng kể. Mức tiết kiệm trong nước

so với GDP từ 2,9% năm 1990, lên 18,2% năm 1995 và 27% năm 2000.
Về kinh tế đối ngoại có bước phát triển đáng kể, nước ta đã phá thế bao
vây cấm vận, phát triển quan hệ kinh tế hầu hết các nước, gia nhập và có vai
trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế và khu vực, chủ động từng
bước hội nhập có hiệu quả về kinh tế thế giới. Cụ thể: kim ngạch xuất khẩu
sau 10 năm tăng gấp 6 lần. Năm 2000 xuất khẩu bình quân đầu người đạt
184USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được thực hiện trong 10 năm
khoảng 15 tỷ USD. Nguồn vốn hỗ trợ chính thức (ODA) tiếp tục tăng; chỉ
tính riêng 5 năm (1996 - 2000), nguồn vốn ODA được đưa vào thực hiện trên
6 tỷ USD.
Nét nổi bật là việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Sau 10 năm
thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, cơ cấu kinh tế
nước ta có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực. Những lợi thế so sánh
trong từng ngành, từng vùng đã có bước khai thác, góp phần thúc đẩy kinh tế
phát triển với tốc độ cao, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Tỷ trọng các
ngành kinh tế trong GDP đã có những thay đổi đáng kể: nông - lâm - ngư
nghiệp đã giảm từ 38,7% năm 1990 xuống còn 27,2% năm 1995, 24,3% năm
2000 và 23% vào năm 2001; công nghiệp và xây dựng có mức tăng khá
nhanh, từ 22,7% năm 1990 lên 28,7% năm 1995, 36,6% năm 2000 và 38%
năm 2001; dịch vụ tăng từ 38,6% năm 1990 lên 44,1 năm 1995 và đến năm
2001 giảm xuống còn 39%.

13


Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta trong những năm qua đã
mang lại những kết quả đáng khích lệ, góp phần thức đẩy công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, những tiến bộ đạt được về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong từng ngành, tùng vùng còn chậm, chưa tạo bước đột phá về
chất lượng và hiệu quả phát triển. Biểu hiện ở chỗ, cơ cấu kinh tế ngành và cơ

cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch chậm. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP
năm 2000 là 24,3% chưa đạt chỉ tiêu đề ra là còn khoảng 19 - 20%; tỷ trọng
dịch vụ là 39,1%, chỉ tiêu là 45 - 46%.
Đầu tư còn phân tán, làm cho hiệu quả sử dụng vốn, nhất là vốn từ
ngân sách chưa cao. Trong nông nghiệp ít chú ý đầu tư cho việc nghiên cứu,
ứng dụng giống mới cho năng suất cao và giá trị hàng hóa lớn. Trong công
nghiệp, chưa tập trung đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại. Nguồn
vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài giảm.
Từ thực trạng nêu trên, để tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội trong thời
gian tới, thì cần phải tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Thứ hai, xuất phát từ mục tiêu, nội dung công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta và mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế với quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII xác định: “Mục tiêu của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có
cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến
bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất
và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh, vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh.
Từ nay đến 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp” [8, tr.80].

14


Tiếp theo Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX vạch rõ kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005) là: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao

rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại.
Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát
huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xóa đói, giảm số hộ
nghèo” [9, tr.90].
Qua nghiên cứu mục tiêu và nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta cho thấy: Công nghiệp hóa không chỉ đơn thuần là tăng tốc độ và tỷ
trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, gắn liền với đổi mới căn bản về công nghệ,
tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả và lâu bền của nền kinh tế
quốc dân. Đây là vấn đề lớn, cấp thiết ở nước ta trong quá trình đổi mới kinh
tế trên cả gốc độ cơ cấu kinh tế ngành cũng như cơ cấu kinh tế vùng. Do đó,
việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta không thể
tách rời quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa luôn quan hệ chặt chẽ với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chúng tác động lẫn nhau làm điều kiện và tiền đề
cho nhau.
Công nghiệp hóa là quá trình trang bị kỹ thuật và công nghiệp hiện đại
cho tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân, biến lao động thủ công thành
lao động sử dụng máy móc. Còn hiện đại hóa có nghĩa là các kỹ thuật và công
nghệ sản xuất đạt được trình độ tiên tiến, hiện đại. Cho nên Nghị quyết Trung
ương lần thứ VII (khóa VII) chỉ rõ: phải gắn công nghiệp hóa với hiện đại
hóa, áp dụng rộng rãi những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của
thời đại.

