Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiểu luận cao học, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.44 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
1. lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước dân chủ, bao nhiêu quyền lực đều thuộc về nhân
dân. Cán bộ hoạt động trong cơ quan chính quyền từ cấp xã đến trung ương
đều do nhân dân bầu cử. Các đoàn thể từ trung ương đến địa phương do nhân
dân lập ra. Như vậy, quyền hành chính trị đều ở trong tay nhân dân. Với luận
điểm như vậy, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nghĩa là quyền lực nhà nước nằm
trong tay nhân dân. Quyền lực nhà nước thể hiện ý chí của nhân dân và được
đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của bộ máy nhà nước.
Được sự ủy quyền của nhân dân, nhà nước trở thành bộ máy quyền lực
lớn nhất, độc lập với xã hội. Trong xã hội có giai cấp, khi quyền lực nhà nước
không được kiểm soát, nhà nước trở thành cơ quan đứng trên xã hội, biệt lập,
xa lạ với xã hội, trở thành một lực lượng ăn bám xã hội. Trong nhiều thời kỳ
lịch sử, nhà nước trở thành lực lượng cản trở sự phát triển xã hội.
Ở Việt Nam hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, có một số nơi đã
xuất hiện nguy cơ Đảng và Nhà nước không còn là của nhân dân với những
biểu hiện như: một số cán bộ công chức nắm quyền lực nhà nước điều hành
các hoạt động, chương trình phát triển lại xa rời với nhân dân, xa cấp dưới, xa
cơ sở, không chủ động phục vụ nhân dân mà chỉ lo thăng quan tiến chức,
đánh mất bản chất cách mạng chân chính của người cán bộ. Trong những năm
gần đây, có những vụ ăn cắp tài sản quốc gia và nhân dân của những kẻ tham
nhũng, vô trách nhiệm phần lớn là những người nắm quyền lực chiếm đoạt và
thất thoát. Một bộ phận cán bộ không nhỏ đang bị suy thoái tư tưởng chính trị,
đạo đức lối sống vẫn đang tiếp tục làm giàu bất chính, gây nhiều hậu quả xấu
cho xã hội, làm suy yếu mối quan hệ giữa Đảng, nhà nước và nhân dân.
Một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng đó là do quyền lực
nhà nước, cụ thể là một số kẻ có chức có quyền đã lạm dụng quyền lực nhà
1



nước để mưu cầu lợi ích riêng. Nói cách khác, quyền lực nhà nước không
được kiểm soát đầy đủ. Bên cạnh đó, khi bước vào quá trình hội nhập quốc tế,
tổ chức và hoạt động của bộ máy quyền lực nhà nước nói chung, các thể chế
kiểm soát quyền lực nhà nước nói riêng có nhiều điểm bất cập, trùng lặp về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của tập thể và cá nhân chưa
được chế định cụ thể và chặt chẽ. Như vậy, quyền lực nhà nước ở Việt Nam
có biểu hiện không được kiểm soát tốt ở tất cả các cấp. Do vậy, kiểm soát
quyền lực nhà nước đang trở thành một yêu cầu cấp bách, đòi hỏi được giải
quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, em chọn đề tài “Vấn đề
kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận kết
thúc học phần quyền lực chính trị và cầm quyền.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong chính trị học phương Tây, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước
là vấn đề rõ ràng cả về lý luận và thực tiễn. Những nghiên cứu cụ thể nhằm
tìm hiểu những phương thức kiểm soát cụ thể khác nhau. Ở Việt Nam, đấy
vẫn còn là một vấn đề mới, chưa có nhận thức thống nhất.
Cho đến nay, các nghiên cứu chuyên sâu về kiểm soát quyền lực nhà
nước được thâu tóm trong các chương trình tổng kết từ các hoạt động giám sát
của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các hoạt động thanh tra, kiểm tra, ... Một
số đề tài nghiên cứu có đề cập đến vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước như:
“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, “Tăng cường hoạt động giám sát
của Quốc hội nước ta hiện nay”, ... Các nghiên cứu này xuất phát từ cách tiếp
cận và phương pháp luật học đã phân tích từng hoạt động cụ thể của các cơ
quan kiểm soát. Tuy vậy, chưa có công trình nào đi sâu vào hệ thống tổ chức
và hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm soát quyền
lực nhà nước. Qua khảo sát cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam,
2



đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kiểm soát quyền lực nhà
nước ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một cách khái quát những khái niệm, các quan điểm,
phạm trù về kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Làm rõ thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt nam hiện nay
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường kiểm soát quyền lực nhà
nước ở Việt Nam hiện nay.
4. Kết cấu tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
gồm 2 chương, 6 tiết.

3


NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm quyền lực nhà nước
Nhà nước là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp. Nhà nước xuất hiện
từ khi xã hội loài người có sự phân chia giai cấp thành những giai cấp đối
kháng. Quyền lực nhà nước là biểu hiện tập trung của quyền lực chính trị và
là trung tâm của quyền lực chính trị. Quyền lực nhà nước được hình thành
thông qua cuộc đấu tranh chính trị, nhằm giành quyền tổ chức nhà nước và
thực hiện chức năng thống trị xã hội. Quyền lực nhà nước được thực hiện
thông qua tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó bao gồm việc

tổ chức và thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đồng thời còn
được bảo đảm bằng các phương tiện độc quyền như luật pháp, và bộ máy
cưỡng chế chuyên nghiệp quân đội, cảnh sát, nhà tù... ở đây cần thấy rằng,
quyền lực nhà nước mang tính chính trị, nhưng không phải mọi quyền lực
chính trị đều là quyền lực nhà nước.
Sự thay đổi vai trò vị trí của các giai cấp trong đời sống sản xuất xã hội
sẽ dẫn tới việc chuyển chính quyền nhà nước từ tay giai cấp này sang tay giai
cấp khác, dẫn tới thay đổi căn bản tính chất của quyền lực nhà nước, phương
thức cầm quyền, các quan hệ chính trị, các thể chế chính trị và hệ thống chính
trị. Các cơ quan nhà nước thực chất là các cơ quan thực thi quyền lực nhà
nước, được các giai cấp và lực lượng xã hội (còn gọi là nhân dân) trao quyền
cho mà thôi. Tuy nhiên, do những hình thức ủy quyền và kiểm soát quyền lực
nhà nước khác nhau, nên nhiều lúc quan hệ giữa người có chủ quyền và người
được ủy quyền bị tha hóa, xuyên tạc.
Quyền lực nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội (CNXH) có những điểm
khác biệt so với quyền lực nhà nước trong các xã hội trước đó ở chỗ nhà nước
4


