Tải bản đầy đủ (.docx) (137 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh hà tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.93 KB, 137 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



----------- ----------TRẦN VĂN QUẢNG

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NGÀNH THEO HƯỚNG CÔNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở
TỈNH HÀ TÂY

Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số:

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:

TS. ĐẶNG XUÂN HOAN

HÀ NỘI - 2004


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



----------- ----------TRẦN VĂN QUẢNG


CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NGÀNH THEO HƯỚNG CÔNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở
TỈNH HÀ TÂY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2004


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là vấn đề lý luận, thực tiễn đã được
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, vừa mang tính cấp bách trước mắt,
vừa mang tính chiến lược lâu dài; nó có tầm quan trọng đặc biệt đối với
từng tỉnh, từng địa phương. Đại hội IX của Đảng ta đã xác định đường lối
và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010: “Năm 2010,
tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng gấp đôi so với năm 2000; chuyển
dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, giảm tỉ lệ lao động nông
nghiệp xuống khoảng 50%…Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn
định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá”[10, tr. 90].
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một nội dung chủ yếu của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; là vấn đề rất quan trọng của bất kỳ một nền
kinh tế quốc dân nào khi chuyển sang kinh tế thị trường.
Một cơ cấu kinh tế hợp lý, thích ứng với những yêu cầu khách quan
của thị trường sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và

vững chắc. Vì vậy, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xây dựng một cơ cấu
kinh tế tối ưu luôn là một trong những mục tiêu cơ bản mà bất kỳ nhà
hoạch định chính sách nào cũng phải quan tâm thực hiện.
Trong những năm gần đây, Hà Tây đã đẩy mạnh sản xuất theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Năm 2000 cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp - Công
nghiệp - Dịch vụ của tỉnh Hà Tây là 40% - 30% - 30%. Thu nhập GDP bình
quân/đầu người xấp xỉ 300 USD/ người [11, tr.8]. Tỉnh Hà Tây giai đoạn 20002010, hướng tới mục tiêu và cơ cấu kinh tế Nông nghiệp - Công nghiệp

-

Dịch vụ.

1


Năm 2005 là: 35% - 35% - 30% [11, tr.38].
Năm 2010 là: 23% - 40% - 37%%[26, tr.2].
Với mức tăng trưởng bình quân từ năm 2000 đến năm 2010 đạt 14%
trở lên. GDP vào năm 2010 cố gắng đạt 700USD/ người. Để thực hiện
được mục tiêu trên, trong những năm qua, tỉnh Hà Tây đã có những giải
pháp kinh tế - xã hội phù hợp, do vậy nền kinh tế của tỉnh có mức tăng
trưởng cao hơn bình quân chung của cả nước, trong lĩnh vực kinh tế đã khai
thác, thu hút được vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế, trong đó đặc biệt
chú ý đến nguồn vốn từ các nước trong khu vực và thế giới đầu tư vào tỉnh
Hà Tây, nguồn vốn trong dân, phát huy nội lực để vươn lên.
Tuy vậy, Hà Tây vẫn là một tỉnh mà sản xuất nông nghiệp còn giữ
vai trò chủ yếu, nhìn chung tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh Hà Tây còn
chưa cao, năng xuất lao động thấp, các ngành kinh tế: nông nghiệp - công
nghiệp-dịch vụ còn kém phát triển, nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng lớn
trong GDP , đời sống nhân dân còn thấp…thực trạng đó có nhiều nguyên

nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản, trọng yếu là việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm.
Với những lý do trên chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa quyết định
sự phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Hà Tây, đó cũng là lý do tác giả chọn
đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở tỉnh Hà Tây”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, đã có nhiều tác giả, đề tài, luận văn, bài viết đề cập, nghiên
cứu, công bố:

2


-

Ngô Đình Giao “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp

hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân” Tập II, NXB Thống kê, Hà Nội,

1994.
-

Đỗ Hoài Nam (chủ biên) “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và

phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam”. NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1996.
-


Nguyễn Cúc “Tác động của nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu

kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay”.
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
-

Bùi Tất Thắng “Các nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu

ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá ở Việt Nam” NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1997.
-

Nguyễn Đình Phan “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 247, tháng 12.1998.

-

Bùi Tất Thắng “Đổi mới và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng công nghiệp hoá”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế - Viện Kinh tế học,
năm 1994, số2.
-

Ngô Đình Giao “Xây dựng mô hình cơ cấu kinh tế hiệu quả theo

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Ngân hàng Nhà nước, tháng
6.1999 (số 12).
-


Nguyễn HữuTiến - Nguyễn Đình Long “Vai trò của kinh tế hộ

trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn”, Tạp chí Cộng
sản 1996, số 510.
-

Ngô Đình Giao “Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả trong nền

kinh tế thị trường”, Tạp chí Ngân hàng Nhà nước, tháng 8 năm 1999 (số14).