15


Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước là quan hệ biện chứng: vừa là nguyên nhân, vừa là
kết quả, vừa là nội dung, vừa là biện pháp.

Bởi vì, công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo nên những điều kiện vật chất
- kỹ thuật, khoa học - công nghệ và con người để chuyển dịch cơ cấu kinh tế
từ nền kinh tế nông nghiệp thành nền kinh tế công nghiệp có năng suất lao
động cao và từ đó hình thành một cơ cấu kinh tế mới: công - nông nghiệp và
dịch vụ hiện đại. Trong những năm trước mắt, nước ta cần tập trung đẩy mạnh
công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, ra sức phát triển các ngành công
nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản; công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu, phát triển du lịch và dịch vụ ở thành thị và nông thôn… Kinh tế
nông nghiệp và nông thôn nước ta vốn lạc hậu, nghèo nàn không thể tự vươn lên
đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ, không đủ khả năng giải quyết
công ăn việc làm cho khoảng 70% lao động xã hội đang sinh sống ở địa bàn này.
Điều đó, đòi hỏi phải có sự tác động mạnh của công nghiệp vào nông nghiệp,
như đẩy mạnh thủy lợi hóa, cơ giới hóa, hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ sinh
học, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi... mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản,
phát triển công nghiệp chế biến, dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn.
Mặt khác, chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Như cơ cấu nông nghiệp được chuyển
dịch và phát triển xuất phát từ yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
đảm bảo vững chắc nhu cầu lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng xã hội;
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, tăng nhanh khối lượng nông sản xuất
khẩu; giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, từ đó mở rộng
thị trường cho sản phẩm và dịch vụ công nghiệp; bổ sung lực lượng lao động
cho các ngành công nghiệp và dịch vụ góp phần tích lũy vốn cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.

16


Như vậy, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là một tất yếu khách quan, phù hợp với lý luận Mác - Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh, đáp ứng nhu cầu thực tiễn nền kinh tế nước ta đang đặt
ra và do giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa công nghiệp hóa, hiện đại
hóa với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.2. Những nhân tố ảnh đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nƣớc ta
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của Chủ
nghĩa Xã hội, phát triển lực lượng sản xuất và từng bước thiết lập quan hệ sản
xuất tương ứng. Quá trình này chịu chi phối bởi nhiều nhân tố, như về điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, chính trị. Dưới đây cần làm rõ từng nhân tố.
1.2.1. Nhóm nhân tố về địa lý, tự nhiên
Nhân tố địa lý, tự nhiên bao gồm: vị trí địa hình, địa lý, đất đai, khoáng
sản, khí hậu… Nhân tố địa lý, tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu kinh tế ngành. Vì quá trình phát triển
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành luôn phải dựa vào tài nguyên, thiên
nhiên. Nước nào có vị trí địa lý thuận lợi sẽ dễ dàng mở rộng thị trường; có
nhiều khoáng sản, đất đai, … tạo ra điều kiện, tiềm năng cho phát triển.
Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, ở phía Đông bán đảo
Đông Dương, giáp biển; là trung tâm Đông Nam Á - khu vực đang diễn ra
những hoạt động kinh tế sôi động của thế giới, có diện tích tự nhiên khoảng
330.363 km2 đất liền, hàng triệu km2 vùng biển và thềm lục địa, hơn 3.200km
bờ biển, có khoảng 10 triệu ha đất nông nghiệp. Với khí hậu nóng, ẩm cộng
với tài nguyên sinh vật dồi dào (có 7.000 loài thực vật bậc cao, hơn 700 loài
chim, 200 loài thú quý, khoảng 2.000 loài cá biển... ) là điều kiện tốt cho sản
xuất nông - lâm - ngư nghiệp quanh năm ở nước ta.
Lãnh thổ Việt Nam có thêm vùng biển rộng lớn, có khoảng 80 loại
khoáng sản với hơn 3.500 điểm mỏ và quặng, tạo điều kiện để phát triển các
17