XHCN là nhà nước chuyên chính của giai cấp công nhân. Nhưng lợi ích căn
bản của giai cấp công nhân là thống nhất với lợi ích của đại đa số nhân dân
lao động. Nên quyền lực nhà nước dưới CNXH đã có sự thống nhất giữa tính
giai cấp và tính xã hội, giữa tính chính trị với tính công quyền. Trong các kiểu
nhà nước khác, đặc biệt là nhà nước quân chủ chuyên chế, giữa chức năng
giai cấp đối lập với chức năng xã hội, lợi ích của giai cấp thống trị đối lập với
lợi ích quảng đại quần chúng. Trong nền dân chủ XHCN, chức năng giai cấp
và chức năng xã hội tạo thành một thể thống nhất, trở thành điều kiện và tiền
đề hoàn thiện cho nhau.
Ở Việt Nam, các bản hiến pháp đều nhất quán khẳng định quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Tại Điều 1 Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam

dân chủ cộng hòa đã quy định rõ: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn
thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo giai
cấp, tôn giáo". Tư tưởng nhất quán này đều được thể hiện qua Hiến pháp
1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992. Tại Điều 2 và Điều 6 Hiến pháp
1992 thì "Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức", "nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân". Quyền lực nhà
nước bao giờ cũng được thực hiện bởi các cơ quan trong bộ máy, với những
con người cụ thể trong bộ máy ấy. Vì vậy, việc thực thi quyền lực cụ thể phụ
thuộc vào phương thức tổ chức bộ máy nhà nước và con người trong bộ máy
ấy. Nếu như người cầm quyền được trao quyền, không biết thực thi quyền lực
cho đúng, hoặc sử dụng quyền lực vì mục đích vụ lợi thì sức mạnh của quyền
lực nhà nước sẽ gây nguy hiểm cho xã hội. Vì thế muốn có một xã hội tốt đẹp,
quyền tự do con người được đề cao, xã hội không phải gánh chịu những lộng
hành sai phạm vô ý thức hoặc có ý thức của nhà nước thì phải có cơ chế kiểm soát
5


việc thực hiện quyền lực nhà nước, kiểm soát hoạt động của công chức, viên chức
nhà nước. Đây là một yêu cầu tất yếu trong tổ chức và hoạt động của một nhà
nước dân chủ, kể cả trong nền dân chủ XHCN của chúng ta.
1.1.2. Khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước:
Kiểm soát quyền lực nhà nước là hoạt động có chủ đích của nhà nước
và xã hội, với tổng thể những phương tiện tổ chức và pháp lý thông qua các
hình thức hoạt động như giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, kiểm toán, tài
phán nhằm hạn chế nguy cơ sai phạm cũng như những hành vi lộng quyền,
chuyên quyền, độc đoán của cơ quan quyền lực nhà nước và của công chức

nhà nước. Đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực hiện đúng mục đích,
khoa học, hiệu lực và hiệu quả.
Kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo cho quyền lực nhà nước
không bị lạm dụng, ngăn chặn các hiện tượng, xu hướng, quan liêu, độc tài,
chuyên quyền, độc đoán trong bộ máy nhà nước, không bị sử dụng trái với ý
chí của nhân dân. Khi quyền lực càng tập trung, thì khả năng kiểm soát nó
càng khó. Nếu không có sự kiểm soát tốt nó trở thành bức rào cản của tự do
và dân chủ, kìm hãm sự tiến bộ xã hội. Xã hội càng phát triển, quyền lực của
nhà nước càng lớn thì yêu cầu của kiểm soát quyền lực nhà nước tăng lên.
Hiện nay trên thế giới đang tồn tại các hệ thống kiểm soát quyền lực
khác nhau đó là: Hệ thống kiểm soát quyền lực của nhà nước với tư cách là
một kết cấu phân cấp, phân quyền quyền lực công. Hệ thống kiểm soát
quyền lực nhà nước của các tổ chức, thiết chế chính trị xã hội. Hệ thống
kiểm soát quyền lực nhà nước của các cá nhân công dân thành viên xã hội.
Mỗi hệ thống trên có nhiều bộ phận khác nhau với những phương thức thực
hiện khác nhau.
Quyền lực nhà nước có thể được kiểm soát thông qua hai yếu tố: Quá
trình tổ chức bộ máy nhà nước sao cho các bộ phận của nhà nước có khả năng
kiểm soát lẫn nhau và hoạt động của các hệ thống kiểm soát quyền lực từ bên
trong và bên ngoài bộ máy nhà nước. Tổ chức là cách thức tạo lập và xây
6


dựng hệ thống quyền lực, các bộ phận cấu thành quyền lực, giới hạn chức
năng của từng bộ phận, mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận quyền lực, trình
tự, thủ tục thực hiện quyền lực. Hệ thống kiểm soát quyền lực là hệ thống
kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện quyền lực. Các hình thức phản
biện từ phía các chủ thể khác nhau của hệ thống chính trị, các biện pháp xử lý
nhằm đảm bảo tính đúng đắn trong việc sử dụng quyền lực nhà nước. Xét một
cách tổng quát yếu tố tổ chức có ý nghĩa quan trọng nhất, bởi vì đây là khởi

điểm cho việc sử dụng cũng như kiểm soát quyền lực.
Kiểm soát quyền lực từ tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân
quyền có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất, Sự phân ra rành mạnh về chức năng và nhân sự, cùng với cơ
chế kìm chế, đối trọng vừa có tác dụng đề cao trách nhiệm cá nhân, tính độc
lập sáng tạo của cá nhân trong thực thi quyền lực nhà nước vừa hạn chế khả
năng lạm quyền và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát giác sự lạm quyền.
Thứ hai, ở mức độ nhất định cơ chế phân quyền đảm bảo tính độc lập
của cơ quan xét xử.
Thứ ba, Cơ chế kìm chế đối trọng là một trong những đảm bảo (ở mức
độ nhất định) hiệu lực của hiến pháp.
Xuất phát từ ưu điểm trên đây, các nước tư bản hiện đại đã áp dụng
học thuyết phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước của mình
và coi đó là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất, có ý nghĩa cơ sở
để đảm bảo dân chủ, tự do, bình đẳng xã hội. Tuy nhiên cũng cần nói rằng,
mặt trái của phân quyền là tranh giành, chia rẽ phân tán quyền lực nếu
không được kiểm soát tốt. Vì vậy, phân quyền vừa có mục đích kiểm soát
quyền lực vừa phải kiểm soát cả sự phân quyền và thực thi quyền lực trong
cơ chế phân quyền.
Dưới chế độ XHCN, về nguyên tắc nhân dân có toàn quyền quyết định
đối với quyền lực nhà nước, có toàn quyền kiểm soát quyền lực đó. Thế
nhưng các nguyên tắc đó chỉ có thể trở thành hiện thực khi có một cơ chế tổ
7


