Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiểu luận cao học, vấn đề đặt ra đối với quyền lực chính trị ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.56 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội có giai cấp, quyền lực chính trị thuộc về giai cấp cầm
quyền. Giai cấp cầm quyền có thể là một người (lãnh tụ, cá nhân chính trị),
một giai cấp hoặc liên minh giai cấp đứng trên xã hội để nắm quyền lãnh đạo
xã hội. Quyền lực chính trị lập ra hệ thống chính trị xã hội để thực thi quyền
lực, đảm bảo sự ổn định về chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Nhiệm vụ
quan trọng nhất của chủ thể quyền lực chính trị là hoạch định, xây dựng hệ
thống các thể chế, chính sách để đời sống chính trị phát triển theo hướng có
lợi cho giai cấp mình. Trên cơ sở vị trí, vai trò của các chủ thể mà hình thành
các quan hệ chính trị: quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, giữa các
đảng phái, giữa các tổ chức chính trị xã hội, ...
Trên cơ sở sử dụng quyền lực chính trị để thống trị xã hội, giai cấp cầm
quyền lập ra một hệ thống tổ chức quyền lực chính trị phù hợp với khả năng,
điều kiện của mình. Giai cấp chỉ nô thiết lập thể chế chính trị quân chủ chủ
nô; giai cấp địa chủ lập ra thể chế chính trị quân chủ chuyên chế phong kiến;
giai cấp tư sản lập ra thể chế chính trị quân chủ lập hiến, cộng hòa tổng thống,
cộng hòa đại nghị; giai cấp công nhân lập ra thể chế chính trị cộng hòa dân
chủ nhân dân.
Ở Việt Nam, mọi quyền lực thuộc về nhân dân lao động là mục tiêu
nhất quán của Đảng kể từ khi ra đời cho đến ngày nay và mãi về sau này khi
còn sứ mệnh lịch sử đối với giai cấp và dân tộc. Trong Cương lĩnh của mình,
Đảng ta đều khẳng định: mọi lợi ích, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân,
ngoài ra Đảng ta không có mục tiêu nào khác. Với mục tiêu vì lợi ích, vì
quyền lực thuộc về nhân dân, Đảng ta lãnh đạo và phát huy sức mạnh của
toàn dân tộc, mà nền tảng là khối liên minh công nông và đội ngũ trí thức,
tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
đưa đất nước vững tin tiến vào thế kỷ XXI. Quyền lực thuộc về nhân dân
1



không chỉ là xu thế khách quan tất yếu mà còn tạo ra động lực cơ bản của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, và hạn chế sự tha hóa của quyền lực
nhà nước trong quá trình xây dựng, trưởng thành và phát triển.
Xuất phát từ những lý do trên, em chọn đề tài: “Vấn đề đặt ra đối với
quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay” là đề tài tiểu luận kết thúc học phần
Quyền lực chính trị và cầm quyền.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu quá trình hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam,
từ đó rút ra những vấn đề đang đặt ra đối với bộ máy quyền lực chính trị trong
điều kiện hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Xuất phát từ mục đích nêu trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm quyền lực chính trị, tính chất và yêu cầu của quyền
lực chính trị.
- Phân tích hoạt động của hệ thống chính trị của giai cấp cầm quyền, hệ
thống hóa những vấn đề đặt ra đối với quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện
nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng hai phương pháp chủ đạo là
phương pháp nghiên cứu duy vật lịch sử và phương pháp nghiên cứu duy vật
biện chứng. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh,
đánh giá, ...
4. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề
tài gồm 2 chương, 8 tiết.

2



NỘI DUNG
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
1.1. Khái niệm quyền lực chính trị
Cho đến nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về quyền lực chính trị. Tiêu
biểu là các khái niệm sau:
- Quyền lực chính trị là quyền sử dụng sức mạnh cho mục đích chính trị.
- Quyền lực chính trị là quyền lực xã hội nhằm giải quyết lợi ích giai
cấp, dân tộc, nhân loại.
- Quyền lực chính trị là quyền lực của một hay liên minh giai cấp – là
quyền lực của các giai cấp, các nhóm xã hội, các lực lượng xã hội dùng để chi
phối, tác động đến quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước nhmằ tối
đa hóa lợi ích của mình.
- Quyền lực chính trị là quyền lực của nhà nước, các đảng chính trị, các tổ
chức chính trị - xã hội, các tổ chức bầu cử, các cơ quan quần chúng địa phương.
- Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, quyền lực chính trị là quyền lực của
một hay liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội hoặc của nhân dân (trong điều
kiện chủ nghĩa xã hội); nó nói lên khả năng của một giai cấp nhằm thực hiện
lợi ích khách quan của mình. Quyền lực chính trị theo đúng nghĩa của nó, là
bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, quyền lực chính trị là quyền quyết
định, định đoạt những vấn đề, công việc quan trọng về chính trị, tổ chức và
hoạt động để đảm bảo sức mạnh thực hiện quyền lực ấy của một giai cấp, một
chính đảng, tập đoàn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền lãnh đạo; định
đoạt, điều khiển bộ máy nhà nước; xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
trong một quốc gia và quan hệ chính trị - kinh tế - ngoại giao với các nhà
nước khác và tổ chức quốc tế khu vực và thế giới, bảo đảm chiều hướng phát
triển quốc gia phù hợp với lý tưởng giai cấp.
3



Từ những cách tiếp cận nêu trên, có thể hiểu một cách chung nhất:
Quyền lực chính trị là quyền sử dụng sức mạnh của một hay liên minh giai
cấp, tập đoàn xã hội nhằm thực hiện sự thống trị; là năng lực áp đặt và thực
thi các giải pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình – chủ yếu
thông qua đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Như vậy, quyền lực chính trị chỉ hình thành trong xã hội có giai cấp và
nhà nước. Trong xã hội đó, vị trí, vai trò của các giai cấp, các lực lượng xã hội
rất khác nhau và đó là cơ sở để hình thành quyền lực chính trị. Quyền lực
chính trị phụ thuộc vào sự phát triển của sản xuất, của sự phân công lao động
xã hội và do đó phụ thuộc vào cơ cấu xã hội. Khi trình độ phát triển xã hội
còn thấp, sự phân công lao động chưa rộng, cơ cấu xã hội còn đơn giản thì
quyền lực chính trị chỉ có từ vài giai cấp cơ bản của xã hội. Khi trình độ phát
triển cao hơn, sự phân công lao động xã hội trải rộng, cơ cấu xã hội phức tạp
xuất hiện quyền lực chính trị của nhiều giai cấp, các nhóm xã hội và các lực
lượng xã hội khác nhau. Trong xã hội không còn giai cấp, cũng không còn
quyền lực chính trị nữa. Khi phân công lao động xã hội còn ở trình độ thấp,
cơ cấu xã hội còn đơn giản, quyền lực chính trị của giai cấp thống trị về kinh
tế về cơ bản đã được tổ chức thành nhà nước. Do vậy, khi nghiên cứu các giai
đoạn này, nhiều tác giả đã dồng nhất quyền lực chính trị với quyền lực nhà
nước. Trong các giai đoạn phát triển cao hơn, quyền lực chính trị và quyền lực
nhà nước có sự khác biệt rõ rệt hơn. Quyền lực chính trị phụ thuộc vào ba yếu
tố khách quan và chủ quan sau:
Thứ nhất, về khách quan, quyền lực chính trị phụ thuộc vào sự phân
công lao động xã hội, vào vị trí, vai trò của các giai cấp trong cơ cấu xã hội.
Thứ hai, về chủ quan, quyền lực chính trị phụ thuộc vào khả năng sử
dụng các nguồn lực của các giai cấp, các lực lượng xã hội, tức khả năng tập
trung quyền lực (tổ chức và tập hợp lực lượng).
Thứ ba, quyền lực chính trị phụ thuộc vào năng lực chi phối, ảnh hưởng
và sử dụng quyền lực nhà nước, nhằm đạt được mục đích của giai cấp mình.