3


Đặng Văn Thắng, Phạm Ngọc Dũng “Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế
công- nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng, thực trạng và triển vọng”,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003…
Trong các công trình trên, các tác giả đã nghiên cứu ở nhiều góc độ
khác nhau về cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào nghiên cứu và
đề cập về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Hà Tây.
3.

Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
3.1.

Mục tiêu

Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của tỉnh Hà Tây những năm qua, đề xuất những quan điểm, phương

hướng, giải pháp thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Hà Tây từ nay đến năm 2010.
3.2. Nhiệm vụ
-

Phân tích làm rõ khái niệm, nội dung, tính tất yếu khách quan phải

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

-

Phân tích thực trạng chuyển d ịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Hà

Tây trong những năm qua và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
-

Đề xuất mục tiêu và phương hướng, giải pháp chủ yếu thúc đẩy sự

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Hà Tây theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá từ nay đến năm 2010.
4.
-

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hoá,

hiện đại hoá là đối tượng nghiên cứu của đề tài.
-

Đề tài tập trung nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở


tỉnh Hà Tây theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, không nghiên cứu
toàn bộ quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh hà Tây.

4


-

Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

ở tỉnh Hà Tây từ năm 1986; mà chủ yếu từ năm 1995 đến nay,từ đó đề ra
mục tiêu và những giải pháp chủ yếu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
ở tỉnh Hà Tây từ nay đến năm 2010.

5


5.

Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1.
Cơ sở lý luận
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả dựa trên cơ sở lý luận và phương

pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống quan
điểm của Đảng ta trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá để làm rõ
tính tất yếu khách quan của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
5.2.


Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương
pháp trừu tượng hoá khoa học, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê và
các phương pháp khác.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Làm rõ thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Hà Tây,
từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế ngành theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Hà Tây từ nay đến năm 2010.
Ở mức độ nhất định, nội dung đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo
phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu và áp dụng vào thực tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương với 8 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và bài học thực tiễn về chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Hà Tây

Chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để thúc đẩy
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở tỉnh Hà Tây từ nay đến năm 2010.
6



Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ BÀI HỌC THỰC TIỄN
VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƢỚNG CÔNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1. Cơ cấu kinh tế và tính tất yếu khách quan của việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.1. Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu (hay kết cấu) theo quan niệm của Triết học duy vật biện chứng
dùng để chỉ cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự thống
nhất của các mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó.
Cơ cấu kinh tế - một phạm trù kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt trong quá
trình xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng
quốc gia qua các thời kỳ. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, mỗi quốc gia,
mỗi địa phương đều phải tìm cách lựa chọn cho mình một cơ cấu kinh tế thích
hợp nhằm phát huy tối ưu lợi thế so sánh của mỗi quốc gia, của vùng mình.
Thuật ngữ “Cơ cấu kinh tế”, xét về quan niệm có thể còn có sự khác nhau tuỳ
theo khi xem xét ở phạm vi rộng hay hẹp của khái niệm; nhưng suy cho cùng đều
có một quan điểm chung, đó là: Cơ cấu kinh tế của một nước là tổng thể các quan
hệ kinh tế hay các bộ phận hợp thành nền kinh tế và mối quan hệ tương tác giữa
chúng; gắn với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển
nhất định; nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế

-

xã hội đã được xác định.
Sự hình thành cơ cấu kinh tế gắn liền với một trình độ phát triển lực

lượng sản xuất nhất định và tương ứng với nó là một quan hệ sản xuất phù
hợp.

Cơ cấu kinh tế bao gồm nhiều yếu tố cấu thành nhưng nhìn chung nó
đựơc biểu hiện ở hai mặt: Cơ cấu kinh tế xét về kinh tế - kỹ thuật và cơ cấu
kinh tế xét về kinh tế - xã hội.

7


Về mặt kinh tế - kỹ thuật bao gồm: cơ cấu ngành nghề, loại hình tổ
chức kinh doanh, trình độ kỹ thuật, cơ cấu vùng lãnh thổ.
Cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực kinh tế phản ánh số lượng, vị trí, tỷ
trọng các bộ phận cấu thành nền kinh tế.
Cơ cấu theo quy mô, trình độ kỹ thuật, công nghệ của các loại hình tổ
chức sản xuất phản ánh chất lượng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế.

Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ phản ánh khả năng kết hợp, khai
thác tài nguyên, tiềm lực kinh tế- xã hội của các vùng phục vụ cho mục tiêu
phát triển nền kinh tế quốc dân thống nhất.
Về mặt kinh tế - xã hội bao gồm: Cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu
lao động, trình độ phát triển quan hệ hàng hoá- tiền tệ, thị trường.
Cơ cấu thành phần kinh tế phản ánh khả năng khai thác năng lực tổ
chức sản xuất - kinh doanh của mọi thành viên xã hội. Cơ cấu kinh tế theo
trình độ phát triển của quan hệ hàng hoá- tiền tệ phản ánh khả năng giải
quyết mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa các bộ phận hợp thành của
nền kinh tế quốc dân.
Sự chuyển dịch từ mô hình cơ cấu kinh tế cũ sang mô hình cơ cấu
kinh tế mới bao gồm các quá trình và bước đi cụ thể sau đây:
+

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, tức là chuyển dịch từ cơ cấu nông


nghiệp- công nghiệp sang cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ.

+

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, với sự phát triển

bình đẳng của sáu thành phần kinh tế; trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo.
+

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ là phát triển theo

hướng toàn diện và tập trung có trọng điểm, phát triển tổng hợp và chuyên
môn hoá, trên cơ sở khai thác triệt để tiềm năng, thế mạnh của từng vùng
và kết hợp với sự phân công lao động của các vùng lân cận…
8


Ba bộ phận của cơ cấu kinh tế mới có tính độc lập tương đối, cùng nằm
trong một chỉnh thể thống nhất và giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trong đó cơ cấu kinh tế ngành có vai trò quyết định; còn cơ cấu thành phần kinh
tế là những lực lượng kinh tế quan trọng để thực hiện cơ cấu kinh tế ngành. Cơ
cấu kinh tế ngành và cơ cấu thành phần kinh tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng
hướng khi gắn với từng vùng lãnh thổ; vì vậy, việc thực hiện cơ cấu kinh tế theo
vùng lãnh thổ có ý nghĩa rất quan trọng.

Như vậy, cơ cấu kinh tế là sự thể hiện tính thống nhất giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất. Cần phải cấu trúc lại cơ cấu kinh tế cho phù
hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế phản ánh tổng thể các
mối quan hệ chủ yếu về chất lượng và số lượng tương đối ổn định của các

yếu tố kinh tế, các bộ phận của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
trong một hệ thống tái sản xuất xã hội, trong những điều kiện kinh tế- xã
hội nhất định, vào một khoảng thời gian nhất định. Cơ cấu kinh tế phản ánh
trình độ, tính chất của nền kinh tế.
Tính chất của cơ cấu kinh tế: để nhận thức đúng đắn xu hướng biến
đổi khách quan của cơ cấu kinh tế và vận dụng vào điều kiện lịch sử cụ thể
của từng quốc gia, qua từng giai đoạn phát triển của quốc gia đó; vì vậy, có
một số tính chất của cơ cấu kinh tế cần được coi trọng; đó là tính khách
quan khoa học và tính lịch sử xã hội.
Tính khách quan khoa học: nền kinh tế có sự phân công lao động xã
hội, bao gồm các ngành, các lĩnh vực kinh tế, sự phát triển của lực lượng
sản xuất và cùng với nó là quan hệ sản xuất phù hợp, thích ứng; nhất định
sẽ hình thành một cơ cấu kinh tế với tỉ lệ cân đối tương ứng giữa các bộ
phận, tỉ lệ đó được thay đổi thường xuyên, tự giác theo quá trình diễn biến
khách quan của nhu cầu xã hội và khả năng đáp ứng yêu cầu đó.

9


Tính lịch sử xã hội: sự biến đổi cơ cấu kinh tế luôn gắn liền với sự
thay đổi không ngừng của lực lượng sản xuất và nhu cầu chính trị- xã hội.
Cơ cấu kinh tế đựơc hình thành khi quan hệ giữa các bộ phận được xác lập
một cách cân đối và sự phân công lao động xã hội được diễn ra một cách
hợp lý. Lực lượng sản xuất luôn vận động, biến đổi, phát triển, đó là xu
hướng phổ biến, tất yếu. Song mối quan hệ giữa con người với con người,
giữa con người với tự nhiên trong quá trình tái sản xuất xã hội, ở mỗi giai
đoạn lịch sử, ở mỗi quốc gia lại có sự khác nhau; những khác nhau đó bị
chi phối bởi quan hệ sản xuất, bởi các đặc trưng văn hoá, xã hội, bởi các
yếu tố lịch sử của từng dân tộc.
Qua sự phân tích trên cho thấy, sự hình thành cơ cấu kinh tế chẳng

những mang tính chất khách quan khoa học mà còn mang tính chất lịch sử
xã hội.
Để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, ổn định tình hình chính trị, xã hội ở
mỗi quốc gia, mỗi địa phương thì việc xác định được cơ cấu kinh tế hợp lý có

ý nghĩa hết sức quan trọng. Một cơ cấu kinh tế hợp lý về cơ bản phải thoả
mãn được các yêu cầu sau đây:
-