chức và thực hiện khả thi quyền lực nhà nước từ phía nhân dân. Nhân dân, với
tư cách là người chủ của quyền lực, có quyền và cần thiết phải thực hiện sự
kiểm soát như vậy nhằm đảm bảo quyền lực được thiết lập và thực hiện vì lợi
ích của nhân dân và xã hội. Nhân dân kiểm soát quyền lực không chỉ nhằm
đảm bảo quyền lực không bị lạm dụng, mà còn đảm bảo khả năng nhân dân

thay đổi quyền lực đó cả về nội dung, hình thức, phương thức thực hiện nếu
thấy cần thiết. Việc yêu cầu nhân dân kiểm soát một cách toàn diện và ngày
càng đầy đủ hơn quyền lực nhà nước, đòi hỏi nhà nước XHCN phải đảm bảo
tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này đảm bảo cho nhân
dân thông qua những người đại diện của mình có thể kiểm soát toàn bộ quyền
lực nhà nước.
1.2. Tư tưởng về kiểm soát quyền lực nhà nước trong lịch sử tư
tưởng chính trị
Việc kiểm soát quyền lực có thể được xem xét từ nhiều khía cạnh khác
nhau, trong đó có ít nhất là hai xuất phát điểm cơ bản: từ lợi ích của những
người nắm giữ quyền lực và từ lợi ích của những người chịu tác động quyền
lực. Thực tiễn lịch sử cho thấy các chủ thể nắm quyền lực thường có xu
hướng lạm quyền, sử dụng quyền lực được trao để mưu tính lợi ích khu biệt,
cá nhân. Ngay từ thời cổ đại cho đến ngày nay việc nghiên cứu về kiểm soát
quyền lực đã được đề cập đến ở các mức độ khác nhau trong lịch sử tư tưởng
chính trị cả phương Đông và phương Tây. Nhằm đưa ra những kiến giải để
kiểm soát quyền lực khi quyền lực được trao cho chủ thể nắm quyền.
1.2.1. Các nhà tư tưởng cổ đại - Phương Đông
Tư tưởng về quyền lực chính trị và kiểm soát quyền lực cai trị đáng chú
ý nhất trong trường phái pháp trị Trung Hoa cổ đại, được biểu hiện trong tác
phẩm của Hàn Phi Tử, một "Tập đại thành" gói trọn kinh điển pháp gia. Trong
xã hội phong kiến chuyên chế phương Đông, vua thâu tóm mọi quyền lực nhà
nước cả quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp, tức vận mệnh của đất nước đặt
cược vào trong tay một con người. Việc kiểm soát quyền lực từ trên xuống
8


của nhà vua là khá chặt chẽ, để chống lại sự phản kháng của dân chúng và sự
mưu lợi ích riêng của đội ngũ quan lại, nhằm mục đích bảo vệ chế độ chính trị
quân chủ chuyên chế, đem lợi ích cho vua và giai cấp thống trị.

Thực hiện mục tiêu đó, các nhà pháp trị đặc biệt là Hàn Phi Tử đã
không ngừng tìm tòi, khám phá kế thừa và phát triển những hạt nhân hợp lý
trong tư tưởng pháp trị, để hình thành những quan điểm và nguyên tắc pháp lý
tương đối hoàn chỉnh thông qua hệ thống pháp luật nhằm kiểm soát việc thực
thi quyền lực của đội ngũ quan lại trong hệ thống chính quyền nhà nước
chuyên chế.
Học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử là một hệ thống quan điểm về pháp
- thế - thuật, lấy pháp làm nội dung cai trị gồm những đặc trưng cơ bản: 1Pháp là pháp luật thành văn của quốc gia, gồm những điều luật, luật lệ, quy
định mang tính nguyên tắc được biên soạn rõ ràng minh bạch như khuôn mẫu,
được chép trong đồ thư và bày ra ở nơi quan phủ, ban bố rộng rãi cho dân
chúng biết việc gì làm được và việc gì không làm được. 2- Nội dung và các
hình thức thưởng phạt. 3- Mục đích thức hiện pháp là: Để chữa cái loạn của
dân chúng, trừ cái họa trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người
yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già được thỏa lòng, người trẻ và cô
độc được trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau,
cha con giữ gìn cho nhau, lại không mắc phải cái lo bị giết chóc hay bị giặc
bắt cầm tù, đó cũng là cái công hết sức lớn. Như vậy, pháp luật được Hàn Phi
xem là tiêu chuẩn để phân biệt đúng - sai, chính tà, là phương tiện của người
cầm quyền dùng để điều khiển đất nước.
Theo Hàn Phi chỉ có pháp luật mới làm cho nước trị: "Cái làm cho trị
an là pháp luật, cái gây ra loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết lập rồi thì
không ai có thể làm điều riêng tư được nữa". Điều này cho thấy, pháp luật trở
thành công cụ hữu hiệu quan trọng nhất trong của bình ổn xã hội kể cả đối với
đội ngũ quan lại không thể dùng quyền lực nhà nước do vua trao mà mưu lợi
ích riêng được. Đây cũng là điểm rất quan trọng mà từ xưa đến nay nhân loại
9


vẫn chưa giải quyết được một cách thỏa đáng; mâu thuẫn công và tư, trung
với hiếu, danh và thực trong đời sống con người. Cho nên trị nước phải coi

trọng pháp luật, thưởng phạt phải nghiêm minh, pháp luật là công cụ của các
đế vương khi thực thi quyền lực, để cai trị đất nước và nó đã đáp ứng được
yêu cầu xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền mạnh.
1.2.2. Các nhà tư tưởng cổ đại phương Tây
Không chỉ có trong các nhà nước đương đại mà đã xuất hiện ngay từ
thời cổ đại, ở Aten vào năm 461 TCN dưới chính quyền Pericles, Hội nghị
nhân dân - cơ quan có chức năng tương tự như cơ quan lập pháp ngày nay,
mỗi năm phải họp ít nhất 10 lần và trong hội nghị, theo thủ tục bao giờ dân
chúng cũng được mời biểu quyết chấp thuận hay khiển trách các viên chức
của họ. Nếu khiển trách thì tiếp theo sẽ có cuộc truy tố trước tòa án; tương tự
như một thủ tục bãi nhiệm; khi đến cuối năm mỗi viên chức phải tường trình
trước một ủy ban đặc biệt về tiền công quỹ mà họ là người thu, người giữ, hay
người chi tiêu. Đây là hình thức ban đầu sơ khai của sự kiểm soát của nhân
dân đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước, sự kiểm soát của cơ quan lập
pháp đối với các nhân viên nhà nước.
Chuyển sang chế độ phong kiến cũng đồng thời đánh dấu sự thay đổi
cơ bản trong tổ chức quyền lực xã hội. Toàn bộ quyền lực từ quyền lập pháp,
hành pháp đến quyền tư pháp đều tập trung vào một người là nhà vua. Do
không có cơ chế kiểm soát, quyền lực xã hội phong kiến chìm đắm trong sự
độc đoán chuyên quyền, còn gọi là "đêm dài trung cổ".
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến, quyền lực nhà nước
(quyền hành pháp, quyền lập pháp, quyền tư pháp) đều nằm trong tay một nhà
quân chủ. Nhà nước quân chủ chuyên chế - quyền lực của nhà vua là vô hạn.
Cách tổ chức quyền lực chuyên chế dẫn đến sự lạm quyền, và tùy tiện. Trong
điều kiện đó, hệ tư tưởng giải phóng để phát triển của cuộc cách mạng tư sản
mà cốt lõi là học thuyết về quyền tự nhiên, chủ nghĩa lập hiến và chế độ đại
nghị.... đánh dấu bước tiến mới trên con đường giành dân chủ.
10