4


Từ những yếu tố trên, có thể thấy rằng, một giai cấp có thể ở địa vị
thống trị, nhưng do sự phát triển kinh tế - xã hội, vị trí, vai trò của giai cấp đó
trong hệ thống sản xuất thay đổi, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan, vai trò
thống trị của giai cấp đó có thể bị mất, chuyển vào tay giai cấp khác. Sự thay
đổi khách quan như vậy đã từng diễn ra qua sự thay đổi của các phương thức
sản xuất. Vai trò thống trị đã lần lượt nằm trong tay giai cấp chủ nô, giai cấp
phong kiến, giai cấp tư sản, ...
Mặt khác, trong cùng một điều kiện khách quan như nhau, nhưng
quyền lực chính tị của một giai cấp ở mỗi nước khác nhau thì không giống
nhau. Trong cùng một quốc gia, nhưng quyền lực chính trị của một giai cấp
qua mỗi thời kỳ khác nhau có thể khác nhau. Sự khác biệt đó bị chi phối bởi
năng lực chủ quan của chủ thể quyền lực. Tức khả năng sử dụng những giá trị
xã hội, những nguồn lực có được, sự tổ chức lực lượng cả về vật chất và tư
tưởng, tinh thần, ... Nếu không có năng lực này, vị trí, vai trò khách quan của
một giai cấp, một nhóm xã hội, một lực lượng xã hội dù thuận lợi về mặt lịch
sử cũng chỉ mãi là nguồn lực, là khả năng, không thể trở thành giai cấp thống
trị xã hội được.
1.2. Tính chất quyền lực chính trị
1.2.1. Bản chất giai cấp của quyền lực chính trị
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, tư liệu sản xuất tập trung
trong tay một nhóm thiểu số người, hình thành những tầng lớp, giai cấp đầu
tiên trong xã hội. Quyền lực công cộng được thiết lập dựa trên sự thống nhất
ý chí chung của cộng đồng bị phá vỡ để thay vào đó là quyền lực của các tầng
lớp, giai cấp khác nhau. Giai cấp chủ nô chiếm ưu thế về kinh tế, giữ địa vị
thống trị xã hội. Tầng lớp nô lệ, những tầng lớp nhân dân tự do đã mất hết
quyền, trở nên phụ thuộc hoàn toàn vào giai cấp chủ nô.
Sự xuất hiện của nhà nước không làm mất đi mâu thuẫn giai cấp và đấu

tranh giai cấp, và do đó, chỉ là sự đánh dấu cuộc đấu tranh quyền lực chính trị
chuyển sang giai đoạn mới: diễn ra xoay quanh vấn đề giành, giữ và thực thi
5


quyền lực nhà nước. Từ đó, nhà nước trở thành trung tâm, vũ đài của cuộc
đấu tranh chính trị. Cuộc đấu tranh đó đòi hỏi các giai cấp phải tổ chức ra sức
mạnh của mình là quyền lực chính trị. Như vậy, ngay từ đầu, yếu tó giai cấp
đã quyết định nội dung của quyền lực chính trị.
Trong đời sống xã hội, lợi ích của các giai cấp thường mâu thuẫn với
nhau, đặc biệt là hai giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Khi một giai cấp
thực hiện lợi ích của mình thì đồng nghĩa với việc xâm phạm, chiếm đoạt lợi
ích của giai cấp khác. Vì vậy, đấu tranh giữa các giai cấp để bảo vệ lợi ích của
mình cũng là một nhu cầu khách quan và là nét đặc trưng cơ bản của xã hội
có giai cấp. Trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp cầm quyền bằng mọi cách bảo
vệ, củng cố địa vị kinh tế và địa vị chính trị của mình nhằm áp bức, bóc lột
các giai cấp khác. Ngược lại, các giai cấp bị trị cũng luôn vươn lên để chiếm
ưu thế, cải thiện địa vị chính trị của mình, đấu tranh bảo vệ lợi ích giai cấp.
Để đảm bảo thắng lợi trong các cuộc đấu tranh đó, tất cả các giai cấp không
ngừng củng cố, phát triển quyền lực chính trị của mình. Quyền lực chính trị
trở thành vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh giai cấp với nội dung là giành,
giữ và thực thi nó để nắm quyền kiểm soát xã hội. Vì vậy, hướng tới quyền
lực chính trị không chỉ là sự đam mê đơn thuần của một cá nhân hay giai cấp
nào đó, cũng như không phải là sự vận động tự thân của quyền lực, mà là mục
tiêu đấu tranh, là động lực của đấu tranh giai cấp.
Quyền lực chính trị tồn tại trong mối liên hệ lợi ích khi đặt nó trong
quan hệ với giai cấp khác. Tùy thuộc vào tương quan, so sánh lực lượng mà
các giai cấp ở vị thế khác nhau trong quan hệ với việc sử dụng quyền lực
chính trị.
Như vậy, chừng nào còn giai cấp thì còn chính trị, còn quyền lực chính

trị. Giai cấp nào cũng thống nhất trong việc bảo vệ lợi ích của mình, trong đấu
tranh giành quyền lực chính trị..
1.2.2. Tính xã hội của quyền lực chính trị
Quyền lực chính trị này sinh và phát triển trong lòng xã hội. Nó là sản
phẩm của xã hội phân chia giai cấp. Xã hội là cơ sở tồn tại của các giai cấp, vì
6


vậy, quyền lực chính trị không thể tách rời hay vượt ra ngoài xã hội mà nó
đang tồn tại. Chủ thể và khách thể quyền lực chính trị đều là những thành
phần tạo nên chỉnh thể xã hội, đều nằm trong một điều kiện tồn tại xã hội.
Trong sự vận động và phát triển của xã hội, một phương thức sản xuất lỗi thời
sẽ bị thay thế bởi một phương thức sản xuất tiên tiến để phù hợp với điều kiện
tồn tại của chế độ xã hội mới. Tương ứng với nó, các giai cấp mới xác lập hệ
thống tổ chức quyền lực chính trị để bảo vệ lợi ích giai cấp trong hoàn cảnh,
điều kiện mới. Như vậy, trong lịch sử xã hội không có một giai cấp nào tồn tại
vĩnh hằng, cũng không có một hệ thống quyền lực chính trị nào tồn tại vĩnh
viễn. Các giai cấp và hệ thống quyền lực của giai cấp chỉ được xác lập trong
điều kiện tồn tại cụ thể của xã hội. Các điều kiện xã hội đó quy định hình
thức, nội dung, bản chất của các giai cấp cũng như hệ thống quyền lực mà các
giai cấp đã xác lập trên nền tảng của xã hội đó, do đó, quyền lực chính trị
mang đậm tính xã hội.
1.2.3. Tính lịch sử và tính thống nhất của quyền lực chính trị
Sự ra đời, tồn tại, phát triển và tiêu vong của quyền lực chính trị mang
tính khách quan trong một giai đoạn lịch sử nhất định – giai đoạn có giai cấp.
Sự tồn tại một cách khách quan của giai cấp quy định quy định tính khách
quan của quyền lực chính trị. Các giai cấp, lực lượng xã hội chỉ có quyền lực
chính trị khi nó giành và giữ được quyền lực công, mà biểu hiện tập trung
nhất là ở quyền lực nhà nước. Quyền lực chính trị tồn tại cùng với giai cấp và
nhà nước. Trước kia, trong chế độ cộng sản nguyên thủy, và sau này trong chế

