Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần việt nam thương tín

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (663.46 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH


ĐINH NGỌC TƯỜNG

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN VIỆT NAM THƯƠNG TÍN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

MÃ SỐ: 60.34.02.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN

TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2012


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Quá trình toàn cầu hóa đã làm tăng thêm mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế trên thế giới dưới nhiều góc độ đan xen và phức tạp. Khủng hoảng tín dụng tại Mỹ
bắt đầu từ cuối năm 2007 đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế thế giới và
Việt Nam với hậu quả để lại là rất nặng nề và vẫn còn âm ỉ chưa biết khi nào mới nguôi.
Trong tình hình hiện nay, nợ xấu đang là vấn đề nhức nhối, có thể gây ra nhiều hậu
quả cho các ngân hàng thương mại. Không những thế, các khoản nợ xấu đó còn có thể ảnh


hưởng lan truyền cho toàn bộ nền kinh tế. Đứng trước tình hình đó, công tác quản lý rủi ro
tín dụng tại các ngân hàng thương mại phải được xem là ưu tiên hàng đầu.
Xuất phát từ nhận thức đó, tôi đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản
lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thương Tín” làm đề tài
tốt nghiệp chương trình Cao học kinh tế của mình.
Đề tài nghiên cứu sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Vì vậy, rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến chân thành của quý Thầy, Cô.
Qua đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn thầy PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn, người
đã tận tình hướng dẫn và có nhiều góp ý quý báu cả về lý luận cũng như thực tiễn cho tôi,
để giúp tôi hoàn thành luận văn này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu, khảo sát thực trạng hoạt động tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng,

đồng thời chỉ ra các tồn tại và nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng tại VIETBANK.
- Trên cơ sở những thực trạng đó, đề xuất các giải pháp giúp nâng cao hiệu quả công

tác tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng tại VIETBANK.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Hoạt động tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Việt Nam

Thương Tín trong giai đoạn 2009 - 2011
- Phạm vi: Ngân hàng Việt Nam Thương Tín.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp với phương pháp thống kê, so
sánh, tổng hợp, phân tích, … đi từ cơ sở lý thuyết đến thực tiễn nhằm giải quyết và làm
sáng tỏ mục tiêu nghiên cứu của luận văn.


2

5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 Chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng.
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Việt Nam Thương Tín.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Việt
Nam Thương Tín.
6. Điểm nổi bật của luận văn
- Luận văn đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận về tín dụng và quản lý rủi ro tín

dụng, với nhiều thông tin khá phong phú và sinh động.
- Luận văn đưa ra các giải pháp thiết thực, cụ thể, khả thi và bám sát thực tế hoạt

động của VIETBANK, nhằm nâng cao hiệu quả công tác tín dụng và quản lý rủi ro tín
dụng tại VIETBANK trong giai đoạn hiện nay.


3

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ
RỦI RO TÍN DỤNG
1.1. Tổng quan về tín dụng
1.1.1. Khái niệm về tín dụng
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ La – Tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm). Theo đó,
tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị tài sản (vốn) từ người sở hữu
sang người sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định, trên cơ sở tin tưởng (tín nhiệm)
người sử dụng vốn sẽ sử dụng hiệu quả để có khả năng hoàn trả một lượng giá trị lớn hơn
giá trị ban đầu. Như vậy, phạm trù tín dụng gắn với chuyển nhượng một lượng vốn có ba
đặc điểm chính là: tính tạm thời (tính thời hạn), tính hoàn trả với giá trị lớn hơn giá trị ban

đầu và tính chất tin tưởng người sử dụng vốn có khả năng hoàn trả đúng hạn.
Từ phân tích trên, ta đi đến định nghĩa: Tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng chấp
thuận để khách hàng sử dụng một lượng tài sản (bằng tiền, tài sản thực hay uy tín) trên cơ
sơ lòng tin khách hàng có khả năng hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn. Ngân hàng cấp tín
dụng dưới các hình thức cho vay, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh, chiết khấu
giấy tờ có giá và các nghiệp vụ khác.
Ở đây, cần phân biệt tín dụng và cho vay. Cho vay là việc cấp tín dụng bằng tiền.

Còn tín dụng được thể hiện dưới hình thức: cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá, bao thanh
toàn, cho thuê tài chính và bảo lãnh. Tức là, tín dụng được thể hiện dưới cả hình thức bằng
tiền, bằng tài sản và bằng uy tín.
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở lòng tin. Đây là đặc điểm quan trọng
nhất, từ đó tạo ra các đặc điểm tiếp theo.
Thứ hai, tín dụng là sự chuyển nhượng một tài sản có thời hạn hay có tính hoàn trả.
Thứ ba, tín dụng phải trên nguyên tắc không chỉ hoàn trả gốc mà phải cả lãi.
Thư tư, tín dụng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao cho ngân hàng.
Thứ năm, tín dụng phải trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện..
Từ những đặc điểm trên cho thấy, tín dụng ngân hàng phải bảo đảm được hai nguyên
tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.


4
Thứ hai, vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn đã cam kết.
1.2. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng và rủi ro tín dụng
1.2.1. Khái niệm về rủi ro
Rủi ro là những biến cố không mong đợi khi xảy ra, dẫn đến tổn thất về tài sản, giảm
sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn
thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định.

1.2.2. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Trong kinh doanh, ngân hàng thường gặp phải các rủi ro chính như sau rủi ro thanh
khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro nguồn vốn, rủi ro vận hành và
rủi ro quốc gia/các yếu tố vĩ mô.
1.2.3. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết.
Một khoản tín dụng có khả năng xảy ra rủi ro từ 0% - 100%. Rủi ro tín dụng có thể
xảy ra ở tất cả các giai đoạn, từ giai đoạn thu thập thông tin, giai đoạn thẩm định, giai đoạn
xem xét phê duyệt, giai đoạn sử dụng vốn, giai đoạn xử lý khoản nợ có vấn đề, …
Có thể rút ra các nội dung cơ bản của rủi ro tín dụng như sau:
- Rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp

đồng, bao gồm vốn gốc và/hoặc lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hạn hoặc không thanh toán.
- Rủi ro tín dụng dẫn đến tổn thất về tài chính, tức là giảm thu nhập ròng và giảm giá

trị thị trường của vốn dẫn đến thua lỗ hoặc nặng hơn là có thể phá sản.
- Đối với các nước đang phát triển (như Việt Nam), tín dụng vẫn được coi là dịch vụ

sinh lời chủ yếu, đặc biệt đối với các ngân hàng nhỏ. Vì vậy, rủi ro tín dụng cao hay thấp
sẽ quyết định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
- Mặt khác, rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng đồng biến với

nhau (lợi nhuận kỳ vọng càng cao thì rủi ro tiềm ẩn càng lớn) trong một phạm vi nhất định.
- Rủi ro là một yếu tố khách quan, cho nên người ta không thể nào loại trừ hoàn toàn

được mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của chúng, cũng như tác hại do chúng gây ra.
Ở đây, chúng ta hiểu rủi ro tín dụng theo nghĩa xác suất, là khả năng, do đó có thể


xảy ra hoặc không xảy ra tổn thất. Điều này có nghĩa là, một khoản tín dụng dù chưa quá


5
hạn nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ (khả năng) xảy ra tổn thất.
Về nguyên tắc, trước khi cấp tín dụng ngân hàng đã thực hiện phân tích tín dụng để
xem xét, đánh giá về khả năng trả nợ và thiện chí trả nợ của khách hàng. Vậy, vì sao lại có
rủi ro xảy ra đối với những khoản tín dụng mà ngân hàng đã dày công phân tích và đánh
giá đó? Điều này có thể giải thích như sau:
- Việc phân tích tín dụng không thể đạt đến mức độ có thể dự đoán hoàn toàn chính

xác về khoản tín dụng đó có được hoàn trả đầy đủ như đã thỏa thuận hay không? Việc
phân tích tín dụng được thực hiện ở hiện tại, trong khi việc cho vay và trả nợ lại diễn ra
trong tương lai, nên ngân hàng phải dự đoán về tình hình khả năng trả nợ và thiện chí trả
nợ của khách hàng trong tương lai, trên cơ sở những thông tin có được trong quá khứ và
hiện tại. Mà đã là dự đoán thì có thể đúng hoặc sai hoặc không đầy đủ, vì tương lai thì
không có điều gì là chắc chắn.
- Ý chí và khả năng trả nợ của khách hàng có thể thay đổi sau khi khoản tín dụng được

cấp do nhiều nguyên nhân, mà ngân hàng và khách hàng không thể lường trước được.
- Xuất hiện một số khoản tín dụng có sai lầm ngay trong quá trình trình thẩm định và

xét duyệt, do khả năng phân tích yếu kém hoặc quyết định tín dụng vội vã.
Chính vì vậy mà những người cho vay luôn đòi hỏi bảo đảm chắc chắn cho sự hoàn
trả nợ vay. Nhưng thực tế thì người vay thường ở thế có lợi hơn khi tiền đã giải ngân.
1.2.4. Phân loại rủi ro tín dụng
1.2.4.1. Phân loại theo khách quan, chủ quan
- Rủi ro khách quan do các nguyên nhân khách quan như thiên tai, địch họa, những
thay đổi trong môi trường kinh doanh không thể lường trước được.
- Rủi ro chủ quan do nguyên nhân chủ quan của người vay và người cho vay


vì vô tình hay cố ý làm thất thoát vốn vay hay vì những lý do chủ quan khác.
1.2.4.2. Phân loại theo nguyên nhân phát sinh rủi ro
a. Rủi ro giao dịch
Rủi ro giao dịch bao gồm rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ:
- Rủi ro lựa chọn là rủi ro có liên quan đến đánh giá và phân tích tín dụng khi ngân

hàng lựa chọn và quyết định cấp một khoản tín dụng mới cho khách hàng.
- Rủi ro bảo đảm phát sinh do các sai sót liên quan đến bảo đảm tín dụng, loại tài sản

bảo đảm, chủ thể bảo đảm, hình thức bảo đảm và mức cho vay trên giá trị tài sản bảo đảm.


6
- Rủi ro nghiệp vụ phát sinh liên quan đến công tác quản lý, kiểm soát khoản vay; do
thiếu chặt chẽ ở khâu theo dõi, giám sát quá trình sử dụng vốn vay; ...

b. Rủi ro danh mục
Rủi ro danh mục được phân chia thành rủi ro cá biệt và rủi ro tập trung:
- Rủi ro cá biệt xuất phát từ các yếu tố, đặc điểm riêng bên trong của mỗi chủ thể đi

vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử
dụng vốn của khách hàng vay.
- Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều đối với một

số khách hàng, cho vay quá nhiều khách hàng hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực
kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định, …
1.2.5. Đặc điểm của rủi ro tín dụng
- Rủi ro mang tính gián tiếp: Rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng gặp những tổn


thất và thất bại trong quá trình sử dụng vốn. Do đó, rủi ro trong hoạt động kinh doanh của
khách hàng là nguyên nhân chủ yếu gây nên rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
- Rủi ro có tính chất đa dạng và phức tạp: đặc điểm này biểu hiện ở sự đa dạng,

phức tạp của nguyên nhân, hình thức và hậu quả của rủi ro tín dụng.
- Rủi ro tín dụng có tính tất yếu, tức là luôn tồn tại gắn liền với hoạt động tín dụng

của ngân hàng: tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm cho ngân hàng không thể nắm bắt
được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và đầy đủ, điều này làm cho bất kỳ khoản vay
nào cũng tiềm ẩn những rủi ro.
1.2.6. Biểu hiện của rủi ro tín dụng
- Không thu được lãi đúng hạn



- Không thu được vốn đúng hạn
- Không thu đủ lãi



Lãi treo phát sinh.



Nợ quá hạn phát sinh.

Lãi treo, miễn, giảm lãi.

- Không thu đủ vốn (mất vốn)




Nợ không có khả năng thu hồi, xóa nợ.
1.2.7. Ảnh hƣởng của rủi ro tín dụng
1.2.7.1. Ảnh hƣởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng

- Đối với ngân hàng bị rủi ro, ngân hàng không thu được vốn gốc và lãi làm cho

nguồn vốn bị thất thoát, nhưng vẫn phải chi trả gốc và tiền lãi cho nguồn vốn huy động khi
đến hạn, làm kết quả kinh doanh xấu đi, có thể dẫn đến thua lỗ hoặc phá sản.


7
- Đối với hệ thống ngân hàng, một ngân hàng bị rủi ro sẽ tác động dây chuyền ảnh

hưởng xấu tới các ngân hàng và các bộ phận kinh tế khác.
1.2.7.2. Ảnh hƣởng đến nền kinh tế xã hội
- Nếu rủi ro tín dụng gây nên sự phá sản một ngân hàng sẽ làm cho nền kinh tế bị rối

loạn, hoạt động kinh tế bị suy giảm và ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị - xã hội, …
- Ngân hàng là có chức năng huy động vốn để cho vay lại, khi ngân hàng gặp rủi ro

thì chẳng những ngân hàng bị thiệt mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng.
- Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, làm ảnh hưởng đến vị thế và hình ảnh của hệ

thống ngân hàng – tài chính quốc gia cũng như toàn bộ nền kinh tế của quốc gia đó.
1.2.8. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.2.8.1. Những nguyên nhân từ môi trƣờng vĩ mô
- Nguyên nhân bất khả kháng (thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh).
- Biến động lãi suất, tỷ giá, lạm phát.

- Khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế, thất nghiệp.
- Thay đổi chính sách (chính sách kinh tế vĩ mô, thuế, pháp luật).
- Thanh tra, giám sát không chặt chẽ, kém hiệu quả.

1.2.8.2. Những nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng
- Chính sách tín dụng không hợp lý, quá nhấn mạnh vào mục tiêu lợi nhuận dẫn đến

cho vay đầu tư quá liều lĩnh, tập trung nguồn vốn cho vay quá nhiều vào một khách hàng
hoặc một nhóm khách hàng liên quan hoặc một ngành kinh tế nào đó.
- Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm bảo chắc

chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.
- Do thiếu am hiểu thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin không đầy đủ

dẫn đến cho vay và đầu tư không hợp lý; quyết định cho vay sai lầm.
- Chạy theo chỉ tiêu mà sao lãng việc coi trọng chất lượng khoản vay.
- Quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của dự án/phương án kinh doanh.
- Do áp lực cạnh tranh của các ngân hàng mong muốn có lợi nhuận, thị phần cao dẫn

đến việc chạy theo quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn và điều kiện trong cho vay.
- Đứng trước áp lực cạnh tranh khốc liệt và áp lực tăng trưởng, người điều hành buộc

phải mạo hiểm tham gia vào các dự án có rủi ro cao để đổi lại lợi nhuận cao tương ứng.


8
- Cán bộ tín dụng không tuân thủ và chấp hành đúng quy định của pháp luật; chính

sách tín dụng, quy định, hướng dẫn và quy trình tín dụng nội bộ. Cán bộ tín dụng yếu kém
về trình độ nghiệp vụ, vi phạm đạo đức nghề nghiệp.

- Công tác kiểm tra, giám sát khoản vay chưa được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc,

thiếu độc lập, dẫn đến công tác kiểm tra, giám sát trở nên hình thức, qua loa, kém hiệu quả.
- Sự hợp tác, chia xẻ thông tin giữa các ngân hàng trong hệ thống và với Ngân hàng

trung ương chưa tốt, vai tro của CIC còn mờ nhạt, chưa phát huy hiệu quả như mong muốn.

1.2.8.3. Các nguyên nhân thuộc về phía khách hàng
- Do khách hàng vay vốn thiếu năng lực pháp lý.
- Sổ sách ghi chép tình hình tài chính, kinh doanh không đầy đủ, thiếu minh bạch.
- Sử dụng vốn vay sai mục đích; đầu tư dàn trải; theo đuổi những lĩnh vực kinh

doanh có rủi ro cao, trong khi khả năng kiểm soát và chịu đựng rủi ro thì hạn chế.
- Nhóm khách háng liên quan sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng thanh

toán dây chuyền nhưng ngân hàng khó kiểm soát.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy thiếu khoa học, cồng kềnh, dẫn đến tăng chí phí mà hiệu

quả lại thấp, khó tạo đồng thuận và sự hợp tác để thực hiện kế hoạch kinh doanh.
- Không có chiến lược, kế hoạch kinh doanh và đầu tư rõ ràng; dẫn đến việc điều hành

tùy tiện, không có định hướng, nên rất dễ bị tổn thương trước các cú sốc từ bên ngoài.
- Chiến lượng quảng bá hình ảnh, thương hiệu chưa được đầu tư đúng mức; chất

lượng sản phẩm, dịch vụ thấp nên khả năng cạnh tranh không cao.
- Quản lý tài chính cẩu thả, không có nguyên tắc và kế hoạch; đẩy doanh nghiệp vào thế

bị động về tài chính, làm ảnh hướng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chủ doanh nghiệp/người điều hành doanh nghiệp thiếu kinh nghiệm về lĩnh vực


kinh doanh; yếu kém trong quản lý, điều hành.
- Khách hàng gian lận, lừa đảo trong việc cung cấp hồ sơ, tài liệu, thông tin liên quan

đến khoản vay và phương án kinh doanh.
- Do mất đoàn kết trong nội bộ Hội đồng quản trị, Ban điều hành.

1.2.8.4. Nguyên nhân từ tài sản bảo đảm
- Định giá tài sản không đúng nguyên tắc, định giá cao hơn giá trị thực.
- Không thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý cần thiết trước, trong và sau khi định


9
giá (tìm hiểu thông tin quy hoạch, tranh chấp pháp lý, giải tỏa, ...).
- Không tuân thủ các nguyên tắc lựa chọn tài sản bảo đảm (đễ định giá, dễ chuyển

nhượng, dễ tiêu thụ, …).
- Tài sản bị khấu hao vô hình nhanh làm giá trị tài sản giảm nhanh hơn dư nợ.
- Tài sản bảo đảm là những tài sản chuyên dụng nên tính khả mại thấp, khó xử lý.

1.2.9. Các chỉ tiêu chính đánh giá hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng

Tỷ lệ nợ quá hạn

Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng=

Tỷ lệ mất vốn

Hệ số bù đắp khoản vay bị thất thoát

Hệ số khả năng bù đắp rủi ro tín dụng


1.2.10. Những dấu hiệu cảnh báo rủi ro tín dụng
Việc kinh doanh khó có thể thất bại qua một đêm. Do vậy, sự thất bại đó thường có
một vài dấu hiệu báo động trước.
Rủi ro tín dụng bản thân nó thường ẩn chứa trong các khoản vay có vấn đề, nó diễn
biến và thể hiện ra một cách đa dạng và phức tạp. Sau đây là một số dấu hiệu nhận biết:
Nhóm 1: Dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngƣời vay.
Trong quá trình theo dõi, xu hướng của các tài khoản của khách hàng trong một quá
trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu quan trọng:
- Phát hành séc quá số dư hoặc bị từ chối.
- Khó khăn trong thanh toán lương, các khoản phụ cấp khác, BHXH, BHYT, thuế, …
- Sự dao động mạnh số dư của các tài khoản, đặc biệt là tài khoàn tiền gửi.
- Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác nhau.


- Gia tăng các khoản nợ thương mại/không có khả năng thanh toán nợ khi đến hạn.
- Thanh toán chậm trễ các khoản nợ gốc và lãi.
- Thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo hạn các khoản vay.