Các Mác có một nhận xét rất xác đáng về chế độ đó rằng: Sự tùy tiện là
quyền lực của vua, hay quyền lực của vua là sự tùy tiện. Để chống lại chế độ
chuyên quyền, độc đoán đó ngay từ thời cổ đại đã xuất hiện tư tưởng phân
quyền ở những mức độ khác nhau. Đại biểu của những tư tưởng ấy là Platôn
(427 - 347 TCN) và Arixtôt (384 - 322 TCN).
Aristôt quan niệm hình thức nhà nước phụ thuộc vào cách tổ chức
quyền lực chính trị. Nhà nước là một thể thống nhất được tạo bởi ba bộ phận
độc lập. Cơ quan nghị luận (làm luật), cơ quan chấp hành (hành chính), cơ
quan xét xử, trong đó cơ quan làm luật giữ vị trí vai trò chủ đạo, bởi lẽ ông
quan niệm luật thống trị tất cả, các cơ quan hành chính không có quyền đó mà
chỉ cụ thể hóa luật và thực thi pháp luật. Như vậy, tư tưởng phân quyền thời
cổ đại chỉ là phân công lao động, phân công chức năng, thẩm quyền giữa các
bộ phận của bộ máy nhà nước. Việc thực hiện nhiệm vụ nhà nước theo chức
năng, tự nó đã có sự giám sát quyền lực.
Platôn cho rằng, nguyên tắc cơ bản của xã hội lý tưởng là chính trị phân
giải thành pháp lý, hành chính, tư pháp và ngoại giao. Song tất cả các yếu tố
đó phải được thống nhất bởi chính trị. Tức là phân công lao động trong bộ
máy nhà nước là cần thiết, hoạt động của nhà nước như lập pháp, hành pháp,
tư pháp cùng nhằm vào một đối tượng, nhưng đồng thời chúng có khác nhau.
Một nhà nước lý tưởng, nhà nước đó phải được cầm quyền bởi sự thông thái;
có sự phân công lao động giữa các tầng lớp người khác nhau. Nhà nước đó
gồm ba tầng lớp (giai cấp) cơ bản: Tầng lớp các pháp quan là những người có
lý trí, có vai trò cai trị thành bang. Tầng lớp chiến binh là những người có sức
mạnh bảo vệ thành bang. Tầng lớp nông dân, thợ thủ công là những người
nặng về đời sống nhục cảm, có trách nhiệm cung cấp đồ ăn, vật dụng cho
thành bang.
1.2.3. Các nhà tư tưởng thời cận đại
Các nhà tư tưởng thời cận đại đã kế thừa tư tưởng phân quyền về kiểm
soát quyền lực thời cổ đại, phát triển thành học thuyết "phân chia quyền lực"
11



vào thời kỳ cách mạng tư sản thế kỷ XVI - XVIII đại diện là Jon Lock và đỉnh
cao là Mongtecxkiơ. Theo Jon Lock (1632 - 1704), trong tác phẩm sự luận
giải về chính quyền, thì để bảo đảm quyền lực thực thi đúng quĩ đạo của nó;
quyền lực nhà nước phải được hạn chế theo nguyên tắc phân chia quyền lực;
tách hành pháp ra khỏi lập pháp và nhà làm luật cũng phải lệ thuộc vào luật,
tuân theo luật, chia quyền lực nhà n ước thành: lập pháp, hành pháp, và quyền
lực liên bang. Quyền lập pháp do nghị viện, cơ quan đại diện nhân dân thực
hiện. Quyền hành pháp và quyền liên bang cần trao cho một nhân vật - nhà
quân chủ, nhưng người đó không được lạm quyền. Còn quyền tư pháp chỉ là
một bộ phận của quyền hành pháp, nhưng khi xét xử phải có sự tham gia của
nhân dân. Jon Lock muốn trao từng bộ phận quyền lực cho những lực lượng
chính trị xã hội khác nhau là tư sản và phong kiến.
Trong cơ cấu quyền lực, quyền lập pháp có vai trò chủ đạo, nhưng
không tuyệt đối vì quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. Là người có thể giải
tán hay thay đổi thành lập cơ quan lập pháp khi hoạt động không còn đủ tín
nhiệm với nhân dân... - Mongtexkiơ (1689 - 1775): Là nhà tư tưởng chính trị
xuất sắc của pháp, người đề xướng học thuyết phân quyền; tư tưởng của ông
được phản ánh trong tác phẩm "Tinh thần pháp luật" và "Những bức thư thành
Ba Tư". Nghiên cứu lịch sử của chế độ chuyên chế, quyền lực nằm trong tay
một người, hay một tổ chức tất yếu dẫn đến lạm quyền và sử dụng quyền lực
để mưu lợi ích riêng. Tác giả cho rằng, để loại trừ khả năng lạm quyền thì cần
phải thiết lập một trật tự trong đó - quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp
phải độc lập, trở thành lực lượng kiềm chế nhau. Quyền lập pháp được chia
giữa tư sản và phong kiến. Nghị viện có hai viện, Thượng viện đại diện cho
quý tộc; Hạ viện đại diện cho dân. Quyền hành pháp thuộc quý tộc, và thành
lập chính phủ của nhà vua nhưng chịu trách nhiệm trước nhân dân, tức là
trước giai cấp tư sản.
Thuyết phân chia quyền lực ra đời trở thành ngọn cờ tư tưởng của giai