ngành: khai thác, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, khai thác và chế biến dầu

khí, du lịch, giao thông đường biển...
Nước ta vừa ở vị trí trung tâm, vừa có chung biển Đông với nhiều nước
Đông Nam Á (với Campuchia, Thái Lan, Malayxia, Philippin...). Trên đất liền
cũng như biển, lãnh thổ nước ta có nhiều tuyến đường, đầu mối giao thông,
sân bay, hải cảng thuận lợi để giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế
giới bằng đường bộ, đường sông, đường biển và đường hàng không, là một
trong những điều kiện thuận lợi để thực hiện kinh tế mở, chủ động hội nhập.
Bên cạnh thuận lợi thì điều kiện tự nhiên nước ta cũng gây nhiều trở
ngại đối với việc phát triển kinh tế - xã hội. Như tài nguyên đất của nước ta có
hạn, diện tích đất canh tác tính theo đầu người khoảng 0,1ha/người. Bão, lũ
lụt, hạn hán hằng năm gây nhiều tổn thất cho nền kinh tế. Diện tích rừng tiếp
tục giảm. Nhiều loài thú, chim, thủy sản trở nên hiếm, có nguy cơ tuyệt
chủng. Khoáng sản phân bố phân tán, không đều về trữ lượng gây khó khăn
cho việc khai thác, chế biến. Về cảnh quan du lịch, nhiều nơi thiếu sự tu bổ,
chưa có sức thu hút du khách, nhất là khách nước ngoài.
Điều kiện địa lý, tự nhiên nước ta có ảnh hưởng không nhỏ đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần tận dụng, khai thác mặt thuận
lợi của điều kiện tự nhiên; đồng thời tìm cách khắc phục, hạn chế tối đa
những trở ngại do chúng gây ra.
Cũng cần lưu ý, tuy điều kiện địa lý, tự nhiên có vai trò quan trọng,
nhưng chúng không phải là yếu tố quyết định, vì thế chúng ta không nên tuyệt
đối hóa “địa lý, tự nhiên”. Vì thực tế cho thấy, nhiều nước có điều kiện tự
nhiên kém ưu đãi, nhưng vẫn chuyển dịch cơ cấu kinh tế trở thành nước phát
triển. Như: Nhật Bản là nước gần như không có tài nguyên khoáng sản, động
đất thường xuyên xảy ra mà vẫn trở thành siêu cường kinh tế; Hồng Kông,

18



Singapore đất hẹp, tài nguyên nghèo nàn cũng vươn lên thành nước công
nghiệp...
Đối với nước ta, cần khai thác nhân tố thuận lợi về vị trí địa lý, điều
kiện tự nhiên, nguồn nhân lực dồi dào để trước mắt ưu tiên cho công nghiệp
hóa nông nghiệp, phát triển hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng dịch
vụ, thu hút đầu tư.
1.2.2 Nhóm nhân tố kinh tế - xã hội
Trước hết phải nói đến trình độ của lực lượng sản xuất là nhân tố quyết
định nhất, lực lượng sản xuất theo nghĩa rộng bao gồm con người (sức lao
động), tư liệu sản xuất và khoa học kỹ thuật, công nghệ. Kế đến là dân số, lực
lượng lao động với số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển; có
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Lực lượng sản xuất, tiến bộ khoa học - công nghệ là động lực chủ yếu,
thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì ngày nay khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, quyết định sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo chiều sâu.
Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, tổ chức quản lý, phân phối sản phẩm
hợp lý có tác dụng thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời là
động lực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Về dân số và lao động cũng có tác động lớn đối với chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Một nước có số dân vừa phải, có nguồn lao động trẻ, trình độ cao
và đồng bộ sẽ là nhân tố cơ bản, quyết định chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh
và bền vững.
Vốn con người Việt Nam khá dồi dào, ước tính có khoảng 80 triệu
người, trong đó hơn 40 triệu lao động. Đặc tính con người Việt Nam là cần
cù, thông minh, sáng tạo, tiếp thu nhanh những kiến thức mới... Bên cạnh