Phải phù hợp với các quy luật khách quan mà trước hết mà là các

quy luật kinh tế.
-

Khai thác hợp lý và phát huy được các nguồn lực của đất nước, của

các vùng kinh tế, tạo năng xuất lao động cao, phù hợp với sự tiến bộ khoa
học kỹ thuật và công nghệ.
-

Tạo nên sự phát triển cân đối, nhịp nhàng giữa các vùng, các

ngành, phát huy được lợi thế so sánh của các vùng, các ngành đó.
-

Tạo nên sự gắn kết giữa các loại thị trường trong và ngoài nước, sự

phân công hợp tác quốc tế ngày càng chặt chẽ, sâu rộng.
-


Tạo đựơc tích luỹ nhiều nhất cho nền kinh tế quốc dân, tăng trưởng

kinh tế và phát triển kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng vững chắc.

10


1.1.2. Một số vấn đề lý luận liên quan đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Khi chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các lý thuyết kinh tế sau đây không
thể không được tính đến; có thể chia thành ba nhóm lý thuyết với những
nét khái quát sau đây:
Một là, lý luận phân công lao động xã hội và tái sản xuất xã hội của C.

Mác.
Các lý thuyết này liên quan đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vì nó gắn
liền với sự hình thành các ngành kinh tế quốc dân và mối quan hệ giữa chúng
trên không gian lãnh thổ nhất định. Theo C. Mác, sự hình thành các ngành kinh
tế quốc dân với tư cách là những ngành độc lập gắn liền với phân công lao động
xã hội. Sản xuất hàng hoá càng phát triển thì các ngành kinh tế, các chủ thể kinh
tế trên lãnh thổ càng mở rộng và ngược lại. Một trong những cơ sở quan trọng
nhất của sự phân công lao động xã hội là sự gia tăng năng xuất lao động trong
nông nghiệp; sự xuất hiện sở hữu tư nhân và theo đó là các chủ thể tư nhân độc
lập tương đối với nhau; mọi quan hệ giữa các ngành, các vùng là mối quan hệ
trao đổi cả về hai mặt hiện vật lẫn giá trị, tuân theo quy luật của tái sản xuất xã
hội, trong đó khu vực sản xuất tư liệu sản xuất tăng nhanh hơn khu vực sản xuất
tư liệu tiêu dùng.
Hai là, lý thuyết kinh tế trong “Kinh tế học thuộc trào lưu chính”. Mặc dù
lý thuyết này ít đề cập trực tiếp về cơ cấu và mối quan hệ giữa các ngành, các
vùng trong cơ cấu kinh tế như C. Mác. Họ quan tâm phân tích khuynh hướng vận
động và những điều kiện quy định khuynh hướng vận động của cơ cấu kinh tế

trên cơ sở chúng có khả năng mang lại lợi nhuận như thế nào? Thị trường ở đây
được coi là lực lượng chủ yếu dẫn dắt các nhà đầu tư căn cứ vào giá cả của yếu
tố đầu vào (vốn, sức lao động, nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị…) và đầu
ra (giá hàng hoá, dịch vụ). Tuy nhiên, với việc thừa nhận khả năng thất bại của
thị trường, chính phủ được xem như một tác nhân có chức năng cứu vãn sự
khủng hoảng kinh tế có tính chất chu kỳ. Thông qua

11


các chính sách tài chính, tiền tệ, thương mại với tư cách là công cụ vĩ mô,
chính phủ can thiệp vào các hoạt động kinh tế, có khả năng hướng dẫn các
nhà đầu tư đi theo chiến lược cơ cấu kinh tế đã được hoạch định.
Ba là, các lý thuyết trong “Kinh tế học của sự phát triển”. Một số lý
thuyết chủ yếu trong “Kinh tế học của sự phát triển” liên quan đến sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
-

Lý thuyết kinh tế nhị nguyên của A.Lewis cho rằng: ở các nước đang

phát triển có hai khu vực kinh tế song song tồn tại là, khu vực kinh tế truyền
thống (chủ yêú là sản xuất nông nghiệp) và khu vực kinh tế công nghiệp hiện đại
được du nhập từ bên ngoài vào. Khu vực kinh tế truyền thống có đặc điểm là
năng xuất lao động thấp và dư thừa lao động; vì vậy có thể chuyển một phần lao
động từ khu vực này sang khu vực công nghiệp hiện đại mà không ảnh hưởng gì
đến sản lượng nông nghiệp. Do có năng suất lao động cao, khu vực công nghiệp
hiện đại có thể tự tích luỹ để mở rộng sản xuất một cách độc lập mà không phụ
thuộc vào những điều kiện chung của toàn bộ nền kinh tế.
Tư tưởng cốt lõi của lý thuyết này là, bằng mọi cách mở rộng khu vực sản
xuất công nghiệp hiện đại càng nhanh càng tốt, sự phát triển mạnh mẽ của khu

vực này sẽ thu hút lao động từ khu vực truyền thống sang và làm biến đổi nền
kinh tế từ nhị nguyên thành một nền kinh tế công nghiệp phát triển.