cấp tư sản tập hợp quần chúng chống chế độ phong kiến. Khi giai cấp tư sản
12


giành được chính quyền, học thuyết này đã trở thành nguyên tắc căn bản về tổ
chức và hoạt động của nhà nước tư sản. ý nghĩa lịch sử của học thuyết phân
quyền là ở chỗ thấy được sức mạnh của quyền lực nhà nước (với tư cách là
quyền lực của nhân dân ủy quyền). Vì thế nó không được trao cho một ai
hoàn toàn, mặt khác nó cho thấy sự nguy hiểm nếu quyền lực nhà nước không
được kiểm soát để rơi vào tay quý tộc hay tư sản. Cũng cần thấy rằng, nguồn
gốc sâu xa của lý thuyết phân quyền là: ở chỗ nó đã thích ứng với tính không
thuần nhất về lợi ích giữa các bộ phận khác nhau trong nội bộ giai cấp tư sản,
thích ứng với tình trạng tranh giành quyền lực diễn ra liên tục giữa các bộ
phận đó. Như vậy, về phương tiện chính trị trước đây phân quyền là cái cớ để
giai cấp tư sản đòi chia quyền thống trị với giai cấp phong kiến, thì hiện giờ là
giải pháp tổ chức quyền lực thích ứng với mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản.
Tuy nhiên bản thân học thuyết phân quyền ngoài việc phản ánh hiện tượng
khách quan của xã hội tư sản là có mong muốn một xã hội tốt đẹp, trong đó
quyền tự do con người được đề cao, xã hội không phải gánh chịu những lộng
hành của nhà nước, họ đã kỳ vọng chủ yếu vào sự kiểm soát quyền lực nhà
nước ngay trong hệ thống tổ chức quyền lực.
1.2.4. Quan điểm của các nhà kinh điển mác-xít về kiểm tra - kiểm
soát quyền lực nhà nước
* Quan điểm của Mác - Ăngghen
Qua di sản lý luận mà Mác - Ăngghen để lại, hầu như hai ông không đi
sâu bàn tới việc kiểm soát quyền lực một cách trực tiếp, mà bàn tới công tác
kiểm tra, kiểm soát của Đảng và Nhà nước. Mặc dầu vậy chúng ta cũng có thể
thấy rõ quan điểm của các ông về kiểm soát quyền lực. Vì vậy, khi nghiên cứu
Mác - Ăngghen chúng ta cần có cách tiếp cận rộng hơn các hình thức giám sát
quyền lực.

Trong bộ Tư bản, Mác đã đề cập đến công tác kiểm tra nói chung kiểm tra là một phương thức hành động để thực hiện mục đích. Nó như là quy
luật. Như vậy theo quan điểm của Mác - Ăngghen thì kiểm tra là một tất yếu
13


khách quan đối với hoạt động của con người và tổ chức. Có hoạt động thì phải
có kiểm tra. Các Mác khẳng định rằng: Vào một thời kỳ ở một nước mà thế
lực vua chúa, giai cấp quý tộc và giai cấp tư sản tranh giành quyền thống trị,
mà do đó quyền thống trị bị phân chia thì học thuyết phân quyền tỏ ra là tư
tưởng thống trị, nó được người ta coi là quy luật vĩnh viễn... mỗi điều khoản
của hiến pháp đều chứa sẵn trong bản thân nó cái phản đề của bản thân nó, cái
thượng viện và hạ viện của nó tự do trong câu nói chung chung, và xóa bỏ cái
tự do trong điều khoản kèm theo... Hiến pháp đã được thảo ra sao cho nghị
viện có thể gạt bỏ được tổng thống bằng con đường lập hiến, nhưng Tổng
thống lại có thể gạt bỏ nghị viện bằng con đường không hợp hiến, bằng cách
thủ tiêu luôn cả hiến pháp. Như vậy, bản thân hiến pháp lại đi thách thức thủ
tiêu mình bằng bạo lực. Chẳng những nó thần thánh hóa chế độ phân quyền
mà nó còn mở rộng chế độ phân quyền đến chỗ mâu thuẫn không sao chịu
nổi... Nếu hiến pháp giao cho tổng thống quyền thực tế thì nó lại cố gắng bảo
đảm cho nghị viện quyền tinh thần...
Khi xem xét mối liên hệ giữa Thuyết phân quyền với sự phân công lao
động trong bộ máy nhà nước Ph. Ăngghen đã viết "Phân quyền được xem như
là nguyên tắc thiêng liêng và không thể xâm phạm được trên thực tế, về thực
chất nó không có gì khác là sự phân công công việc lao động được áp dụng
đối với bộ máy nhà nước nhằm đơn giản hóa và để kiểm tra" [43, tr. 405]. Các
ông cho rằng, Thuyết phân quyền ở đó Nghị viện chỉ là nơi bàn cãi suông, tòa
án chỉ độc lập giả dối, còn toàn bộ quyền lực tập trung vào cơ quan hành
pháp. Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý của các học thuyết chính trị
pháp lý, kể cả thuyết phân chia quyền lực. Đồng thời, tổng kết kinh nghiệm
đấu tranh giai cấp, Mác và Ăngghen đã cho ta thấy, trong xã hội có giai cấp

đối kháng, quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp thống trị; nếu chế độ
nhà nước đó bị đập tan thì quyền lực nhà nước trở về tay nhân dân, như chính
cội nguồn ban đầu của nó, nhân dân là gốc của quyền lực là chủ thể của quyền
lực. Sự thay đổi về bản chất này cần có quan điểm mới về tổ chức và thực
14


hiện quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước khi nhà nước của
nhân dân lao động được thành lập dưới CNXH.
* Quan điểm của V.I. Lênin
Về công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm kê kiểm soát, V.I. Lênin bàn đến
rất nhiều, rất sâu (ở trong khoảng không dưới 150 tác phẩm). Nội dung quan
điểm của V.I. Lênin được thể hiện rõ ở 4 vấn đề chủ yếu sau:
+ Tính tất yếu phải kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát.
+ Những nội dung cơ bản của kiểm tra, kiểm soát.
+ Chủ thể kiểm tra, kiểm soát và đối tượng của nó.
+ Tổ chức, hình thức, phương pháp tiến hành kiểm tra, kiểm soát...
Theo Lênin, những nội dung chủ yếu của kiểm tra, kiểm soát bao gồm:
Một là, kiểm tra, kiểm soát việc sản xuất và phân phối những sản phẩm chủ
yếu nhất. Hai là, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính và tiền tệ, nhất là
hoạt động của ngân hàng, lưu thông tiền tệ, thu nhập, chi tiêu và nộp thuế của
các nhà giàu. Ba là, kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng, pháp luật của Nhà nước; việc thi hành các chức trách và chấp hành
kỷ luật lao động. Bốn là, kiểm tra, kiểm soát để phát hiện kịp thời và đấu
tranh chống các hiện tượng tiêu cực. Đây chính là những vấn đề kiểm soát
quyền lực nhà nước, tuy nhiên ở các quy mô rất khác nhau.
Nói một cách khái quát, theo V.I.Lênin, nội dung công tác kiểm tra bao
gồm: kiểm tra việc và kiểm tra người. Nó bao trùm toàn bộ việc kiểm soát
việc thực thi quyền lực nhà nước, chứ không chỉ là một quá trình của công tác
lãnh đạo. Khi giai cấp tư sản nắm quyền thống trị thì chủ thể kiểm tra, kiểm

soát thuộc về giai cấp tư sản. Còn đối tượng (khách thể) kiểm tra, kiểm soát là
giai cấp vô sản và quần chúng lao động. Khi giai cấp vô sản giành quyền
thống trị thì chủ thể kiểm tra, kiểm soát thuộc về giai cấp công nhân và toàn
thể dân cư tiến hành. Nhà nước chuyên chính vô sản dựa vào quần chúng lao
động, trước hết là công nhân và nông dân, để tiến hành kiểm tra, kiểm soát.
Đối tượng bị kiểm tra, kiểm soát lúc này bao gồm:
15