10
- Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
- Sử dụng các khoản vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, dẫn đến mất cân đối vốn.
- Chấp nhận các nguồn tài trợ với giá đắt (vay với mọi giá, không ngại lãi suất cao).
- Chậm trễ trong việc liên lạc với cán bộ tín dụng.
- Có sự thay đổi vị trí xếp hạng tín nhiệm.
- Giá trị tài sản bảo đảm giảm sút, khó chuyển nhượng.

Nhóm 2: Dấu hiệu liên quan tới phƣơng pháp quản lý.
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của Hội đồng quản trị hoặc Ban điều hành.

- Hội đồng quản trị hoặc Ban điều hành thường bất đồng về mục tiêu, chiến lược;

quản trị, điều hành độc đoán hoặc quá phân tán.
- Cách thức hoạch định chiến lược, điều hành của khách hàng có biểu hiện:
+ Hội đồng quản trị/Ban điều hành tham gia quá sâu vào các vấn đề thường nhật.
+ Thiếu quan tâm đến lợi ích của cổ đông, của chủ nợ.
+ Thuyên chuyển nhân viên diễn ra thường xuyên.
+ Lập kế hoạch, xác định muc tiêu kém; xuất hiện các hành động nhất thời; không có

khả năng đối phó với những thay đổi.
- Lập kế hoạch, chuẩn bị nhân sự thay thế chưa được thực hiện đầy đủ và chủ động.
- Quản lý có tính gia đình; cho thành viên của gia đình chưa được đạo tạo, huấn

luyện đầy đủ giữ các vị trí then chốt.
- Có tranh chấp trong quá trình quản lý: tranh chấp giữa Hội đồng quản trị và/hoặc

Ban điều hành với các cổ đông và/hoặc chính quyền/nhân viên/người cho vay/khách hàng.
- Các chi phí quản lý bất hợp lý: tập trung quá mức chi phí để gây ấn tượng như thiết

bị văn phòng rất hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền, Hội đồng quản trị/Ban điều
hành có cuộc sống xa hoa, lẫn lộn giữa chi phí kinh doanh và tài chính cá nhân.
Nhóm 3: Các dấu hiệu liên quan tới các ƣu tiên trong kinh doanh.
- Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: khách hàng bị ấn tượng bởi một khách hàng có

tên tuổi mà sau này có thể trở nên lệ thuộc.
- Dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: không đúng lúc hoặc bị ám ảnh bởi một sản

phẩm mà không chú ý đến các yếu tố khác.



11
- Sự cấp bách không thích hợp như: do áp lực nội bộ dẫn tới việc tung sản phẩm,

dịch vụ ra quá sớm; tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc.
Nhóm 4: Các dấu hiệu thuộc vấn đề kỹ thuật và thƣơng mại.
- Khó khăn trong phát triển sản phẩm.
- Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất; thay đổi thị hiếu; không cập nhật kỹ thuật

mới; mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn; thêm đối thủ cạnh tranh.
- Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước: đặc biệt chú ý sự tác động của các

chính sách kinh tế vĩ mô (tiền tệ, lãi suất, tỷ giá), thuế, điều kiện thành lập và hoạt động, ...
- Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao.
- Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế.
- Thay đổi bất thường trong khấu hao, phương pháp tính giá trị hàng tồn kho.

Nhóm 5: Các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính, kế toán.
- Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính, chậm trễ, trì hoãn nộp báo cáo tài chính.
- Kết quả phân tích tài chính cho thấy:
+ Khả năng tiền mặt giảm sút.
+ Tăng doanh số bán nhưng lãi giảm hoặc không có.
+ Hàng tồn kho tăng cao, thời gian lưu kho dài.
+ Khoản phải thu tăng cao, thời gian thu hồi được kéo dài.
+ Lập kế hoạch trả nợ mà nguồn trả nợ không đủ.
+ Thường xuyên không đạt kế hoạch về sản xuất và bán hàng.
+ Giảm các khoản phải trả, tăng các khoản phải thu.
+ Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng ngày càng xấu đi.
+ Có biểu hiện giảm vốn điều lệ, thay đổi bất thương trong cơ cấu vốn.
+ Trì hoãn/chậm trễ thanh toán cổ tức, ...
- Những dấu hiệu phi tài chính khác: đây là những dấu hiệu mà cán bộ tín dụng có


thể nhận biết bằng mắt thường như:
+ Những vấn đề về đạo đức, dáng vẻ của người vay cũng biểu hiện dấu hiệu gì đó.
+ Sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh doanh cũng là một dấu hiệu.


12
+ Nơi lưu giữ hàng hóa để quá nhiều hàng, lộn xộn, có nhiều hàng hư hỏng/lạc hậu.
- Giá cổ phiếu của công ty thay đổi bất lơi.

Trong tất cả các dấu hiệu trên, dấu hiệu rõ ràng và có ý nghĩa nhất là khách hàng
chậm thanh toán khoản gốc và/hoặc lãi vay.
1.3. Quản lý rủi ro tín dụng
1.3.1. Khái niệm
Quản lý rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính
sách quản lý và kinh doanh tín dụng, nhằm đạt được các mục tiêu an toàn, hiệu quả và
phát triển bền vững.
Để hoạt động quản lý rủi ro tín dụng đạt hiệu quả, cần phải thực hiện thường xuyên,
chặt chẽ trong cả một quá trình, trên cơ sở tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và
có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất.
1.3.2. Sự cần thiết của công tác quản lý rủi ro tín dụng
- Quản lý rủi ro tín dụng để hạn chế tối đa thiệt hại, đồng nghĩa là để tối đa hóa lợi

nhuận và tối đa hóa giá trị cho cổ đông.
- Quản lý rủi ro tín dụng tốt sẽ giúp phát hiện kịp thời những biến cố bất lợi, các tình

huống xấu có thể xảy ra hoặc đã, đang xảy ra và có khả năng lan ra trên phạm vi rộng, để
từ đó có những giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro thích hợp.
- Để xây dựng hình ảnh; đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư/cơ quan quản lý/các chuẩn


mực quốc tế.
- Quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả sẽ giúp đưa ra những chiến lược, giải pháp, mục

tiêu cụ thể, xuyên suốt và đúng đắn để hạn chế rủi ro và giúp ngân hàng đi đúng hướng.
1.3.3. Nhiệm vụ của công tác quản lý rủi ro tín dụng
- Hoạch định phương hướng và kế hoạch phòng chống rủi ro. Dự đoán, xác định rủi ro

có thể xảy ra đến đâu, trong điều kiện nào, nguyên nhân dẫn đến rủi ro, hậu quả ra sao,...
- Xây dựng các chương trình nghiệp vụ, cơ cấu kiểm soát phòng chống rủi ro, phân

quyền hạn và trách nhiệm cho từng thành viên, lựa chọn những công cụ kỹ thuật phòng
chống rủi ro, xử lý rủi ro và giải quyết hậu quả do rủi ro gây ra một cách nghiêm túc.
- Kiểm tra, kiểm soát để đảm bảo việc thực hiện theo đúng kế hoạch phòng chống rủi

ro đã hoạch định, phát hiện các rủi ro tiềm ẩn, các sai sót khi thực hiện giao dịch.