-

Lý thuyết phát triển cân đối liên ngành của R.Nuruse cho rằng: Để

công nghiệp hoá nhanh chóng cần thúc đẩy phát triển đồng đều ở tất cả các
ngành, tiến hành xây dựng mô hình cơ cấu kinh tế theo cơ cấu cân đối khép
kín- mô hình công nghiệp hoá “hướng nội” hay “thay thế nhập khẩu”.Thực
tế là mô hình này đã không thể tạo ra những điều kiện cần thiết để nền kinh
tế có thể phát triển nhanh chóng được; sở dĩ như vậy là do những hạn chế
cơ bản sau:

12


+

Nó đi ngược lại trật tự phát triển chung của mọi nền kinh tế, nhất

là trong điều kiện khu vực hoá, toàn cầu hoá đã trở thành một quy luật
mang tính phổ biến.
+

Vì vậy, tự nó đã loại bỏ những ảnh hưởng, điều kiện tích cực từ bên

ngoài, nhất là sự tiến bộ như vũ bão của khoa học và công nghệ hiện đại.

+


Đối với các nước đang phát triển thì mô hình cơ cấu kinh tế này lại

càng không có đủ khả năng về nhân tài vật lực để thực hiện được các mục
tiêu đã đề ra.
-

Lý thuyết phát triển cơ cấu kinh tế không cân đối hay các “Cực tăng

trưởng” của A. Hirschmen cho rằng: Phát triển các “Cực tăng trưởng” sẽ gây ra
áp lực, tạo sự kích thích đầu tư, những dự án có đầu tư lớn sẽ có tác dụng lôi kéo
đầu tư theo cấp số nhân…Vì vậy, cần tập trung những nguồn lực khan hiếm cho
một số lĩnh vực trong một thời điểm nhất định; đó là điều bắt buộc vì các nước
đang phát triển thường thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu lao động có trình độ kỹ
thuật cao… Lý thuyết này đã được Nics đón nhận và gặt hái được những thành
công to lớn, đặc biệt là các nước ở khu vực Đông Á.
-

Lý thuyết phát triển theo mô hình “Đàn nhạn bay” của Kaname

Akamdsu là lý thuyết được dựa trên những luận cứ về lợi thế so sánh để phân
tích quá trình “đuổi kịp”. Trong ý tưởng đó thì vấn đề cơ cấu kinh tế ngành có

ý nghĩa rất quan trọng; quá trình đuổi kịp theo lý thuyết này được chia làm
4 giai đoạn:
+

Các nước đang phát triển nhập hàng công nghiệp để chế biến và

xuất khẩu một số sản phẩm thủ công đặc biệt.

+

Các nước đang phát triển nhập sản phẩm đầu vào để tự chế tạo sản

phẩm tiêu dùng mà trước đây vẫn phải nhập khẩu, từ đó tích luỹ vốn.
+

Sản phẩm công nghiệp đầu tư sản xuất ra ở giai đoạn hai đã thành sản

phẩm xuất khẩu và thay thế dần sản phẩm đầu tư trước đây bằng nguồn khai

13


thác và sản xuất ở trong nước, tiến tới rút ngắn khoảng cách kỹ thuật và
đẩy mạnh xuất khẩu…
+

Xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng bắt đầu giảm nhường chỗ cho xuất

khẩu các loại hàng hoá cần nhiều vốn đầu tư, tiến dần đến việc nâng trình
độ của nền kinh tế quốc dân ngang bằng các nước phát triển…
Những nội dung khái quát của các lý thuyết trên có liên quan đến
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, như sau:
-

Hầu hết các lý thuyết phát triển nói trên coi vấn đề chuyển dịch cơ

cấu kinh tế không chỉ là một trong những tiêu chí quan trọng của sự phát
triển, mà còn chỉ ra nội dung cụ thể của nó là tăng tỷ trọng của công

nghiệp, giảm tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP và GNP; giảm tỷ lệ lao
động trong nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động trong công nghiệp và dịch vụ.
-

Từ việc phân tích cơ cấu kinh tế của một số nước đang phát triển

không coi trọng tính chất bên trong, các lý thuyết này nêu ra một giải pháp
có tính nguyên tắc: phải xây dựng một cơ cấu kinh tế có sự liên kết, thúc
đẩy, lôi kéo lẫn nhau trong qúa trình phát triển. Một cơ cấu kinh tế có sự
liên kết vừa là điều kiện của sự phát triển trong công nghiệp hoá, đồng thời
lại vừa là kết quả, là một chỉ số để đánh giá mức độ thành công của công
nghiệp hoá và phát triển.
-