- Tất cả các đơn vị kinh tế, các ngành...Bọn ăn cắp, đầu cơ, làm ăn gian
dối, nhận hối lộ, ăn bám, lưu manh, phá hoại ngầm, bọn "con ông cháu cha".
- Các biểu hiện của tính tự phát vô chính phủ.
- Nhà nước và các tổ chức đảng vừa là chủ thể vừa là khách thể của
công tác kiểm tra, kiểm soát.
Công tác tổ chức là công tác có ích nhất và cần thiết nhất cho nhân dân.
Nếu quần chúng không có tổ chức thì không thể đảm bảo một sự kiểm tra,
kiểm soát nghiêm chỉnh. Cần đề bạt những người có tài tổ chức xuất thân từ
tất cả các tầng lớp dân cư, các giai cấp vào cương vị then chốt trong bộ máy
kiểm tra, kiểm soát. Vấn đề cấp thiết nhất là tiến hành cải tiến bộ máy nhà
nước Xô viết theo nguyên tắc "Thà ít mà tốt". Cơ quan đầu tiên cần phải được
cải tiến là Bộ dân ủy Thanh tra công nông. Phải chọn người đứng đầu có uy
tín, coi trọng chất lượng và tinh giảm biên chế của cơ quan này. Riêng đối với
cơ quan kiểm tra của Đảng phải được củng cố, xây dựng đủ mạnh để thực thi
tốt chức năng, nhiệm vụ của nó. Cần thiết lập ban kiểm tra song song với Ban
chấp hành Trung ương. Thành phần của Ban này bao gồm những đồng chí có
uy tín nhất. Các thành viên của Ban kiểm tra Trung ương có quyền tham dự
các kỳ họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, có quyền đọc các tài liệu và có ý
kiến. Để nâng cao hiệu quả kiểm tra, kiểm soát cần thực hiện tốt những
phương pháp chủ yếu sau: Một là, phải tổ chức phối hợp việc kiểm tra, kiểm
soát từ dưới lên và từ trên xuống. Nhất thiết phải đặt ra và chấp hành những

quy tắc về tiếp dân, tổ chức phòng tiếp khách sao cho việc lui tới cơ quan
được tự do, hoàn toàn không cần có giấy phép nào cả. Hai là, phải công khai
hóa việc kiểm tra, kiểm soát. Ba là, kiểm tra phải thực sự, hình thức kiểm tra
phải linh hoạt. Bốn là, kiểm tra và xử lý phải thật nghiêm minh, kiên quyết.
Như vậy, tư tưởng kiểm soát quyền lực nhà nước trong lịch sử xuất
hiện từ khi hình thành nhà nước và gắn liền với giai cấp thống trị trong xã hội.
Các nhà tư tưởng chính trị đã luận giải vấn đề theo nhiều khía cạnh ở các góc
độ tiếp cận và hình thành các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước
khác nhau.
16


Chương 2
THỰC TIỄN CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quá trình nhận thức về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở
Việt Nam
Trước thời kỳ đổi mới, trong các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà
Việt Nam chưa có thuật ngữ “kiểm soát quyền lực nhà nước”. Tuy nhiên,
trong Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, cũng đã hình thành
những quy định có nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước. Ví dụ, Quốc hội
có quyền hạn, “giám sát việc thi hành Hiến pháp” (khoản 3, Điều 50 Hiến
pháp năm 1959); “thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp
và pháp luật” (khoản 3, Điều 83 Hiến pháp năm 1980). Hội đồng Nhà nước
“giám sát công tác của Hội đồng Bộ trưởng, Tòa án Nhân dân tối cao và Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao” (khoản 7, Điều 100 Hiến pháp năm
1980); “giám sát và hướng dẫn hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp”
(khoản 9, Điều 100 Hiến pháp năm 1980). Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
“kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ và các cơ quan khác thuộc Hội
đồng Bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và các

đơn vị vũ trang nhân dân...” (Điều 138 Hiến pháp năm 1980). Mặc dù Hiến
pháp có những quy định nói trên, nhưng vì tổ chức quyền lực nhà nước
theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa nên quyền lực nhà nước chưa
được phân công một cách minh bạch và do đó, cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước chưa có cơ sở ra đời. Như vậy, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước chưa được hình thành theo đúng nghĩa của nó, là nhằm bảo đảm việc
thực hiện quyền lực nhà nước theo giới hạn của Hiến pháp được nhân dân
giao cho.
Trong thời kỳ đổi mới, nhận thức về kiểm soát quyền lực nhà nước của
Đảng và Nhà nước ta đã từng bước có sự phát triển về chất. Trước hết, trong
17


các văn kiện của Đảng và Nhà nước, việc thừa nhận Nhà nước ta là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bước đột phá về nhận thức để từng bước
chuyển từ tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ
nghĩa sang tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân công quyền lực
nhà nước của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo nguyên tắc tập
quyền xã hội chủ nghĩa, mặc dù quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nhưng
nhân dân không thực hiện được quyền lực nhà nước của mình bằng các hình
thức dân chủ trực tiếp, mà phải thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các
cấp. Vì thế, nhân dân không được thừa nhận là chủ thể cao nhất của quyền lập
hiến, mà Quốc hội được Hiến pháp xác định là cơ quan duy nhất có quyền lập
hiến và lập pháp. Do đó, Hiến pháp không phải là phương tiện pháp lý cao
nhất để nhân dân giao quyền, ủy quyền (quyền lực nhà nước) của mình cho
Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao và các cơ quan nhà nước khác.
Theo đó, Hiến pháp không được quan niệm là một phương tiện pháp lý cao
nhất để giới hạn quyền lực nhà nước, bắt buộc Nhà nước phải hoạt động trong
giới hạn của Hiến pháp.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội (năm 1991) đã đề ra một nguyên tắc mới về tổ chức quyền lực nhà nước
trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: “Nhà
nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự
phân công rành mạch ba quyền”. Tuy trong nguyên tắc này chưa có yếu tố
kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng đây là bước đổi mới rất cơ bản trong tư
duy về “xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân”
mà Đại hội VII của Đảng đã khẳng định. Xây dựng nhà nước pháp quyền trở
thành một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, có tầm chiến lược, bao gồm
toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo đó, năm 2001, Nhà
nước ta đã tiến hành sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức
bộ máy nhà nước để thể chế hóa một số quan điểm, đường lối của Đảng ta về
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, và khẳng định: “Nhà nước
18


ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”. Lần đầu tiên, thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa” và nguyên tắc “phân công, phối hợp...” được trang trọng ghi nhận
trong Hiến pháp nước ta. Đây chính là nền tảng để tất yếu đi đến nhận thức
phải kiểm soát quyền lực nhà nước tại Đại hội X và Đại hội XI của Đảng. Văn
kiện Đại hội X, trong mục “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa” đã đề cập đến vấn đề “xây dựng, hoàn thiện cơ chế
kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động và quyết định của
các cơ quan công quyền”, trong đó đề cập sâu về vấn đề “xây dựng cơ chế
phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp
và tư pháp”. Có thể coi đây là một nhận thức mới, một sự thay đổi về chất
trong tư duy lý luận. “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” mà các
bản Hiến pháp trước đây thừa nhận và khẳng định thì đến đây mới thực sự có

sự nhận thức đầy đủ và nhất quán. Bởi, không thừa nhận quyền lập hiến là
quyền lực gốc, quyền lực thiết lập nên quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp; quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, quyền hành pháp,
quyền tư pháp thì không thể thừa nhận theo đúng nghĩa “Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân” và không thể có cơ sở để hình thành cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước một cách đầy đủ và đúng đắn.
Từ nhận thức mới về kiểm soát quyền lực nhà nước được ghi nhận ở
Văn kiện Đại hội X của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đưa vào
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam một yếu tố mới, đó là kiểm soát quyền lực nhà nước. Có thể nói, lần
đầu tiên trong văn kiện của Đảng ta đã ghi nhận một nguyên tắc cơ bản về tổ
chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chứa đựng đầy
đủ các giá trị mới về chất so với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong
19


nhà nước tập quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là nguyên tắc: Quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thể chế hóa nguyên
tắc này, Hiến pháp năm 2013 đã trang trọng tuyên bố ở Điều 2 rằng: “1- Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; 2- Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức; 3- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Như vậy, nhận thức về kiểm soát quyền lực nhà nước từ mô hình tập
quyền xã hội chủ nghĩa, không xem kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất

yếu khách quan, đến việc thừa nhận nhà nước pháp quyền mà trong đó, kiểm
soát quyền lực nhà nước như một yếu tố cấu thành không thể thiếu trong tổ
chức và hoạt động của nhà nước phải trải qua một quá trình 20 năm. Đó là
quá trình kế thừa và phát triển tư duy, đấu tranh với quan điểm và thói quen
của mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa, bởi sức ỳ của mô hình này đã tồn tại
nhiều thập niên, ăn sâu, bám rễ chắc vào tư duy của nhiều người mà không
thể thay đổi nhanh chóng được. Từ khởi xướng chủ trương cải cách bộ máy
nhà nước một cách mạnh mẽ tại Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đến Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991)
thừa nhận nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp với sự phân công rành mạch ba quyền đó; rồi đến việc thừa nhận “Nhà
nước ta... là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, vận hành theo
nguyên tắc căn bản “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp” là cả một quá trình. Xét về thời gian, quá trình

20


này tuy dài, nhưng đó là sự vận động tất yếu của nhận thức với sự thay đổi và
nâng cao từng bước qua các kỳ đại hội Đảng.
2.2. Nội dung cơ bản của kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp, bởi sự phức tạp
của tổ chức quyền lực nhà nước và hoạt động thực thi quyền lực nhà nước.
Tính phức tạp đó, một mặt do kiểm soát việc sử dụng quyền lực nhà nước để
chống sự lạm dụng nó là đòi hỏi bắt buộc đối với bất kỳ nhà nước dân chủ và
pháp quyền nào. Nhưng mặt khác, kiểm soát được việc sử dụng quyền lực nhà
nước mà lại không làm mất đi tính năng động, mềm dẻo cần phải có để tiến
hành các công việc nhà nước. Cái khó nhất trong thiết kế một chính quyền
nhà nước trước hết là làm cho bộ máy nhà nước có khả năng kiểm soát được

xã hội và sau nữa - không kém phần quan trọng - là buộc Nhà nước phải tự
kiểm soát được chính mình. Vì thế, kiểm soát quyền lực nhà nước theo nghĩa
rộng chính là việc thiết kế tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước sao cho đạt
được mục đích chính trị chung và đạt được hiệu quả cao nhất. Xét theo nghĩa
hẹp, kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ những phương thức, quy trình,
quy định mà dựa vào đó, Nhà nước và xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những
hoạt động sai trái của các thiết chế quyền lực nhà nước, phát hiện và điều
chỉnh được việc thực thi quyền lực nhà nước, đảm bảo cho quyền lực nhà
nước thực thi đúng mục đích chung và đạt được hiệu quả cao nhất. Vì thế,
quyền lực nhà nước chỉ có thể kiểm soát được khi có cơ chế xác định và các
điều kiện cần thiết cho sự vận hành của nó trên thực tế. Cơ chế đó bao gồm
kiểm soát bên ngoài, lẫn kiểm soát bên trong quyền lực nhà nước.
Mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước, theo chủ nghĩa Mác Lênin, là loại bỏ những điều kiện xã hội đã sản sinh ra Nhà nước và giai cấp.
Đây chính là quá trình khắc phục sự tha hóa của quyền lực nhà nước, đưa
quyền lực nhà nước trở về với đúng nghĩa của nó là quyền lực của nhân dân,
quyền lực thực hiện chức năng công quản xã hội. Vì thế, có thể nói, nội dung
của kiểm soát quyền lực nhà nước là: đảm bảo cho quyền lực nhà nước được
21


sử dụng đúng mục đích; đảm bảo cho quyền lực nhà nước thực thi có hiệu
lực, hiệu quả.
Cần phải nhận thức sâu sắc vai trò của kiểm soát quyền lực nhà nước.
Bởi trong Nhà nước dân chủ và pháp quyền thì quan hệ giữa Nhà nước và
nhân dân là quan hệ đại diện, ủy quyền. Bản thân quan hệ này cần phải khắc
phục các biểu hiện sau:
Một là, giữa người chủ và người đại diện có thể xảy ra mâu thuẫn về lợi
ích. Nếu xảy ra điều đó thì kết quả là người chủ phải chịu sự thiệt thòi nào đó
về lợi ích của mình, do người đại diện không làm đúng, làm đủ nhiệm vụ và
quyền hạn được giao; người chủ phải chịu những tổn thất do người đại diện