13
- Nhằm đạt kết quả kinh doanh cao, trong giới hạn rủi ro có thể giám sát, chịu đựng.
- Thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
- Đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả, phát triển bền vững trong điều kiện thị trường

có nhiều biến động, nguy cơ rủi ro luôn rình rập và không ngừng gia tăng.
1.3.4. Các nội dung chính trong quy trình quản lý rủi ro tín dụng
1.3.4.1. Thiết lập chính sách tín dụng phù hợp
Để đạt mục tiêu quản lý rủi ro tín dụng đề ra, các ngân hàng cần thiết lập cho mình
chính sách tín dụng phù hợp. Chính sách tín dụng là hệ thống các quan điểm và công cụ do
Hội đồng tín dụng/Hội đồng quản trị đề ra và thực thi khi xem xét cấp tín dụng cho khách
hàng, nhằm mục tiêu quản lý tốt dư nợ và rủi ro tín dụng. Chính sách tín dụng nói chung
có hai trạng thái hay hai kiểu chính sách: mở rộng và thắt chặt và được thực hiện thông

qua các công cụ như lãi suất, tỷ lệ tham gia vốn và tiêu chuẩn xét duyệt.
Chính sách tín dụng phù hợp là chính sách tín dụng linh hoạt chuyển đổi qua lại giữa
hai trạng thái mở rộng và thắt chặt tùy theo tình hình của nền kinh tế cũng như tình hình
quản lý tín dụng của ngân hàng. Mặt khác, chính sách tín dụng của ngân hàng cần gắn bó
chặt chẽ với chính sách kinh tế vĩ mô.
1.3.4.2. Phân tích tín dụng định tính
Lý lẽ của phân tích tín dụng
Khi cho khách hàng vay tiền, chủ tiệm cầm đồ không cần phân tích tín dụng. Thay
vào đó, người chủ tiệm chỉ cần biết giá trị và tính pháp lý của tài sản bảo đảm là đủ. Tuy
nhiên, nếu ngân hàng cho vay thì việc phân tích tín dụng là cần thiết để xác định khả năng
hoàn trả của khoản vay, cùng những rủi ro có thể đi kèm khi cho vay. Bởi vì, ngân hàng
cho vay luôn mong muốn thu hồi khoản nợ từ thu nhập/dòng tiền do vốn vay mang lại,
chứ không hề muốn cho vay để thu nợ từ tài sản bảo đảm của khách hàng.
Để khoản vay được hoản trả đúng như thỏa thuận trong hợp đồng, đòi hỏi người đi
vay phải có khả năng trả nợ và thiện chí (ý muốn) trả nợ. Phân tích tín dụng là quá trình
ngân hàng tìm hiểu thông tin về (1) khả năng trả nợ và (2) thiện chí trả nợ của người đi
vay. Trong quá trình này, ngân hàng cố gắng thay thế những cảm nhận chủ quan của mình
về người đi vay bằng những lý lẽ khoa học, dựa trên cơ sở nghiên cứu cẩn trọng các mặt
mạnh và yếu của ngươi đi vay.
Như vậy, có thể nói mục đích của phân tích tín dụng mà ngân hàng mong muốn là:


14
- Đánh giá được đầy đủ, chính xác khả năng trả nợ và thiện chí trả nợ của người vay.
- Hạn chế thông tin bất cân xứng.
- Đánh giá đúng thực trạng rủi ro của khách hàng.
- Loại trừ bớt những khách hàng xấu, nhiều rủi ro.
- Hạn chế bỏ sót nhiều khách hàng tốt, ít rủi ro.
- Có những biện pháp thích hợp để hạn chế rủi ro trong quá trình cho vay.
- Xác định đúng nhu cầu vay của khách hàng.

- Đưa ra quyết định chính xác về cho vay hay từ chối.

Có nhiều phương pháp phân tích tín dụng, nhưng phổ biến là phương pháp phân tích
định tính và phân tích định lượng. Các phương pháp này không loại trừ lẫn nhau, mà bổ
sung cho nhau, giúp ngân hàng có được kết quả phân tích đầy đủ và chính xác nhất có thể.
Phân tích định tính giúp củng cố, bổ sung thêm cho những kết quả của phân tích
định lượng. Từ đó, giúp ngân hàng có được quyết định cho vay đúng đắn nhất. Phân tích
định tính có nhiều nội dung, sau đây là một số nội dung phổ biến:
Tư cách người vay (Character):
- Có thiện chí trả nợ và ý thức trả nợ thật lòng, sòng phẳng. Có uy tín trong quan hệ

xã hội, quan hệ kinh tế và đáng tin cậy. Là người có tư cách tốt, đạo đức tốt, lương thiện.
- Mục đích vay, phương án sử dụng vốn, kế hoạch trả nợ hợp lý và rõ ràng.
- Có tâm huyết, có trách nhiệm trong việc kinh doanh và sử dụng vốn vay. Cung cấp

thông tin đầy đủ, trung thực, nhanh chóng và hợp tác với ngân hàng. Có lịch sử quan hệ tín
dụng tốt với các ngân hàng và các bạn hàng. Có quan hệ tốt và ổn định với các đối tác.
- Xem xét thái độ, phong cách, ăn nói, vẻ bề ngoài, những biểu hiện qua phỏng vấn.
- Những gì khách hàng nói ra có nhất quán với những gì đã trình bày trong giấy đề

nghị vay vốn, trong dự án/phương án kinh doanh và phương án trả nợ không? Khách hàng
có cường điệu trong việc đưa ra các lý lẽ để vay mượn không?
- Nếu là khách hàng mới thì tại sao lại tìm đến ngân hàng này. Nếu có người giới

thiệu thì người đó là ai?
- Chưa vay mượn mà đã hứa hẹn, ban phát lợi ích cho cán bộ ngân hàng.

Lƣu ý: Cẩn thận và đề phòng với những người vay đã có kinh nghiệm, từng trải
trong việc vay mượn.