Hình thức chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của các nước đang

phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá từ nửa sau thập niên 60 (thế kỷ
XX) trở lại đây là rất đa dạng, không có khuôn mẫu chung cho mọi quốc
gia mà tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước cũng như sự phát triển
của nền kinh tế khu vực và thế giới.
-

Vai trò của nhà nước can thiệp vào quá trình công nghiệp hoá là một

trong những yếu tố có tính chất quyết định cho sự phát triển kinh tế. Chính phủ
phải đánh giá được các nguồn lực bên trong, đồng thời phải kết hợp được

14



với các nguồn lực bên ngoài trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế
thế giới.
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đã được các trường phái lý thuyết kinh tế từ trước đến nay đề cập
ở nhiều góc độ và nhiều cách tiếp cận. Mỗi trường phái lý thuyết đều có mặt
mạnh và mặt yếu, nhiệm vụ của chúng ta là nhận thức và vận dụng sao cho có
hiệu quả trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta nói chung và ở Hà Tây nói riêng.
Trong quá trình tái sản xuất xã hội, không phải bao giờ các ngành, các
vùng và các thành phần kinh tế hoạt động cũng nhịp nhàng với nhau. Trong qúa
trình ấy lực lượng sản xuất luôn luôn biến đổi, tiến bộ và có nhiều yếu tố tác
động đến sự phát triển của các ngành vì thế cơ cấu kinh tế cũng thường xuyên
biến động, đó chính là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự biến đổi về vị trí, tỷ trọng những
mối quan hệ giữa các yếu tố, các bộ phận, các mặt, các khâu… hợp thành
cơ cấu kinh tế nhằm đạt tới trạng thái mới hợp lý hơn, tiến bộ hơn.
Nước ta hiện nay đang tiến hành công cuộc đổi mới, thực hiện nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: Chủ trương xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư
duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội… Kế hoạch phát triển Kinh tế - xã
hội 5 năm 2001- 2005 là bước rất quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược 10
năm 2001- 2010 nhằm: tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải
thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế [10, tr.88-90].

15



Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá được xem như một quá trình biến đổi cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động, gắn liền với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho
sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Đây là vấn đề lớn, cấp thiết ở nước ta trong quá trình đổi mới nền kinh
tế trên cả góc độ cơ cấu kinh tế ngành cũng như cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu
thành phần kinh tế; được thực hiện trên cơ sở phát huy thế mạnh, lợi thế so
sánh của từng vùng và của đất nước, nhằm tăng sức cạnh tranh, gắn liền với
nhu cầu thị trường trong, ngoài nước, nhu cầu đời sống nhân dân và quốc
phòng an ninh, tạo thêm sức mua của thị trường trong nước, mở rộng thị
trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng có ý nghĩa là quá trình chuyển một
nước từ nền kinh tế sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, năng xuất lao động
thấp thành một nước có cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại,
khoa học và công nghệ tiên tiến, năng suất lao động cao. Đối với nước ta
đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, từ cơ cấu nông nghiệpcông nghiệp sang cơ cấu kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ. Nước
ta giai đoạn 2000- 2005 hướng tới mục tiêu kinh tế là: đưa GDP năm 2005
gấp 2 lần so với năm 1995. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm
thời kỳ 5 năm 2001- 2005 là 7,5 %, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng
4,3 %; công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%; dịch vụ tăng 6,2%.
-

Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%/năm.

-

Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13%/năm.


-

Giá trị dịch vụ tăng 7,5%/năm

-

Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm

-

Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 20-21%

16


-

Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38- 39%

-

Tỷ trọng các ngành dịch vụ 41- 42% [10,tr.264- 265]

Mục tiêu cụ thể của Chiến lược 10 năm 2001- 2010 của nước ta là: Đưa
GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000, nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức
cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế… Tích luỹ nội bộ nền
kinh tế đạt trên 30% GDP. Nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ tăng
GDP. Tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp 16-17%, công nghiệp 40-41%, dịch
vụ 42- 43%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50% [10, tr.159-160]. Tỉnh
Hà Tây phấn đấu đạt mục tiêu cơ cấu kinh tế giai đoạn 2000- 2005 là 35% - 35%

- 30%, đến năm 2010 là 23% - 40% - 37% [26, tr.2].

Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, cần phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề phức tạp bên trong nền kinh
tế quốc dân; trước hết cần nghiên cứu kỹ để xác định rõ những cơ sở lý
luận và thực tiễn của quá trình này, từ đó mới có được những quan điểm,
phương hướng và giải pháp thích hợp nhằm thực hiện sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cần
xuất phát từ những căn cứ lý luận và thực tiễn sau.
-

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo phù hợp với mô hình kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tức là nền kinh tế nước ta không phải là kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa
dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở
và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội,
thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nếu so với kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa thì kinh tế thị trường định

17


hướng xã hội chủ nghĩa có những điểm khác căn bản về mục đích, về chế
độ sở hữu, về các thành phần kinh tế, về chế độ quản lý, về chế độ phân
phối, về chính sách xã hội.
-


Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo phù hợp với mục tiêu

phát triển của mô hình kinh tế đã lựa chọn.
Trên cơ sở mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đại
hội IX của Đảng đã xác định đường lối phát triển kinh tế của nước ta trong thời
kỳ quá độ là: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển
lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực
bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả
và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng
cường quốc phòng- an ninh” [10, tr.89].

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải bảo đảm cho nền kinh tế thị trường
hoạt động với hiệu quả cao nhất. Nghĩa là phải giải quyết được những vấn
đề cơ bản của kinh tế thị trường: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản
xuất cho ai? Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh phải thoả mãn với mức độ
ngày càng cao những nhu cầu đa dạng và chính đáng của người tiêu dùng.
-

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải bảo đảm quy mô hợp lý và bước đi

thích hợp, chú trọng quy mô vừa và nhỏ, vốn đầu tư ít, tạo nhiều việc làm
cho người lao động, từng bước áp dụng những thành tựu khoa học và công
nghệ tiên tiến, hiện đại, đặc biệt là phải hình thành, phát triển các ngành
trọng điểm, mũi nhọn có công nghệ tiến tiến, hiện đại.


18


-

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải bảo đảm khai thác tối ưu khả năng

và thế mạnh của các vùng kinh tế trong cả nước và phát huy sức mạnh tổng
hợp của các thành phần kinh tế.
Nước ta là nước có nguồn tài nguyên đa dạng và nguồn nhân lực dồi
dào. Cần phải bố trí hợp lý cơ cấu kinh tế ngành trong cả nước cũng như
đối với từng địa phương nhằm khai thác triệt để và có hiệu quả khả năng và
thế mạnh của từng vùng kinh tế; đồng thời cần phát huy sức mạnh tổng hợp
của các thành phần kinh tế nhằm khai thác các tiềm năng về vốn, về lao
động, về kinh nghiệm quản lý… của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đảng ta
khẳng định thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
-

Chuyển dịch cơ cấu tế phải đảm bảo nền kinh tế hoạt động có hiệu quả,

bảo đảm mục tiêu ổn định và vững chắc, tất yếu phải có sự ổn định về chính trị,
xã hội, an ninh quốc phòng, đảm bảo môi trường sinh thái thuận lợi cho sản xuất
và đời sống. Vì vậy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá không chỉ vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế một cách thuần tuý
mà còn phải thực hiện cho được mục tiêu ổn định chính trị, xã hội, tăng cường an
ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái.

-


Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải phù hợp với xu hướng mở rộng, đa

phương, đa dạng hoá quan hệ hợp tác quốc tế; hướng về xuất khẩu nhằm
phát huy tiềm năng và thế mạnh của đất nước; dựa trên nguyên tắc bình
đẳng, cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đồng
thời tranh thủ khả năng khai thác, thu hút nguồn vốn và những thành tựu
khoa học, công nghệ hiện đại của các nước phát triển nhằm phát triển kinh
tế, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.1.3. Tính tất yếu khách quan của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
19


1.1.3.1 Xuất phát từ thực trạng cơ cấu kinh tế nước ta hiện nay
Từ Đại hội Đảng VI đến nay, với đường lối đổi mới toàn diện do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành
tựu rất quan trọng. Chúng ta đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng
kinh tế - xã hội. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng
năm trên 7%. Sản xuất công nghiệp đạt nhịp độ tăng bình quân hàng năm
13,5%; năng lực sản xuất một số ngành và sản phẩm quan trọng như điện,
dầu khí, xi măng tăng nhanh. Nhịp độ tăng giá trị dịch vụ bình quân hàng
năm 10%. Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, đã đảm bảo
an toàn, an ninh lương thực quốc gia; giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình
quân hàng năm hơn 6%; đã tạo được ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gạo
(đứng thứ 2 thế giới), cà phê (đứng thứ 3 thế giới) và hàng thuỷ sản. Có thể
nói cơ cấu kinh tế đang biến đổi cả về cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ
và cơ cấu thành phần kinh tế. Quan hệ kinh tế quốc tế được mở rộng theo
hướng đa dạng hoá, đa phương hoá; kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân
hàng năm 20%. Chúng ta đã có những chính sách phù hợp để thu hút vốn