gây ra.
Hai là, sự không bình đẳng về thông tin và hành động giữa người chủ
và người đại diện nhất là trong điều kiện của nền kinh tế tri thức và khoa học
công nghệ phát triển như vũ bão. Người đại diện vốn có những thông tin mà
người chủ không thể có hoặc phải chi phí lớn mới có được. Người đại diện lại
có thể sử dụng nhiều hành động khác nhau làm cho người chủ khó lòng mà
nhận xét và kết luận về tính đúng đắn của các kết quả do họ đưa ra.
Ba là, trong các thể chế dân chủ, tổ chức và hoạt động quyền lực nhà
nước thường xảy ra một thực tế là: có trường hợp thiểu số là đúng và hợp lý
nhưng vẫn phải chịu sự chi phối và quyết định của đa số thiển cận. Đây là vấn
đề nan giải đã được đặt ra từ lâu trong lịch sử chính trị và được Madison khái
quát thành “sự chuyên chế của đa số”.
2.3. Thực tiễn vận hành của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
trong thời kỳ đổi mới
Từ sự chuyển biến và thay đổi về nhận thức lý luận nói trên, cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước cũng từng bước ra đời và được vận hành trong
thực tiễn, với những biểu hiện cụ thể như sau:
Một là, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và hoạt động giám sát
của các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội được tăng cường hơn
22


trước đây. So với Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980, có thể thấy,
Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 đã trao cho
Quốc hội nhiều hình thức thực hiện quyền giám sát nhất - từ xem xét báo cáo
công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án
Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, xem xét văn bản quy phạm
pháp luật của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội, đến xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch nước, Chủ tịch

Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính
phủ, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao và thành lập Ủy ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và
xem xét báo cáo kết quả điều tra của Ủy ban (Điều 7 Luật Hoạt động giám sát
của Quốc hội năm 2003). Đến Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 đã bổ
sung thêm hình thức “bỏ phiếu tín nhiệm” đối với các chức danh do Quốc hội
bầu và phê chuẩn. Quốc hội không những giám sát hoạt động mà còn giám sát
các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan và cá nhân do Quốc hội
thành lập và bầu ra. Như vậy, Quốc hội được xem là một thiết chế quan trọng
nhất trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Thực tiễn những năm qua
cho thấy, công tác giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của Hội đồng Dân
tộc và các Ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội, đặc biệt là hoạt
động chất vấn tại nghị trường, được tăng cường, và nhìn chung, được nhân
dân đồng tình, ủng hộ.
Hai là, trong bộ máy hành pháp, công tác thanh tra, kiểm tra phục vụ
quản lý nhà nước cũng được tăng cường, góp phần vào quản lý nhà nước và
đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Ba là, báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng bước đầu góp
phần vào kiểm soát quyền lực nhà nước, với tư cách là một thành tố cấu thành
cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên ngoài bộ máy nhà nước.

23


Tuy nhiên, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước cũng còn những tồn
tại chủ yếu như sau:
Về nhận thức, thói quen truyền thống của mô hình tổ chức quyền lực
nhà nước theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa được tuyệt đối hóa, trở
thành sức ỳ, cản trở việc thực hiện những tư duy, nhận thức mới. Vì thế, cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước, xét về phương diện nhận thức, còn nhiều

vấn đề thiếu nhất quán, mâu thuẫn với nhau. Ví dụ, Hiến pháp năm 2013 thừa
nhận nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, là người “xây dựng, thi hành và
bảo vệ Hiến pháp” (Lời nói đầu), nhưng chưa ghi nhận cơ chế tài phán các vi
phạm Hiến pháp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp, như văn kiện của Đảng đã chỉ ra. Do đó, hoạt động lập pháp của Quốc
hội chưa có cơ chế kiểm soát. Có thể nói, nhiều vấn đề rất mới, rất phù hợp
với quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta
đã đề ra, như “Phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”... chưa có được nhận thức hoàn toàn
thống nhất, nhất quán và sâu sắc trong các đạo luật, nhất là các đạo luật về tổ
chức bộ máy nhà nước ban hành sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực.
Về thực tiễn, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay,
kể cả sau khi có Hiến pháp năm 2013 cũng chưa hoàn thiện. Vẫn chưa có thiết
chế bảo vệ Hiến pháp độc lập, như Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã chỉ ra:
“Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động
lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Theo đó, hoạt động lập pháp của Quốc hội
vẫn nằm ngoài cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Thanh tra, kiểm tra trong bộ máy hành pháp là phương tiện chủ yếu
phục vụ cho quản lý nhà nước, được xem là một thiết chế độc lập thực hành
kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng trong thực tế, Thanh tra Chính phủ và
thanh tra của các cơ quan quản lý nhà nước là những thiết chế phụ thuộc vào
thủ trưởng quản lý, phục vụ cho quản lý nhà nước. Vì thế, thanh tra, kiểm tra

24


trong bộ máy quản lý nhà nước không phải là chủ thể và là phương tiện kiểm
soát quyền lực nhà nước theo đúng nghĩa.
Việc bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các bộ, cơ
quan ngang bộ, chính quyền địa phương và các tập đoàn kinh tế nhà nước của

viện kiểm sát nhân dân để chuyển cho các cơ quan dân cử và cơ quan thanh
tra, kiểm tra trong bộ máy hành pháp sau khi sửa đổi Hiến pháp năm 1992
vào năm 2001 dường như đã làm cho việc kiểm soát quyền lực nhà nước
không được tăng cường, nhiều biểu hiện tiêu cực, tham nhũng phát hiện và xử
lý chậm, không kịp thời.
Đối với nội bộ Đảng, hệ thống ủy ban kiểm tra thực chất cũng làm
nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc kiểm tra các cán bộ,
đảng viên trong bộ máy nhà nước. Nhưng ủy ban kiểm tra của các tổ chức
đảng lại chỉ hoạt động khi có khiếu nại, tố cáo, nên thiếu chủ động và không
mang tính toàn diện của kiểm soát quyền lực nhà nước.
Các phương tiện thông tin đại chúng có vai trò quan trọng trong việc
góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng chưa được phát huy một cách
đầy đủ.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
trong tình hình mới
Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định chủ thể kiểm soát quyền
lực nhà nước là nhân dân. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định, bản chất
của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân là người làm chủ Nhà nước. Do đó, nhân
dân là chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước của mình. Đây là một đòi hỏi tất
yếu nảy sinh từ nhu cầu chính đáng và tự nhiên của người chủ. Bởi, nếu
không kiểm soát được quyền lực nhà nước thì quyền lực nhà nước sẽ bị tha
hóa, nhân dân là chủ thể giao quyền, ủy quyền (quyền lực nhà nước) của mình
cho Nhà nước sẽ bị mất quyền, bị lạm quyền từ phía Nhà nước.

25


×