độ cộng sản chủ nghĩa không có giai cấp, không có nhà nước thì không còn
quyền lực chính trị.
Trong xã hội có giai cấp, do khác nhau về lợi ích nên các giai cấp đấu
tranh với nhau. Chính lợi ích là nền tảng và chất kết dính tạo nên sự bền vững
và ổn định của các giai cấp. Khi lợi ích giai cấp bị phân chia thì cơ sở để cấu
kết giai cấp cũng không còn. Vì vậy, giai cấp thống nhất ở tính lợi ích của nó.
Quyền lực chính trị là quyền lực của giai cấp, được thiết lập và duy trì để bảo
7


vệ lợi ích giai cấp nên về nguyên tắc và từ trong bản chất của nó, quyền lực
chính trị là thống nhất.
Tuy nhiên, sự thống nhất thường chỉ biểu hiện ở lợi ích cơ bản, còn lợi
ích cục bộ thì chưa hẳn, thậm chí còn mâu thuẫn gay gắt. Ở các nước tư bản
chủ nghĩa, các đảng phái, phe nhóm đấu tranh với nhau để giành quyền lực
chính trị, dường như quyền lực giai cấp tư sản bị phân chia, nhưng nó chỉ là
hình thức. Đấu đá giữa các phe nhóm, đảng phái của giai cấp tư sản chỉ mang
tính chất mâu thuẫn nội bộ. Về nguyên tắc, chúng vẫn thống nhất bởi lợi ích
cơ bản của chúng là giống nhau – đó là bóc lột giai cấp vô sản và các tầng lớp
lao động khác. Vì vậy, dù đảng nào cầm quyền cũng vậy, chỉ khác nhau về
hình thức, còn bản chất không bao giờ thay đổi.
1.2.4. Tính tập trung của quyền lực chính trị
Trong quan hệ quyền lực ở xã hội dân chủ, một cá nhân hay một tổ
chức được bầu ra, đại diện cho quyền lực của tập thể, cộng đồng. Quyền lực
có được do các thành viên thừa nhận, họ bầu ra để lãnh đạo chính họ, làm cho
hoạt động của họ được phối hợp chặt chẽ, tạo nên sức mạnh lớn hơn. Theo
Rutxô, con người không thể tạo ra lực mới mà chỉ kết hợp và điều khiển
những lực sẵn có, cho nên, phương pháp duy nhất của con người tự bảo vệ là
họ phải kết hợp lại với nhau thành một lực lượng chung, khiến cho mọi người
đều hành động một cách hài hòa.

Quá trình hình thành quyền lực là quá trình tập trung, tập hợp ý chí
chung, tạo nên sự đồng lòng nhất trí trong tổ chức, cộng đồng. Đây là hình
thức phổ biến của con đường hình thành quyền lực; từ thị tộc, bộ lạc đến đảng
phái, nhà nước. Nếu thiếu tập trung thì không thể tạo ra quyền lực, mức độ
tập trung càng cao, tổ chức càng chặt chẽ, gắn bó thì quyền lực của tổ chức
càng mạnh. Tập trung là một tính chất cơ bản của quyền lực.
Điều kiện để các thành viên tập trung quyền lực là họ phải có quyền
chính trị. Trong xã hội hiện đại, quyền đó là quyền bầu cử. Tập hợp của
những lá phiếu sẽ là sức mạnh chính trị, là quyền lực chính trị trong đấu
8


tranh chính trị. Ngoài ra, sự tập trung, thống nhất ý chí của các thành viên
trong mỗi chủ thể quyền lực thì quyền lực chính trị còn được tổ chức hết sức
chặt chẽ, với cấu trúc phức tạp nhằm thiết lập sức mạnh giai cấp cho cuộc
đấu tranh giai cấp. Ngoài ra, sức mạnh của các giai cấp không chỉ là ý chí
chung của các thành viên, mà còn đucợ sự hỗ trợ của bạo lực, tiềm lực kinh
tế, tư tưởng, ... Do vậy, trong cuộc đấu tranh chính trị của các giai cấp, lực
lượng chính trị thường là sức mạnh tổng hợp để buộc các giai cấp khác phục
tùng ý chí của mình. Ở mỗi dạng tổ chức, hình thức, mức độ tập trung quyền
lực chính trị khác nhau, nhưng chúng vẫn là tính chất chung của tổ chức
quyền lực..
Do tính chất tập trung mà quyền lực được tập trung vào tay một người
hay một nhóm người nắm giữ. Ý chí chung của tập thể được một người hay
nhóm người điều khiển nên họ dễ dàng sử dụng cho mục đích riêng dẫn đến
tha hóa quyền lực. Mặt khác, do tập trung, ý chí chung phụ thuộc vào người
cầm đầu, nên yếu tố thủ lĩnh chính trị rất quan trọng.
1.2.5. Tính tha hóa của quyền lực chính trị
Tha hóa nghĩa là một sự vật, hiện tượng bị biến đổi, trở thành cái khác,
đối lập với cái ban đầu đã sinh ra nó. Do tính chất tập trung của quyền lực nên

nó dễ bị tha hóa. Từ chỗ là quyền lực của số đông, đem tập trung lại để cho
một người hay một nhóm người nắm giữ và điều khiển nên càng tập trung,
càng thống nhất ý chí thì quyền lực càng mạnh. Nhưng mức độ tập trung càng
cao thì quyền lực càng xa với cái gốc rễ ban đầu và trở thành cái đối lập với
nền tảng đó. Đây là một mâu thuẫn trong tính tập trung của quyền lực: quyền
lực càng tập trung càng dễ bị biến dạng và tha hóa.
Trong xã hội nguyên thủy, quyền lực công cộng được trao cho Hội
đồng thị tộc, tù trưởng, nhưng không bị tha hóa. Chỉ đến khi xuất hiện sở hữu
tư nhân, giai cấp, quyền lực công bị một số người chiếm giữ, bị tha hóa thành
quyền lực chính trị. Chính chế độ sở hữu tư nhân là cơ sở, điều kiện cho sự
tha hóa quyền lực. Khi quyền lực chính trị được thiết lập thì tự bản thân nó đã
9


chứa điều kiện cần và đủ cho sự tha hóa đó. Nếu coi lợi ích kinh tế là nguyên
nhâ trực tiếp dẫn đến sự tha hóa thì mâu thuẫn giữa chế độ tư hữu và quyền
lực công cộng là nguyên nhân sâu xa, tiềm tàng tạo nên tính chất tha hóa của
quyền lực chính trị. Tính chất tha hóa của quyền lực chính trị chỉ mất đi khi
cơ sở sinh ra nó – sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bị triệt tiêu, khi loài
người thiết lập được chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Khi đó, quyền lực
chính trị cũng không còn, nhà nước bị tiêu vong, loài người bước vào một chế
độ xã hội mới – chế độ cộng sản chủ nghĩa.
1.3. Yêu cầu cơ bản trong thực thi quyền lực chính trị
1.3.1. Tính chính đáng trong quyền lực chính trị
Quyền lực chính trị không bao giờ là tuyệt đối, vì luôn cần sự chấp
nhận của đối tượng. Một giai cấp để có thể thực thi quyền lực chính trị cần tạo
ra cho mình tính chính đáng, tức tạo được sự thừa nhận rộng rãi trong xã hội
về sự xứng đáng lãnh đạo của mình. Tính chính đáng càng cao càng cần ít chi
phí cưỡng chế, và mục đích càng đạt được nhanh và chính xác hơn. Tính
chính đáng được thừa nhậndựa trên ba yếu tố: tính đại diện, tính hợp lý, tính

