Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận cao học, học thuyết pháp trị của hàn phi tử và ý nghĩa tích cực trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.47 KB, 24 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đất nước ta, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với mục tiêu: Dân
giàu, Nước mạnh, Xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện thành công sự
nghiệp đó, chúng ta phải tiếp tục đổi mới toàn diện và triệt để các lĩnh vực đời sống xã
hội, đặc biệt là đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Nhận thức rõ yêu cầu đó, đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: "Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước có sự thống nhất, có sự phân
công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng
pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa". Đổi mới phương
thức và nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý xã hội của nhà nước, việc kế thừa có chọn
lọc những tư tưởng và học thuyết quản lý xã hội trong lịch sử đóng vai trò đặc biệt quan
trọng. Bởi vì những tư tưởng và học thuyết quản lý xã hội, kể cả ở phương Đông và
phương Tây, đều là sản phẩm trí tuệ con người, đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn lịch
sử. Chúng có giá trị nhất định trong việc giúp chúng ta tìm ra những giải pháp hữu hiệu
để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay. Trong đó,
thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử, một trong những tư tưởng chính trị - Xã hội nổi bật
trong thời kỳ Trung quốc cổ đại, có nhiều kinh nghiệm lịch sử đối với quá trình thực
hiện quản lý Xã hội bằng pháp luật của nhà nước.
Từ thực tiễn và lý luận, việc nghiên cứu thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử. Em lựa
chọn đề tài: "Học thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử và ý nghĩa tích cực trong việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay" làm tiểu luận của mình.

1


2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu


- Làm rõ bối cảnh lịch sử, cuộc đời Hàn Phi Tử và sự hình thành tư tưởng.
- Phân tích các nội dung trong tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử.
- Đánh giá những mặt tích cực và hạn chế của tư tưởng Pháp trị.
- Liên hệ với thực tiễn để vận dụng tư tưởng Pháp trị vào xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu các nội trong tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và áp dụng
vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
- Trong phạm vi không lớn, đề tài tập trung nghiên cứu sự hình thành và nội
dung tư tưởng Pháp trị, tìm hiểu những giá trị tích cực để áp dụng vào việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm lịch sử cụ thể, đề tài sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu;
- Phương pháp tiếp cận hệ thống;
- Phương pháp nghiên cứu, so sánh, dự báo.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, đề tài được bố cục thành 2 chương:
Chương 1: Sự hình thành và nội dung tư tưởng Pháp trị
Chương 2: Ý nghĩa tích cực tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử trong việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay

2


PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Sự hình thành và nội dung của tư tưởng Pháp trị
1.1. Bối cảnh lịch sử và cuộc đời của Hàn Phi Tử