đầu tư nước ngoài, có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức tài chính, tiền tệ
quốc tế, đang chuẩn bị các điều kiện để gia nhập WTO [10, tr.69].
Về mặt quản lý, chúng ta đang thực hiện cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, sử dụng các hình thức và phương pháp quản lý
của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần năng
động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhưng là để đi lên Chủ nghĩa xã hội, không để
cho thị trường tự phát theo con đường Tư bản chủ nghĩa.
Tuy vậy, cơ cấu kinh tế nước ta vẫn mang tính chất của nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, công nghiệp chưa phát triển mạnh, tỷ trọng công nghiệp trong
tổng sản phẩm xã hội còn thấp; nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả
và sức cạnh tranh thấp, năng suất lao động còn thấp, chất lượng sản

20


phẩm chưa tốt, giá thành cao. Nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp,
thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ cả ở trong nước và nước ngoài,
một phần do thiếu sức cạnh tranh.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, đầu tư
phân tán, lãng phí và thất thoát nhiều. Cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu kinh
tế nông nghiệp chuyển dịch chậm. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP năm
2000: 24,3%; Tỷ trọng công nghiệp: 36,6%; tỷ trọng dịch vụ 39,1%
[10,tr.149-150].
Tóm lại, trong giai đoạn đổi mới hiện nay, nền kinh tế nước ta có mức
tăng trưởng khá, nhưng chưa ổn định, khả năng kiềm chế lạm phát chưa cao, còn
bội chi ngân sách… Nhìn chung, năng suất chất lượng, hiệu quả còn thấp, đời
sống nhân dân ở nhiều vùng còn nghèo, nhịp độ tăng trưởng kinh tế có chiều
hướng giảm sút, nhiều doanh nghiệp, nhiều ngành kinh tế gặp khó khăn. Thực
trạng kinh tế yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân gây ra, trong đó có nguyên

nhân xuất phát từ thực trạng cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chưa hợp lý, đặc
biệt là chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành; bởi vì, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá được xem như một quá trình
biến đổi căn bản cơ cấu kinh tế gắn liền với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo
nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đưa ra mục tiêu phát triển
kinh tế- xã hội đến năm 2010 là: “Năm 2010 tổng sản phẩm trong nước (GDP)
tăng ít nhất gấp đôi so với năm 2000; chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu
lao động, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn khoảng 50%… Tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá” [10, tr.90].

1.1.3.2. Xuất phát từ yêu cầu thực hiện mục tiêu và nội dung công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nước ta
21


Từ Đại hội Đảng III đến nay, Đảng ta luôn xác định công nghiệp hoá
là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Bởi vì, công nghiệp hoá
thực chất là xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó
không phải chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công
nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn
với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh,
hiệu quả và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá được Đảng ta đề ra là:
xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật
hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,

dân chủ, văn minh. Trước mắt, ra sức phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Vì thế, đại hội IX
khẳng định, phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được
xem là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm đầu thế kỷ XXI [2, tr.125- 126].
Từ Hội nghị Trung ương 7 (khoá VII) Đảng ta đã có quan niệm mới,
ngày càng toàn diện và sâu sắc về công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá.
Đại hội Đảng VIII (1996) cho rằng, đất nước đang chuyển sang thời kỳ mới
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời Đại hội Đảng VIII còn
nêu ra 6 quan điểm về công nghiệp hoá và những nội dung cơ bản của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trong những năm còn lại của thập niên 90 (thế kỷ
XX). Các quan điểm và định hướng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
Đại hội VIII đến nay vẫn đúng và có giá trị chỉ đạo thực tiễn [2, tr.126]. Đại
hội IX chỉ nhấn mạnh thêm một số điểm chủ yếu sau trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2001-2010:

22


Về con đường công nghiệp hoá ở nước ta, Đại hội IX khẳng định: cần và
có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của
nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới, nhưng cũng là khả năng hiện thực của nước ta,
một nước đi sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm, kỹ thuật, công nghệ
và thành quả của các nước đi trước, xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để
rút ngắn thời gian. Ngày nay, với thành tựu mới của khoa học công nghệ, với tác
động của kinh tế tri thức, với xu hướng toàn cầu hoá kinh tế…càng tạo điều kiện
cho phép các nước đi sau có thể rút ngắn hơn nữa thời gian tiến hành công
nghiệp hoá. Tuy nhiên, muốn rút ngắn thời gian tiến hành công nghiệp hoá so với
các nước đi trước, chúng ta cần phải:


-

Về kinh tế và công nghệ phải vừa có những bước tuần tự, vừa có

bước nhảy vọt.
-

Phát huy những lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hoá với hiện

đại hoá, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa
học - công nghệ.
Việt

Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người

Nam [2, tr.127].
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải đảm bảo xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Văn kiện Đại
hội IX có nêu, một trong những nội dung quan trọng trong đường lối kinh
tế của Đảng là “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ”; Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001- 2010
xác định “Gắn chặt xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế” [2, tr.127-128].
Một trong những nhiệm vụ trung tâm để phát triển kinh tế, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là cần phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững,

23



×