hợp pháp.
Đại diện lợi ích cho người dân: Thể hiện ở tính dân chủ trong hoạt động
chính trị, dựa trên uy tín của người đứng đầu, năng lực và phẩm chất của đội
ngũ hoạt động chính trị, sự tham gia tích cực của đông đảo quần chúng nhân
dân.
Tình hợp lý: chủ yếu thể hiện ở tính khoa học trong việc tổ chức hệ
thống chính trị, thể hiện trước hết ở Hiến pháp và pháp luật, sau đó là các
hoạt động chính trị thực tiễn. Phần này có thể coi là phần các tri thức có tính
kỹ thuật (về quản lý nhà nước, ...) trong việc tổ chức xã hội để đạt được các
mục tiêu chính trị (phát triển, giàu có, công bằng, dân chủ, ...) một cách hiệu
quả nhất.
Tính hợp pháp của các cơ quan quyền lực: biểu hiện chủ yếu ở các hình
thức lựa chọn người, cơ quan lãnh đạo và ra quyết định, trong đó hệ thống
10


bầu cử có vai trò trung tâm. Từ đây xuất hiện các vấn đề liên quan đến “quyền
lực liên tục” và “quyền lực gián đoạn” (nhiệm kỳ của người lãnh đạo).
Những nhân tố trên có mối quan hệ mật thiết và tác động qua lại với
nhau trong quá trình phát triển và hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực
chính trị. Mức độ hoàn thiện các nhân tố đó biểu hiện sự trưởng thành của
giai cấp trong đời sống chính trị - xã hội.
Theo M.Weber, trong các tổ chức của xã hội có ba loại quyền lực đucợ
cho là chính đáng: quyền lực truyền thống, quyền lực dựa trên uy tín, quyền
lực hợp lý. Mỗi loại quyền lực kể trên được xác lập theo những phương thức
khác nhau và được người dân chấp nhận vì tin vào tính chính đáng của nó.
Tính chính đáng của quyền lực truyền thống dựa trên sự kế thừa những mô
hình quản lý kiểu cũ. Tính chính đáng của quyền lực uy tín dựa trên sự thuyết
phục và những hành động được cộng đồng nể trọng. Và tính chính đáng của
quyền lực hợp lý được xác lập dựa trên các thể chế đã được nhất trí. Tính

chính đáng trong chính trị được hiểu là sự chấp nhận của người dân đối với
một chế độ cai trị hay niềm tin vào một sự cai trị hợp lý.
1.3.2. Quyền lực chính trị phải được tổ chức chặt chẽ
Không có tổ chức quyền lực chính trị thì không thể có quyền lực chính
trị. Tập trung là nguyên tắc cơ bản của tổ chức quyền lực chính trị. Nó được
biểu hiện bằng một cấu trúc hình chóp, trong đó ba phần cơ bản liên hệ chặt
chẽ với nhau tạo thành hệ thống quyền lực. Phần đáy là các chủ thể, cá nhân
có quyền chính trị là nền tảng của quyền lực. Tương ứng với nó trên thực tế là
những người ủng hộ hay những cử tri đi bỏ phiếu. Phần trung gian là hệ
thống tổ chức liên hệ, tập hợp các thành viên thành nhóm và liên hệ các nhóm
với nhau. Tương ứng trong thực tế là các đảng phái, các nhóm lợi ích. Nó có
chức năng liên hệ giữa phần đáy và phần chóp. Phần đỉnh là đầu não, tổ chức
lãnh đạo của hệ thống. Đây là phần có quyền lực thực tế nhất. Bộ phận này là
trung tâm định hướng, tổ chức điều hành các hoạt động, là trung tâm phát
động quyền lực trong toàn hệ thống. Tương ứng với phần này trên thực tế là
bộ phận lãnh đạo các nhóm, trung ương đảng, bộ máy nhà nước. Đỉnh cao
11


nhất của hình chóp là cá nhân, lãnh tụ cá nhân, lãnh tụ nhóm, chủ tịch đảng
hay nguyên thủ quốc gia.
Như vậy, quyền lực qua quá trình tổ chức đã cô đọng lại, dồn vào nhóm
nhỏ lãnh đạo và cao hơn hết là một cá nhân. Quyền lực đó vận hành, chi phối
các hoạt động của nội bộ tổ chức hoặc vận hành trong hệ thống các quan hệ
với chủ thể khác.
1.3.3. Quyền lực chính trị phải được tập trung đủ mức và phải được
kiểm soát
Sự tập trung quyền lực quá mức hay phân tán đều có tác động tiêu cực
đến sự phát triển. Người (nhóm người) có quyền lực thường có xu hướng tha
hóa, lạm quyền, dẫn đến quan liêu, chuyên quyền độc đoán, quyết định công

việc theo ý chí chủ quan, kìm hãm sự tự do sáng tạo. Đây là căn bệnh phổ
biến của tập trung quyền lực. Ngược lại, nếu dân chủ thái quá, người đứng
đầu, cơ quan quyền lực trung ương không có đủ sức mạnh, quyền lực phân
tán ở các cá nhân, các địa phương thì dẫn đến hỗn loạn, vô tổ chức, vô kỷ
luật. Cả hai thái cực đều là kẻ thù của nền tự do chân chính, vì vậy cần tôn
trọng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, khi trao quyền lực cho các chủ thể đồng thời
cũng phải có cơ chế kiểm tra, giám sát một cách chặt chẽ, để đảm bảo được
quyền lực thực thi đúng đắn và hiệu quả. Trong các giai đoạn lịch sử, có cơ
chế kiểm tra, giám sát quyền lực khác nhau: từ thành lập Hội đồng nguyên lão
thời Hy Lạp – La Mã cổ đại đến tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc
tam quyền phân lập, thành lập các ban thanh tra, ủy ban kiểm tra, phát huy vai
trò của các đảng phái đối lập, các tổ chức chính trị - xã hội, của báo chí, ...
trong giai đoạn ngày nay.
1.4. Vấn đề quyền lực chính trị theo quan điểm của chú nghĩa Mác
– Lênin
Trong xã hội hiện đại, quyền lực và quyền lực chính trị là những vấn đề
được nhắc đến ngày càng nhiều. Cùng với sự ra đời và phát triển của các loại
12


hình tổ chức xã hội, vấn đề thực thi quyền lực nhằm đạt tới hiệu quả quản lý
cao nhất trong các tổ chức ngày càng được các nhà lãnh đạo, quản lý quan
tâm. Tuy nhiên, nhận thức như thế nào là đúng về quyền lực chính trị và thực
thi quyền lực chính trị lại là một vấn đề còn gây tranh cãi.
Xu hướng mơ hồ về quyền lực chính trị và nguồn gốc của nó là nguyên
nhân của hàng loạt sự chệch hướng, thậm chí sai lầm trong hoạt động thực
tiễn hiện nay. Để có thể lý giải cặn kẽ, từ đó có thái độ đúng đắn, khoa học về
vấn đề này, việc trở lại nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống về quyền
lực chính trị và các phương thức thực thi quyền lực chính trị trong kho tàng lý