15
Năng lực của người vay (Capacity)
- Người đi vay phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự, người

ký hợp đồng giao dịch với ngân hàng phải là đại diện hợp pháp theo quy định pháp luật.
- Xem xét kiến thức, trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm để đánh giá khả năng điều hành,

quán xuyến hoạt động kinh doanh của Hội đồng quản trị/Ban điều hành.
- Xem xét mối quan hệ với các khách hàng lớn, quan hệ với cơ quan nhà nước, cơ

quan truyền thông, …
- Đánh giá kết quả kinh doanh trong quá khứ (thành công/thất bại như thế nào?)
Dòng tiền trả nợ (Cashflow)
- Người vay có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ không?
- Đánh giá dòng tiền trong quá khứ và dự báo dòng tiền trong tương lai dùng để trả nơ.

Việc phân tích, dự báo dòng tiền trả nợ trong tương lai gúp ngân hàng ra quyết định cho

vay có cơ sở, nếu không thì quyết định cho vay của ngân hàng chủ yếu dựa vào may mắn.
- Khách hàng trả nợ từ dòng tiền ròng (cash flow) chứ không phải từ lợi nhuận và

khấu hao. Lợi nhuận và khấu hao chỉ phản ánh nguồn trả nơ. Còn dòng tiền ròng sẽ cho
thấy khả năng trả nợ khi đến hạn.
- Thường khách hàng có bốn dòng tiền để trả nơ, đó là (1) dòng tiền từ hoạt động

kinh doanh thuần túy, (2) dòng tiền từ bán/thanh lý tài sản, (3) từ phát hành trái phiếu/cổ
phiếu, (4) dòng tiền từ bên bảo lãnh. Trong đó, dòng tiền trả nợ quan trọng và ưu tiên nhất
là dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh thuần túy
Bảo đảm tiền vay (Collateral)

- Tài sản bảo đảm chỉ là phương tiện dự phòng khi khách hàng không trả được nợ.
- Ngân hàng cho vay không chỉ dựa trên tài sản bảo đảm.
- Tài sản bảo đảm phải thỏa mãn các điều kiện sau: dễ định giá, dễ quản lý, dễ phát
mại khi xử lý nợ, bảo đảm tính pháp lý (quyền sở hữu/sử dụng, không tranh chấp/kiện tụng).
Các điều kiện (Conditions)
Ngân hàng phải dự đoán xu hướng hiện tại về hoạt động kinh doanh và ngành nghề mà
khách hàng vay hoạt động, cũng như những biến động về điều kiện kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng vay như thế nào? (đánh giá về tiềm năng, triển
vọng và rủi ro ngành).
Kiểm soát (Control)


16
- Ngân hàng phải kiểm soát được việc sử dụng vốn vay của khách hàng.
- Ngân hàng cần tập trung đánh giá các yếu tố sau:
+ Những thay đổi về luật pháp, chính sách kinh tế vĩ mô cả trong và ngoài nước có

ảnh hưởng bất lợi đến người vay không?
+ Khách hàng có đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng tín dụng do ngân hàng và cơ

quan quản lý ngân hàng đặt ra không?
1.3.4.3. Phân tích tín dụng định lƣợng
Mục tiêu là nhằm đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng để quyết định cho vay,
theo đó ngân hàng chỉ cho vay khi đánh giá được khách hàng có khả năng trả nợ.
Để đánh giá khả năng trả nợ, phân tích tín dụng định lượng bao gồm phân tích tình
hình tài chính và phân tích phương án kinh doanh/dự án đầu tư.
a. Phân tích tình hình tài chính
Phân tích tình hình tài chính sử dụng dữ liệu từ các báo cáo tài chính và áp dụng kỹ
thuật phân tích tỷ số tài chính để có cơ sở đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Đánh
giá tình hình tài chính, người ta thường phân tích các chỉ số tài chính chủ yếu như sau:

- Nhóm chỉ tiêu thanh khoản: Thanh toán hiện hành/thanh toán nhanh/vốn lưu động.
- Nhóm chỉ tiêu đòn cân nợ: Khả năng tự tài trợ, cơ cấu vốn, khả năng trả lãi/trả nợ.
- Nhóm chỉ tiêu hoạt động: Vòng quay khoản phải thu, vòng quay hàng tồn kho,

vòng quay tổng tài sản, chu kỳ hoạt động/chu kỳ ngân quỹ.
- Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời: Tỷ lệ sinh lời trên doanh thu (ROS), tỷ lệ sinh lời

trên tổng tài sản (ROA), tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE).
Qua việc phân tích các chỉ số tài chính, ngân hàng có thể:
- Đánh giá được tình hình tài chính ở hiện tại và trong quá khứ của khách hàng.
- So sánh với các doanh nghiệp khác trong ngành.
- Dùng những thông tin tài chính có được ở hiện tại và trong quá khứ để dự báo về

tình hình tài chính và khả năng trả nợ của khác hàng trong tương lai.
Để đánh giá đầy đủ và chính xác hơn tình hình tài chính và khả năng trả nợ của
khách hàng trong tương lai, ta cần phân tích thêm dự án/phương án sản xuất kinh doanh.
b. Phân tích dự án/phƣơng án sản xuất kinh doanh
Kết hợp giữa phân tích tình hình tài chính và phân tích dự án/phương án sản xuất


17
kinh doanh là sự kết hợp giữa quá khứ và tương lai nhằm đánh giá chính xác hơn khả năng
trả nợ của khách hàng ở hiện tại. Theo đó, ngân hàng cũng chỉ cho vay khi nào thẩm định
và đánh giá được dự án/phương án của khách hàng là đáng tin cậy, khả thi và có hiệu quả.
1.3.4.4. Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Để hạn chế tổn thất về tài chính có thể ảnh hưởng và làm suy giảm khả năng tài
chính, cũng như gây bất ổn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng trước các rủi ro tín
dụng có thể xảy ra, ngân hàng thường trích lập dự phòng cho từng khoản cấp tín dụng cụ
thể và trích lập dự phòng chung cho tất cả các khoản tín dụng đã cấp.
Để có mức trích lập dự phòng phù hợp với các mức độ rủi ro khác nhau và bảo đảm

đủ nguồn dự phòng để bù đắp các tổn thất về tài chính khi xảy ra rủi ro tín dụng, ngân
hàng phân loại các khoản tín dụng thành nhiều nhóm tương ứng với các mức độ rủi ro tăng
dần. Để phân loại nợ vào các nhóm phù hợp, ngân hàng căn cứ vào yếu tố định tính và
định lượng.
Phân loại theo phƣơng pháp định lƣợng dựa vào thời gian khoản nợ quá hạn:
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn (trích dự phòng 0%)
- Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ

cả gốc và lãi đúng hạn.
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng

thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý (trích dự phòng 5%)
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày.
- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh

nghiệp, tổ chức thì TCTD phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ
gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu).
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn (trích dự phòng 20%)
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn

trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2.
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi

đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ (trích dự phòng 50%)


18

- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn

trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.

Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn (trích dự phòng 100%)
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời

hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ

được cơ cấu lại lần thứ hai.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn

hoặc đã quá hạn.
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.

Phân loại theo định tính dựa vào kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ:
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn (trích dự phòng 0%)
Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ
gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý (trích dự phòng 5%)
Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ
gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn (trích dự phòng 20%)
- Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc

và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn

thất một phần nợ gốc và lãi.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ (trích dự phòng 50%)
- Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao.

Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn (trích dự phòng 100%)
Các khoản nợ được đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
1.3.4.5. Xếp hạng tín dụng nội bộ


19
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ dựa trên các tiêu chí tổng hợp về phân tích tín
dụng định tính và phân tích tín dụng định lượng để xác định loại (hạng) của khách hàng.
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tối thiểu phải bao gồm:
- Các cơ sở pháp lý liên quan đến thành lập, ngành nghề kinh doanh của khách hàng.
- Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp liên quan đến tình hình kinh doanh, tài chính, tài sản,

khả năng thực hiện nghĩa vụ theo cam kết.
- Uy tín đối với tổ chức tín dụng đã giao dịch trước đây.
- Các tiêu chí đánh giá khách hàng chi tiết, cụ thể, có hệ thống .

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tổng hợp các yếu tố trên, cũng như xem xét tình hình
tổng thể của khách hàng tại thời điểm đánh giá, ngân hàng sẽ xác định được loại của khách
hàng tương ứng.
Các ngân hàng thường xếp hạng khách hàng theo mức độ rủi ro tín dụng nhằm:
- Giúp ngân hàng có được nhận định chung về rủi ro của khách hàng và danh mục

cho vay trong bảng cân đối của ngân hàng.
- Phát hiện sớm các khoản cho vay có khả năng bị tổn thất hay bị chệch hướng khỏi

chính sách tín dụng của ngân hàng.

- Có một chính sách định giá phù hợp và chính xác hơn.
- Xác định rõ khi nào cần tăng sự giám sát hoặc các hoạt động điều chỉnh khoản vay

và ngược lại.
- Hỗ trợ cho việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng và quản lý chất

lượng tín dụng phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế của tổ chức tín dụng.
Việc xếp hạng khách hàng phải bảo đảm nguyên tắc:
- Xếp hạng rủi ro cho tất cả khách hàng.
- Không được thông báo cho khách hàng biết về hạng xếp loại trong mọi trường hợp.
- Đánh giá lại ngay cấp độ rủi ro/hạng của khách hàng khi có sự thay đổi theo chiều

hướng đi xuống về khả năng trả nợ của khách hàng.
1.3.4.6. Mô hình điểm số tín dụng
a. Mô hình điểm số tín dụng doanh nghiệp
Mô hình điểm số được thiết lập dựa vào các chỉ tiêu tài chính quan trọng được phản
ánh từ số liệu thống kê trong lịch sử. Tầm quan trọng của từng chỉ tiêu sẽ xác định trọng


20
số của chúng trong mô hình.
Mô hình điểm số thường được nhắc đến nhiều nhất là mô hình phân tích zeta của
Altman, Haldeman và Narayaman được xây dựng lần đầu tiên vào năm 1977. Dựa vào số
liệu thống kê của các doanh nghiệp sản xuất, các ông đã đưa ra một mô hình điểm số có
phương trình sau:
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5. Trong đó:
X1 = Hệ số vốn lưu động/tổng tài sản.
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối/tổng tài sản.
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi/tổng tài sản.
X4 = Hệ số giá thị trường của tổng vốn sở hữu/giá trị hạch toán của tổng nợ.

X5 = Hệ số doanh thu/tổng tài sản.
Đây là mô hình dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp. Đại lượng Z là
thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào:
- Giá trị các chỉ số tài chính của người vay.
- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ.

Từ đó, Altman đã xây dựng mô hình cho điểm như sau:
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy khi trị số Z
thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Z < 1,81 : Khách hàng có khả năng rủi ro cao.
1,81 < Z < 2,99 : Không xác định được.
Z > 2,99 : Khách hàng không có khả năng vỡ nợ.
Theo mô hình cho điểm Z của Altman, công ty có điểm số thấp hơn 1,81 được xếp
vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao, ngân hàng sẽ không cấp tín dụng cho các khách
hàng này cho đến khi nào cải thiện được điểm số Z lớn hơn 1,81.
Bên cạnh ưu điểm, mô hình điểm tín dụng có những hạn chế sau:
- Mô hình này chỉ cho phép phân biệt khách hàng thành hai nhóm là “vỡ nợ” và

“không vỡ nợ”.
- Không có lý do rõ ràng để giải thích sự bất biến về tầm quan trọng của các biến số

theo thời gian, dù là trong ngắn hạn.


21
- Mô hình không tính tới một số nhân tố quan trọng, khó lượng hóa, nhưng lại ảnh

hưởng đáng kể đến mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng. Ví dụ, yếu tố danh tiếng, mối
quan hệ truyền thống với ngân hàng, yếu tố vĩ mô như chu kỳ kinh tế, tỷ giá, lãi suất, ...
Hiện nay, ngoài mô hình phân tích Zeta còn có nhiều mô hình điểm số phức tạp hơn

đã được thiết lập với nguyên tắc tương tự.
b. Mô hình điểm số tín dụng cá nhân
Hệ thống là một tập hợp các tiêu thức khác nhau liên quan đến từng khách hàng vay.
Mỗi tiêu thức có một điểm số khác nhau, tùy theo tình trạng của tiêu thức này và tầm quan
trọng của nó trong hệ thống các tiêu thức, dựa trên cơ sở kết quả thống kê trong lịch sử.
Phương pháp hệ thống điểm số phải dựa trên cơ sở các kết quả thống kê trong quá
khứ, chỉ ra được đâu là khoản cho vay tốt và đâu là khoản cho vay xấu. Vấn đề mấu chốt
của hệ thống điểm số là ở chỗ, nhờ nó mà việc phân tích một vấn đề bao gồm nhiều yếu tố
được đơn giản hóa chỉ còn một yếu tố - đó là điểm tín dụng của khách hàng.
Hình 1.2: Mô tả phương pháp luận của phương pháp hệ thống điểm số
Các khoản vay xấu