19



những ưu điểm, do nhiều nguyên nhân nên nhìn chung trình độ dân trí chưa
cao, lực lượng lao động qua đào tạo còn thấp chưa đạt yêu cầu, giá nhân công
rẽ, thu nhập thấp dẫn đến đời sống người lao động ở nước ta còn khó khăn.
Do đó, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải ra sức nâng cao
trình độ văn hóa cho nhân dân, đào tạo nghề cho thanh niên, phân công lại lao
động xã hội ở nước ta.
Về cơ sở vật chất - kỹ thuật, qua 15 năm thực hiện đường lối đổi mới
đã đạt được những thành tựu rất quan trọng; trong đó, cơ sở vật chất - kỹ thuật
của nước ta từng bước được tăng cường, nhiều máy móc, thiết bị, công nghệ
hiện đại đầu tư vào các ngành trong nền kinh tế. Vốn đầu tư phát triển kinh tế
- xã hội trong 10 năm (1991 - 2000) khoảng 632 nghìn tỷ đồng (tương đương
khoảng 57 tỷ USD). Đầu tư phát triển so với GDP tăng từ 18% năm 1990 lên
28% năm 2000. Nhờ đó, năng lực sản xuất của hầu hết các ngành sản xuất và
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên cơ sở vật chất
kỹ thuật, kết cấu hạ tầng của nước ta phần lớn vẫn còn lạc hậu, chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển và cạnh tranh quốc tế. Cho nên Đại hội Đảng lần thứ
IX đã định hướng phát triển khoa học - công nghệ như sau: “Con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có
những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất
nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là
công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng
nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học
và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức” [9, tr.91].
Về quan hệ sản xuất, qua thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, quán
triệt chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã tạo ra sự phong
phú, đa dạng của các hình thức tổ chức kinh tế, làm cho quan hệ sản xuất có

20



bước đổi mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và
thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
Với chính sách đúng đắn này đã và đang cho phép chúng ta khai thác
tốt các tiềm năng về vốn, lao động, khoa học - công nghệ, kinh nghiệm quản
lý... của các thành phần kinh tế, là nguồn lực to lớn để đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Thực tế cho thấy, việc sử dụng cơ cấu nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa
đã mang lại lợi ích to lớn. Tính đến năm 2000, kinh tế nhà nước chiếm
khoảng 39%/GDP. Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại một
bước, hình thành những tổng công ty lớn trên nhiều lĩnh vực then chốt, thích
nghi dần với cơ chế mới. Kinh tế tập thể có bước chuyển và phát triển đa dạng
theo phương thức mới. Kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài phát triển nhanh, đầu tư vốn lớn, đổi mới công nghệ, thu hút hàng
triệu lao động, làm tăng sản phẩm hàng hóa cho người tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất của nước ta có mặt hạn chế, rõ nhất là còn
nhiều doanh nghiệp nhà nước kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, nợ
nần chồng chéo, khó giải quyết, thực hiện cổ phần hóa ở nước ta quá chậm.
Song song với tiến bộ kinh tế, thì lĩnh vực xã hội nước ta có những
chuyển biến đáng kể. Trước hết là giải quyết việc làm, qua 10 năm (1991 2000), các thành phần kinh tế đã thu hút và giải quyết việc làm hơn 10,4 triệu
người. Kế đến là công tác xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả khá cao, tỷ lệ hộ
đói nghèo giảm từ 30% năm 1992 xuống còn 20% năm 1995 và 11% vào năm
2000; nước ta được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những nước
giảm đói nghèo tốt nhất. Ngoài ra, nước ta còn thực hiện tốt công tác dân số kế hoạch hóa gia đình; công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng có nhiều

21



×