luận Mác-xít nói chung, trong các tác phẩm kinh điển của V.I.Lênin nói riêng
là việc làm có ý nghĩa rất quan trọng.
Trong lịch sử xuất hiện giai cấp, chính trị và nhà nước, quyền lực bao
giờ cũng thể hiện cao nhất ở quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước của một
giai cấp nào đó. Do vậy, quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước luôn mang
tính giai cấp. Về vấn đề này, V.I.Lênin chia sẻ quan niệm của C.Mác và
Ph.Ăngghen về nhà nước, về bộ máy quyền lực của các giai cấp. Hơn nữa,
ông cũng tiếp tục phát triển quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về quyền
lực chính trị với tư cách là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một
giai cấp khác, đã phân tích sâu sắc thêm với sự bổ sung những dữ kiện của
tình hình mới và chỉ rõ quyền lực của giai cấp thống trị nào phải bị xóa bỏ,
thể chế nhà nước nào phải bị thay thế, và thông qua con đường cách mạng xã
hội với phương thức phổ biến của nó là bạo lực, là khởi nghĩa vũ trang thì giai
cấp mới nào sẽ lên thay giai cấp thống trị cũ, sẽ xác lập vị trí thống trị của
mình, sẽ lập ra thể chế nhà nước của mình như là công cụ thực hiện quyền
lực, thực hiện quyền thống trị của mình.
V.I.Lênin đã chỉ ra bản chất mới của quyền lực chính trị và bộ máy thực
thi quyền lực chính trị trong thời đại mình. Theo ông, chuyên chính vô sản
mang bản chất giai cấp công nhân – giai cấp đã được giải phóng khỏi tình
trạng nô lệ, đã trở thành giai cấp thống trị, là chủ thể của quyền lực. Cái mới ở
13


đây chính là sự gắn bó mật thiết của giai cấp công nhân với toàn thể nhân dân
lao động trong thực hiện lợi ích và quyền lực của mình. Bản chất mới đó của
quyền lực chỉ xuất hiện với giai cấp vô sản cách mạng, khi nó thực hiện thành
công cách mạng vô sản, xác lập được địa vị thống trị và thực thi quyền lực
chính trị, quyền lực nhà nước của mình.
Nếu như thời của C.Mác và Ph.Ăngghen, Công xã Pari là sự thể
nghiệm lịch sử đầu tiên quan niệm lý luận về quyền lực của các nhà kinh điển

Mác-xít và đã thiết lập được nền quyền lực của giai cấp vô sản, cho dù nền
quyền lực đó chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, thì đến thời
của V.I.Lênin, Cách mạng Tháng Mười Nga và chính quyền Xô viết là một sự
hiện thực hóa thực sự những quan niệm này. Thực tế xã hội Xô viết trong và
sau Cách mạng Tháng Mười là một minh chứng điển hình về bản chất và con
đường hình thành nên quyền lực của giai cấp vô sản và nhân dân lao động.
Tiếp tục tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã luận chứng
một cách sâu sắc về cơ sở kinh tế dẫn đến sự “tự tiêu vong” của nhà nước
chuyên chính vô sản, của bộ máy thể chế quyền lực chính trị thuộc về giai cấp
vô sản và nhân dân lao động. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, quyền lực chính trị,
tức là quyền lực nhà nước bao giờ cũng dựa trên một cơ sở kinh tế, một nền
tảng vật chất nhất định; Bộ máy nhà nước là sản phẩm tất yếu của kinh tế, là
phương thức và công cụ để thực hiện quyền lực và bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị. Khi thực hiện sứ mệnh lịch sử xóa bỏ mọi sự thống trị giai cấp của
giai cấp tư sản và của mọi giai cấp nói chung, giai cấp vô sản cũng thực hiện
xóa bỏ bản thân các giai cấp và xóa bỏ chính mình với tư cách là một giai cấp.
Như vậy, bộ máy thực thi quyền lực chính trị với tư cách là công cụ của một
giai cấp dùng để trấn áp một giai cấp khác cũng trở nên không cần thiết, dẫn
đến việc “tự tiêu vong”.
V.I.Lênin cũng thống nhất với C.Mác và Ph.Ăngghen ở chỗ, coi việc
giành, giữ và kiểm soát quyền lực chính trị là một bước đi không thể bỏ qua
của cách mạng vô sản. Để giải phóng mình và giải phóng toàn thể nhân loại,
14


trước hết, giai cấp vô sản phải xóa bỏ, lật đổ quyền lực thống trị xã hội của
giai cấp tư sản. Muốn vậy phải tiến tới đấu tranh chính trị để giành lấy
quyền thống trị xã hội cho giai cấp vô sản vì không thể chờ đợi cho chủ
nghĩa tư bản tự cải biến thành chủ nghĩa xã hội và cũng không thể chờ cho
bộ máy chính quyền cũ tự tan rã, vì “chính phủ cũ là chính phủ, ngay cả

trong thời kỳ có những cuộc khủng hoảng, cũng sẽ không bao giờ “đổ” nếu
không đẩy cho nó “ngã”.
Về vấn đề thực thi quyền lực chính trị, theo V.I.Lênin, tính triệt để của
việc thực thi quyền lực chính trị trong thực tiễn phải được đánh giá, kiểm
chứng bằng hành động chứ không phải bằng lời nói. Ông cho rằng, chuyên
chính vô sản là mục đích trực tiếp, gần nhất của đấu tranh chính trị của giai
cấp vô sản, nó tất yếu đòi hỏi phải tiến tới hành động cách mạng vô sản để
vấn đề quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước của giai cấp vô sản trở thành
thực tế. Giai cấp vô sản phải giành lấy quyền lực chính trị để xóa bỏ cả thể
chế nhà nước tư sản lẫn chế độ tư hữu tư sản về tư liệu sản xuất, xác lập sở
hữu xã hội.
V.I.Lênin đặc biệt lưu ý rằng giai cấp tư sản không bao giờ tự rời bỏ
quyền lực của nó, thậm chí khi cảm thấy quyền lực đang lung lay hoặc đã bị
mất, nó thường phản ứng điên cuồng để chống lại lực lượng cách mạng, để
củng cố hoặc giành lại quyền lực vừa bị lật đổ. Do đó, về nguyên tắc, giai cấp
vô sản cách mạng không bao giờ được từ bỏ nguyên tắc đấu tranh giai cấp và
cách mạng xã hội trong quá trình thực thi quyền lực chính trị của mình.
Nói về vấn đề thực thi quyền lực chính trị, V.I.Lênin đã diễn tả một
cách hình ảnh rằng “trong mỗi thời kỳ đặc biệt, cần phải biết tìm ra cái mắt
xích đặc biệt mà người ta phải đem toàn lực ra nắm lấy để giữ vững được.
Ông cho rằng, việc tiến hành đấu tranh chính trị để giành được quyền lực vào
tay giai cấp vô sản là cả một nghệ thuật, trong đó thể hiện sự mềm dẻo, linh
hoạt và khôn ngoan khi thực hiện các sách lược mà vẫn đảm bảo tính kiên
định và các nguyên tắc của chiến lược.
15


Về phương thức thực thi quyền lực trong cách mạng vô sản, V.I.Lênin
khẳng định cần phải sử dụng một cách linh hoạt phương pháp bạo lực và
phương pháp hòa bình. Phát huy những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen,