Các khoản vay tốt

Y
Thời
gian
làm
việc

0
Xấu

z*

Z

Nguồn: Hồ Diệu, Tín dụng Ngân hàng
Hình vẽ trên là một đồ thị có ba trục mô tả một hệ thống điểm số đơn giản chỉ gồm
hai yếu tố tín dụng là thời gian làm công việc hiện tại (đo lường bằng số năm làm việc)



22
được biểu diễn trên trục OY và thu nhập được biểu diễn trên trục OX. Tập hợp các khoản
vay tốt trong quá khứ được biểu diễn bằng các hình tròn và các khoản vay xấu được biểu
diễn bằng các hình sao trên mặt phẳng OXY. Các vòng tròn này bao gồm một tỷ lệ nhất
định (ví dụ 98%) các điểm biểu diễn thời gian làm công việc hiện tại và thu nhập mà ở đó
các khoản vay là tốt hoặc xấu trong quá khứ.
Để ý rằng, trong tập hợp các điểm của khoản vay tốt cũng có một số điểm của khoản
vay xấu và ngược lại, trong tập hợp các điểm của khoản vay xấu cũng có một số điểm của
khoản vay tốt. Tập hợp các điểm của các khoản vay tốt và xấu được chiếu trên trục điểm
số OZ, chúng hình thành nên các phân phối tầng số của các khoản vay tốt hoặc xấu trên
trục OZ. Một đường thẳng đi qua các giao điểm của hai vòng tròn chiếu lên trục OZ.
Các phân phối này có một vùng giao nhau. Đó là các trường hợp khoản vay xấu xuất
hiện trong số nhóm những người đi vay là tốt và khoản vay tốt xuất hiện trong nhóm
những người đi vay là xấu.
Điểm số z* trên hình vẽ là điểm số trung bình phân biệt các khoản vay tốt và xấu.
Điểm số này có thể điều chỉnh dịch chuyển về gốc tọa độ khi cần dễ dãi trong cho vay (nới
lỏng tín dụng), song nó sẽ làm gia tăng các khoản vay xấu. Nếu dịch chuyển ra xa gốc tọa
độ thì có thể giảm được khách hàng xấu, nhưng lại bỏ xót nhiều khách hàng tốt.
Ví dụ trên đây là trường hợp một hệ thống điểm số đơn giản, chỉ có hai yếu tố tín
dụng được xem xét. Trong thực tế, một hệ thống điểm số thường có rất nhiều yếu tố, được
xây dựng trên nguyên tắc nói trên.
Theo hệ thống điểm số này, điểm cao nhất có thể có đối với một khách hàng là 43
điểm, điểm thấp nhất là 9 điểm.
Bằng phương pháp thống kê lại các khoản cho vay đã được thực hiện trong quá khứ
và tìm ra phân phối xác suất của các khoản cho vay tốt và xấu. Từ đó, ngân hàng đưa ra
một điểm số chuẩn làm ranh giới phân biệt giữa khoản vay tốt và khoản vay xấu.
Phương pháp hệ thống điểm số vẫn có mấy nhược điểm như sau:
- Các thông tin của người đi vay được dùng trong hệ thống điểm số là những thông


tin trong quá khứ. Vì vậy, có thể không phản ánh được chính xác tư cách tín dụng của
người vay ở hiện tại và trong tương lai.
- Các thông tin trong hệ thống điểm số chỉ là những thông tin một chiều, vì chỉ là các

thông tin thống kê về những người vay đã được ngân hàng chấp nhận cho vay mà thôi.
- Phương pháp này dựa trên cơ sở số đông và như vậy, có thể bỏ qua các trường hợp


23
khách hàng có hoàn cảnh cá biệt.
Ngoài ra, cũng căn cứ vào số liệu thống kê trong quá khứ về khả năng rủi ro của các
loại khách hàng có điểm số khác nhau, các ngân hàng thường đưa ra mức cho vay tối đa
khác nhau đối với từng khách hàng có điểm số ở những nhóm điểm số khác nhau.
Trong thực tế, phương pháp mô hình điểm số này thường được áp dụng trong cho
vay tiêu dùng, nên nó còn được gọi là mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng. Mô hình này
mang tính khách quan hơn mô hình phân tích tín dụng định tính, không tùy thuộc quá
nhiều vào ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng, rút ngắn thời gian ra quyết định tín dụng.
Tuy nhiên mô hình không thể tự điều chỉnh một cách nhanh chóng để thích ứng với những
thay đổi của nền kinh tế - xã hội.
1.3.4.7. Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và trả nợ
Các ngân hàng đều có quy trình khác nhau để kiểm tra tín dụng, tuy nhiên những
nguyên lý chung đang được áp dụng tại hầu hết các ngân hàng, bao gồm:
- Tiến hành kiểm tra tất cả các khoản tín dụng theo định kỳ nhất định.
- Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung kiểm tra một cách thận trọng đảm bảo rằng

những khía cạnh quan trọng nhất của mỗi khoản tín dụng đều được kiểm tra, bao gồm:
+ Kế hoạch trả nợ của khách hàng, nhằm đảm bảo khách hàng trả nợ đúng hạn.
+ Chất lượng và điều kiện của đảm bảo tín dụng.
+ Tính đầy đủ và hợp lệ của hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm, để bảo đảm rằng


ngân hàng có đầy đủ thẩm quyền hợp pháp đối với tài sản bảo đảm khi xư lý nợ.
+ Đánh giá tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và sử dụng vốn của khách hàng,

trên cơ sở đó xem xét lại nhu cầu tín dụng.
+ Đánh giá xem khoản tín dụng có tuân thủ các điều kiện cho vay của ngân hàng,

cũng như chính sách tín dụng của ngân hàng và các tiêu chuẩn do cơ quan quản lý ngân
hàng đặt ra hay không.
+ Kiểm tra về tình hình quan hệ tín dụng của nhóm khách hàng có liên quan, để bảo

đảm nhóm khách hàng này vẫn nằm trong tầm kiểm soát của ngân hàng.
+ Kiểm tra kỹ mục đích sử dụng vốn vay và hiệu quả sử dụng vốn vay, sao cho tiền

vay ngân hàng phải được sử dụng vào đúng những mục đích như ban đầu thẩm định.
+ Qua kiểm tra sau cho vay, giúp ngân hàng có cơ hội đánh giá, đối chiếu lại những

gì mình đã thẩm định khi cho vay xem có đúng, đầy đủ và hợp lý không.


×