V.I.Lênin đã phân tích đặc điểm của nhà nước tư sản trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa và rút ra kết luận về tính tất yếu phổ biến của cách mạng bạo lực.
Ông viết: nhà nước tư sản bị thay thế bởi nhà nước vô sản không thể bằng con
đường “tiêu vong” được mà chỉ có thể, theo quy luật chung, bằng một cuộc
cách mạng bạo lực thôi . Ở đây, cần phải thấy rằng, không phải V.I.Lênin và
các nhà Mác-xít nói chung chỉ biết say sưa với bạo lực. Cả C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều đã nhiều lần nhấn mạnh sự cần thiết phải tìm
kiếm những khả năng hòa bình, càng không đổ máu càng tốt. Tuy nhiên, ở
thời đại mình, V.I.Lênin với việc chứng kiến sự hoành hành của bộ máy cảnh
sát, của chủ nghĩa quân phiệt, của bọn đế quốc phản động trong thời kỳ đế
quốc chủ nghĩa, đã nhấn mạnh rằng khả năng phát triển cách mạng một cách
hòa bình là “cực kỳ quý báu” nhưng cũng “cực kỳ hiếm hoi” và “đặc biệt
hiếm hoi”. Vì vậy, Ông kết luận: Trong hoàn cảnh nước Nga lúc đó, chính giai
cấp tư sản Nga đã buộc giai cấp công nhân Nga phải tiến hành nội chiến và
không thể thực hiện cái “cơ hội cuối cùng” là phát triển cách mạng một cách
hòa bình.
Sau khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản đã trở thành chủ
thể quyền lực, đại diện cho toàn xã hội để thực thi quyền lực xã hội, những
bàn luận của V.I.Lênin về vấn đề quyền lực chính trị và thực thi quyền lực
chính trị đã được bổ sung thêm các nội dung mới. Từ giai đoạn đấu tranh
giành quyền lực, giai cấp vô sản đã chuyển sang đấu tranh để giữ vững và
thực thi quyền lực đó trong xây dựng và củng cố chế độ xã hội của mình. Đến
thời kỳ này, giai cấp công nhân phải tập làm quen với công việc mới, thích
ứng với yêu cầu mới, phải học cách lãnh đạo và quản lý, đặc biệt là quản lý
kinh tế và quản lý nhà nước, bảo đảm tốt nhất sự ủy quyền của nhân dân, làm
cho việc thực thi quyền lực đó không bị biến dạng, thoái hóa, để cho quyền
lực thực sự là của dân và dân thực sự được làm chủ, trở thành người chủ.
16



Đến lúc này, nhiệm vụ tổ chức trở nên cực kỳ quan trọng. Cơ sở của
chiến thắng trong giai đoạn này là sức mạnh kinh tế, là năng suất lao động xã
hội dựa trên tài năng lãnh đạo, năng lực tổ chức và hiệu quả quản lý để đông
đảo quần chúng phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo vào xây
dựng chế độ mới. Trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính
quyền Xô viết”, V.I.Lênin cho rằng lĩnh vực trọng yếu nhất và khó khăn nhất
của cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ tổ chức, quản lý. Trong điều kiện
mới của thực tiễn cách mạng, Ông xác định: “Ngày nay, nhiệm vụ quản lý đã
trở thành nhiệm vụ chủ yếu và trung tâm”, “Chúng ta phải suy nghĩ kỹ rằng
muốn quản lý được tốt, thì ngoài cái tài biết thuyết phục, biết chiến thắng
trong cuộc nội chiến, còn cần phải biết tổ chức trong lĩnh vực thực tiễn. Đó là
nhiệm vụ khó khăn nhất…”. Ở đây, nhiệm vụ tổ chức, quản lý bao gồm cả
nhiệm vụ kinh tế và nhiệm vụ chính trị. Theo V.I.Lênin, nếu chính trị luôn
luôn biểu hiện mối quan hệ giữa các giai cấp trên vấn đề quyền lực và mục
đích trực tiếp của chính trị là xây dựng quyền lực nhà nước thì đối với giai
cấp vô sản, khi đã giành được quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước rồi,
“chính trị phải là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”.
Trong công tác tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước mới, V.I.Lênin rất
nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác tổ chức cán bộ. Ông cho rằng phải có
tổ chức mạnh và cán bộ giỏi, đầy tài năng sáng tạo, có tinh thần trách nhiệm và
bản lĩnh dám chịu trách nhiệm. V.I.Lênin đòi hỏi phải chú ý tìm cho ra và thử
thách một cách hết sức nhẫn nại, thận trọng những người thực sự có tài tổ chức,
những người có bộ óc sáng suốt, có bản lĩnh tháo vát trong thực tiễn. Đây là
những người vừa trung thành với chủ nghĩa xã hội vừa có khả năng bất chấp
mọi sự ồn ào và hỗn loạn trong tổ chức để có thể thực hiện một cách vững chắc
và nhịp nhàng công việc, làm chuyển cả một khối người to lớn trong phạm vi
tổ chức Xô viết. “Cái mấu chốt không phải là chính quyền, mà mấu chốt chính
là biết lãnh đạo, biết đặt người cho đúng chỗ, biết tránh những cọ xát nhỏ để
làm thế nào cho hoạt động kinh tế của nhà nước khỏi bị gián đoạn”.
17



Chương 2:
QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Bản chất và cơ chế thực hiện quyền lực chính trị
2.1.1. Bản chất quyền lực chính trị
Quyền lực chính trị mang bản chất giai cấp sâu sắc. Trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, mọi quyền lực chính trị đều
thuộc về nhân dân. Nhân dân vừa là chủ thể của quyền lực chính trị vừa là
người thực hiện quyền lực chính trị. Nhân dân có quyền có một nhà nước xã
hội chủ nghĩa đảm bảo cho họ là chủ thể của quyền lực chính trị nhằm thực
hiện lợi ích khách quan của mình, đồng thời, quyền lực chính trị đó là một giá
trị xã hội mang tính chất nhân văn, nó là thành quả đấu tranh của con người
cho sự hoàn thiện của chính bản thân và cho sự tiến bộ xã hội. Bản chất giai
cấp của quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay là:
- Quyền lực chính trị của nhân dân mang bản chất giai cấp công nhân.
Tổ chức quyền lực nhà nước của giai cấp công nhân là tiền đề chính trị đảm
bảo cho nhân dân thực sự trở thành chủ thể của quyền lực nói chung, quyền
lực chính trị nói riêng.
- Quyền lực chính trị của nhân dân mang tính đảng cộng sản. Đảng giữ
vững lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, đại diện cho lợi ích
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã hội là điều kiện tiên quyết để giữ
vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước và quyền lực chính trị của
nhân dân.
- Quyền lực chính trị của nhân dân mang tính chất dân tộc. Cuộc đấu
tranh giành quyền lực chính trị của nhân dân lúc đầu mang hình thức đấu tranh
dân tộc. Nhân dân lao động gắn những nhiệm vụ xã hội của mình với các
nhiệm vụ dân tộc đem lại quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc.
- Quyền lực chính trị của nhân dân mang tính nhân dân. Quyền lực này

là kết quả đấu tranh của quần chúng nhân dân, quyền lực chính trị của nhân
18


dân được thể hiện và thực thi đầy đủ trên cơ sở công nhận nguyên tắc: toàn bộ
quyền lực thuộc về nhân dân.
2.1.2. Cơ chế thực hiện quyền lực chính trị
Trên thực tế, quyền lực chính trị của nhân dân rất rộng, vì vậy chính
bản thân họ không thể thường xuyên và trực tiếp thực hiện quyền lực chính trị
của mình và không phải bất cứ công việc gì của đời sống xã hội cũng có thể
đưa ra trước cộng đồng bàn bạc, quyết định, vì vậy phải có các cơ quan hoạt
động thường xuyên, là công cụ để nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của
mình. Dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp là hai phương thức để nhân dân
thực hiện quyền lực chính trị của mình.
Hệ thống chính trị là cơ chế chủ yếu đảm bảo quyền lực chính trị của
nhân dân trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí
thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cơ chế vận hành nhằm đảm bảo quyền lực
chính trị của nhân dân ở Việt Nam hiện nay là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, Nhân dân làm chủ.
Nhân dân trao quyền lực của mình cho Đảng, hay nói cách khác, Đảng
được nhân dân ủy quyền lãnh đạo đất nước. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh,
đường lối; bằng công tác tư tưởng, công tác cán bộ, công tác kiểm tra, bằng
nêu cao vai trò tiên phong của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Nhà nước quản lý là nhà nước thay mặt nhân dân quản lý các quá trình
kinh tế - xã hội theo đường lối chính trị của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước được thể chế hóa thành pháp luật,
quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội
theo pháp luật. Quyền lực chính trị của nhân dân được hợp pháp hóa bằng nhà
nước và nhà nucớ là công cụ hữu hiệu để thực hiện quyền lực của nhân dân.
Nhà nước có đầy đủ sức mạnh, tổ chức vật chất, sức mạnh cưỡng chế, có đầy

đủ các phương tiện vật chất cần thiết để đảm bảo thực hiện quyền lực chính trị
của nhân dân.
Nhân dân làm chủ thể hiện trên hai phương diện: có điều kiện tham gia
vào lĩnh vực chính trị, vào hoạt động của hệ thống chính trị và hệ thống chính
19


trị phải thể hiện là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đặc biệt, nhân dân
làm chủ thông qua các đoàn thể nhân dân do chính mình lập ra. Thông qua
các tổ chức này, lợi ích chung của toàn xã hội, cộng đồng, cá nhân được kết
hợp hài hòa, làm tiền đề cho đoàn kết dân tộc, củng cố mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng với Nhân dân.
Dân chủ trực tiếp là phương thức thể hiện chủ động, trực tiếp vai trò
làm chủ của nhân dân trong các quyết định chính trị quan trọng của đất nước.
Dân chủ trực tiếp cần ba yếu tố: mọi người đều có quyền bày tỏ ý chí của
mình; sự bày tỏ ý chí trực tiếp, không thông qua cá nhân hay tổ chức nào; ý
chí công dân là quyết định chứ không chỉ có giá trị tham khảo. Ở nước ta, coi
trọng dân chủ trực tiếp là làm phong phú thêm hình thức thực hiện quyền lực
chính trị của nhân dân lao động. Đây là khả năng thể hiện một cách khách
quan nhất ý chí, nguyện vọng của nhân dân không qua một hình thức trung
gian nào và thể hiện một cách ưu việt nhất quyền lực của nhân dân. Ngay
trong Hiến pháp năm 1946, đã có quy định nhân dân có quyền phúc quyết
Hiến pháp sau khi được Quốc hội thông qua.
2.2. Nội dung quyền lực chính trị của nhân dân
Trong giai đoạn hiện nay, quyền lực chính trị của nhân dân từng bước
được xác lập trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Trên lĩnh vực chính trị: Quyền lực của nhân dân được đảm bảo trước
hết bởi Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nucớ do nhân
dân bầu ra, nhân dân ủy quyền quản lý, điều hành đất nước, dân kiểm tra,
giám sát của hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước. Nhà nước là công cụ

thực hiện quyền lực chính đáng của nhân dân. Nhân dân có quyền tham gia
vào công việc nhà nước, có quyền thảo luận, góp ý vào các vấn đề có liên
quan trực tiếp lợi ích của mình, thông qua trưng cầu dân ý, đóng góp ý kiến
vào xây dựng Hiến pháp, pháp luật, ... Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên nền
tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mọi người

20


dân có quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng trong khuôn
khổ pháp luật.
- Trên lĩnh vực kinh tế: Quyền lực của nhân dân được bảo đảm thông
qua thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thông qua cơ chế
kinh tế. Mọi người dân đều được tham gia vào sở hữu và quản lý kinh tế dưới
nhiều hình thức khác nhau; thông qua việc kết hợp kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội của Nhà nước với phát huy quyền chủ động, sáng tạo của doanh
nghiệp, người dân sản xuất kinh doanh.
- Trên lĩnh vực xã hội: quyền con người, quyền được bảo vệ về mặt xã
hội của mọi công dân được đảm bảo, khắc phục dần sự khác biệt giữa các
tầng lớp xã hội, các vùng miền đất nước, từng bước giải phóng con người
khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, bất công, thực sự được tự do, hạnh phúc.
Trên lĩnh vực văn hóa: Nhân dân là chủ thể sáng tạo ra các giá trị văn
hóa, là đối tượng hưởng thụ các thành quả văn hóa. Việc thực hiện quyền lực
của nhân dân trên lĩnh vực văn hóa đòi hỏi phải giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm vai trò chủ đạo của thế giới quan Mác – Lênin, thực hiện
dân chủ hóa trên lĩnh vực văn hóa, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo văn hóa
trong nhân dân.
2.3. Quyền lực chính trị trong hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam là hệ thống các thiết chế chính trị,
chính trị - xã hội và các thiết chế xã hội khác gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội rộng lớn của nhân dân; cơ chế vận hành các thiết chế đó dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quan niệm về hệ thống chính trị - xã hội
như thế được hình thành trên cơ sở gắn kết giữa hai hệ thống thiết chế xã hội
là hệ thống chính trị (hệ thống thiết chế trực tiếp thực hiện quyền lực chính
trị) và hệ thống xã hội. Trong điều kiện xây dựng cơ chế thực hiện và đảm bảo
quyền lực nhân dân ở nước ta hiện nay, sự gắn kết của hai hệ thống ấy thành
21


một hệ thống lớn là điều có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc và cần được chú
trọng nghiên cứu cả về lí luận và thực tiễn.
Từ trước, chúng ta vẫn nhận thức chung rằng đặc điểm của hệ thống
chính trị nước ta là tính thống nhất cao dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam. Hệ thống chính trị nước ta không phải là hệ thống của các thiết chế
đối lập nhau về lợi ích. Đảng là một thành viên của hệ thống đó nhưng Đảng
giữ vai trò lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng là một tất yếu lịch sử không
thể phủ nhận... Trong điều kiện hiện nay, nhận thức đó vẫn không sai nhưng
chưa hoàn toàn đầy đủ. Sự tham gia của các lực lượng xã hội vào hoạt động
chung của hệ thống chính trị - xã hội đã làm thay đổi tính chất thuần nhất của
hệ thống chính trị truyền thống. Kết quả hoạt động của cả hệ thống này là sản
phẩm của sự tương tác (tác động qua lại) về chính trị - xã hội rất đa dạng.
Trong tính thống nhất của lợi ích quốc gia, dân tộc vẫn có sự đa dạng và
phong phú về lợi ích của những nhóm xã hội khác nhau. Nền chính trị hiện
đại không thể là sản phẩm của riêng hệ thống chính trị như quan niệm truyền
thống mà tất yếu phải là kết quả của cả hệ thống chính trị - xã hội, trong đó
lợi ích vẫn là động lực chính quy định và thúc đẩy hoạt động của mỗi nhóm
xã hội. Như thế, để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, cần đổi mới mạnh mẽ
phương thức hoạt động của Đảng đồng thời nêu cao vai trò của tất cả các thiết

chế trong toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội đó.
Đặc trưng của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam như vừa nêu phản
ánh tính riêng biệt và cả tính phổ biến của hệ thống chính trị - xã hội nước ta
trong mối liên hệ so sánh với hệ thống chính trị - xã hội các nước trên thế
giới. So với hệ thống chính trị trước đây, chúng ta đã ghi nhận sự hiện diện
của các thiết chế xã hội, của quyền lực xã hội trong một hệ thống chung là hệ
thống chính trị - xã hội (Việc khẳng định mối liên hệ thống nhất hữu cơ giữa
các thiết chế chính trị, chính trị - xã hội với các thiết chế xã hội trong cùng
một hệ thống như vậy có thể được coi là điểm mới trong nhận thức về chính
trị của chúng ta ở giai đoạn hiện nay hay không, tác giả xin được tiếp tục trao
đổi cùng bạn đọc trong những nghiên cứu ở một phạm vi khác).
22


Với cách nhận thức thống nhất giữa quyền lực chính trị và xã hội,
chúng ta có thể xác định được cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt
Nam. Hệ thống đó gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
quần chúng và các tổ chức xã hội rộng lớn của nhân dân.
Trong hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, điểm mới đáng chú ý so với
cấu trúc của hệ thống chính trị như trước đây là sự hiện diện của các tổ chức
xã hội rộng lớn của nhân dân, đặc biệt là các hội đoàn trong lĩnh vực kinh tế xã hội, các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp, kinh doanh, dịch vụ xã hội... Tuy
không trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước
nhưng trong điều kiện của nền dân chủ XHCN, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các thành viên, các tổ chức này có tác động ngày càng to lớn đến đời
sống kinh tế - chính trị của đất nước. Đảng, Nhà nước không quản lí trực tiếp
đối với các tổ chức này nhưng có mối liên hệ mật thiết với các tổ chức đó.
Đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước có được xây dựng và
thực thi tốt hay không, nhất là các vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền và
lợi ích của các thành viên tổ chức hiệp hội, không thể không tính đến vai trò
và sự tác động tích cực của các tổ chức xã hội. Với ý nghĩa đó thì có thể quan

niệm, các tổ chức xã hội được coi là hệ thống phản biện của hệ thống chính
trị. Hoạt động tư vấn, giám định và phản biện xã hội đối với đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước phải được coi là hoạt
động cơ bản và thể hiện sinh động nhất vai trò mới, rất tích cực của các tổ
chức hiệp hội kinh tế - xã hội. Do vậy, cơ chế chính trị - pháp lí để vận hành
mối liên hệ giữa hệ thống chính trị và hệ thống xã hội như đã nêu cũng được
xác định là thành tố cơ bản trong cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt
Nam hiện nay.
2.4. Vấn đề đặt ra đối với quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay
Sự vận hành cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ” là bảo đảm mở rộng và thực thi có hiệu quả nền dân chủ XHCN, làm
cho mọi quyền lực xã hội đều thuộc về nhân dân.
23


Nhân dân làm chủ - yếu tố trung tâm của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Tầm quan trọng đặc biệt của yếu tố này
biểu hiện ở chỗ: quyền lực của Đảng và Nhà nước đều từ quyền lực của nhân
dân. Trong lịch sử Việt Nam và thế giới, đã có tư tưởng đặt lên hàng đầu vai
trò của nhân dân trong cấu tạo quyền lực nhà nước và quyền lực xã hội. Trần
Hưng Đạo (thế kỷ 13) khẳng định: “khoan thư sức dân” là “kế sâu rễ bền
gốc”. Nguyễn Trãi (thế kỷ 15) cho rằng: chở thuyền và lật thuyền đều do dân.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin khẳng định rõ: cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm:
cách mạng là sự nghiệp chung của cả dân chúng Việt Nam và Đảng Cộng sản
Việt Nam (ĐCSVN) là do dân lập nên để phục vụ nhân dân. Đầu năm 1946,
khi trả lời các nhà báo nước ngoài về chức vụ Chủ tịch của mình, Người
khẳng định: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào.
Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tôi phải gắng sức
làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận.

Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi vui lòng lui”.
ĐCSVN ra đời, tồn tại, phát triển không vì mục đích tự thân mà vì giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Điều này được thể hiện rõ
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng. Tại Đại hội X, Đảng ta
tiếp tục khẳng định: “ĐCSVN là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc”. Mục đích duy nhất của ĐCSVN là đấu tranh giành độc lập dân tộc,
thống nhất Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu mạnh, đồng bào được sống trong
tự do, ấm no, hạnh phúc. Theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của
Đảng, ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 cũng như các bản Hiến pháp
sau này (1959, 1980, 1992), cấu tạo quyền lực Nhà nước và xã hội của nước
ta đều thể hiện rõ: tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhờ vậy,
Đảng và Nhà nước ta luôn phát huy được sức mạnh của mọi tầng lớp nhân
24


dân để tiến hành đấu tranh giành và giữ vững độc lập, tự do của dân tộc và
ngày nay đang tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong thực tế, có lúc, có nơi vai
trò làm chủ của nhân dân vẫn còn mờ nhạt. Việc nhân dân tham gia xây dựng
Đảng chưa được nhiều, hiệu quả chưa cao, nhất là việc góp ý kiến, giám sát,
kiểm định đường lối, chủ trương của Đảng cũng như đối với cán bộ, đảng
viên nơi công tác và nơi cư trú. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp
trong lựa chọn, bầu đại biểu Quốc hội và Quốc hội cấu tạo các cơ quan Nhà
nước để thay mặt mình quản lý xã hội, mới chủ yếu thông qua hiệp thương;
trong thực tế ở một số nơi, quyền làm chủ của nhân dân vẫn bị vi phạm
nghiêm trọng... Đây chính là vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta cần phải nghiên
cứu, giải quyết, nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò làm chủ của nhân dân.
Đảng lãnh đạo - yếu tố tiên quyết đảm bảo cho sự vận hành cơ chế có

hiệu quả. Vai trò lãnh đạo của Đảng không tự nhiên mà có và không phải cứ
tự nhận mà được. Vai trò đó đã được thử thách, kiểm nghiệm trong đấu tranh
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nhân dân Việt Nam thừa
nhận, tin tưởng trao cho Đảng vai trò lãnh đạo toàn xã hội và dân tộc.
Tuy nhiên, hiện nay, Đảng đang đứng trước nhiều thách thức, nguy cơ
phải vượt qua. Đảng ta là Đảng cầm quyền; Đảng không chấp nhận đa nguyên
chính trị và đa đảng đối lập là quyết định hoàn toàn đúng đắn. Để đảm bảo
cho sự lãnh đạo của Đảng hoàn toàn phù hợp yêu cầu của đất nước, cần có
nhiều yếu tố, trong đó vai trò phản biện xã hội là hết sức quan trọng. Bởi lẽ,
nếu không có sự phản biện xã hội sẽ dễ dẫn đến sự chủ quan, duy ý chí;
đường lối chính trị dễ bị sai lầm; hành động thực tế dễ bị độc đoán, làm mất
dân chủ trong xã hội và không bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân,
không bảo đảm và phát huy tốt vai trò quản lý của Nhà nước. Cùng với đó,
Đảng phải phòng và chống nguy cơ thoái hoá, biến chất và chiến lược “Diễn
biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ:
25


×