* Bối cảnh lịch sử
Đất nước Trung Quốc cổ đại có hai thời kỳ được nói đến đó là Xuân Thu và
Chiến Quốc. Thời Xuân Thu (770 – 403) là thời kỳ suy tàn của nhà Chu, đây chính
là thời kỳ sinh sống của Lão Tử, Khổng Tử (551-479 TCN). Thời Chiến Quốc (403221 TCN) từ gần cuối đời Chu Uy Liệt Vương, tới khi nhà Tần diệt nhà Tề thống
nhất đất nước, đó là thời kỳ sinh sống của Hàn Phi Tử.
Xuân Thu là thời kỳ đạo đức suy đồi, người ta chỉ mọi cách để tranh lợi, quan
lại tham nhũng, ăn chơi xa hoa truỵ lạc, chiến tranh kéo dài liên miên khiến cho đời
sống của nhân dân càng thêm đói khổ, cùng cực. Trước tình cảnh xã hội như vậy,
tầng lớp quý tộc và tầng lớp trí thức có sự chia rẽ về tư tưởng. Trong sự phát triển
phong phú và sôi động của trào lưu tư tưởng “Bách gia chư tử” ở Trung Hoa thời kỳ
cổ đại, học thuyết pháp trị xuất hiện trên vũ đài chính trị như là đại biểu đến sau
cùng nhưng đã nhanh chóng được đón nhận, trở thành vũ khí lý luận sắc bén của nhà
Tần trong việc quyết định cục diện hỗn loạn và thống nhất Trung Quốc.
* Hàn Phi Tử
Là triết gia thời Chiến Quốc, người tập hợp các học thuyết pháp gia và là nhà
tản văn nổi tiếng trong thời Chiến Quốc. Ông thuộc dòng dõi quý tộc nước Hàn
được gọi là "công tử", thích cái học "hình danh” , là tư tưởng gia cuối cùng của thời
Tiên Tần. Tuy có theo học đạo Nho dưới môn Tuân Tử cùng Lý Tư , nhưng lại có tư
tưởng khác biệt với thầy. Tuân Tử chú trọng về việc giáo hóa Lễ Nghĩa, còn Hàn Phi
cùng Lý Tư thì nặng về pháp chế và quyền thuật, đi theo con đường hoàn toàn trái
ngược với đạo Nho. Hàn Phi từng bảo: "Ngô ái ngô sư, ngô bưu ái chân lý". (Ta mến
thầy ta, nhưng ta càng chuộng chân lý hơn).
3


Dựa theo những kinh nghiệm quản lý đất nước trong lịch sử và tình hình xã
hội hiện thực, và gọi chung là sách “Hàn Phi Tử”. Sách Hàn Phi Tử, tác phẩm chủ
yếu của Hàn Phi Tử là cuốn sách tập trung các học thuyết luật học trước Tần. Lúc
bấy giờ giới tư tưởng ở Trung Quốc lấy Nho giáo và Mạc gia làm đại diện, tôn sùng
“Pháp Tiên Vương” và “Phục Cổ”, học thuyết của Hàn Phi Tử kiên quyết phản đối

phục cổ, chủ trương căn cứ theo tình hình thực tế. Hàn Phi Tử công kích học thuyết
nho giáo “Nhân ái”, chủ tương pháp trị, đề xuất 4 chính sách trọng thưởng, trọng
phạt, trọng nông và trọng chiến. Hàn Phi Tử đề xướng quyền quân thần thụ, sau nhà
Tần, các ách thống trị cực quyền chủ nghĩa chuyên chế phong kiến các triều đại ở
Trung Quốc được thành lập là có ảnh hưởng sâu sắc bởi học thuyết Hàn Phi Tử.
Học thuyết Pháp trị do ông sáng lập, trở thành cơ sở lý luận cho sự ra đời của
nhà nước chế độ tập quyền trung ương chuyên chế thống nhất đầu tiên ở Trung
Quốc. Ông là một triết gia bị ngộ nhận nhiều nhất, bởi tư tưởng của Người, chỗ nào
cũng trái ngược với đạo Nho, một học phái đã giành được địa vị chính thống, kể từ
đời Đường, Tống trở đi. Do đó, học thuyết của Hàn Phi, thậm chí bị coi như tà
thuyết, dị đoan.
1.2. Sự hình thành của tư tưởng Pháp trị
* Tiền đề chính trị
Học thuyết Pháp trị ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt của thời cổ đại với
sự tồn tại chế độ nhà Chu, đây là chế độ Chiếm hữu nô lệ (CHNL) điển hình của
phương Đông. Bắt tay xây dựng nền thống trị của mình, nhà Chu đã thiết lập trật tự
xã hội theo kiểu Tông pháp (hay Lễ chế, do Chu công sắp đặt). Thực chất “Tông
pháp là chế độ thống trị dựa trên cơ sở huyết thống của một dòng họ”. Đây là nét đặc
thù của chế độ chính trị nhà Chu, biểu hiện của tàn dư chế độ thị tộc còn lưu truyền
dưới chế độ CHNL, nói lên tính chất bảo thủ và lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn
tại xã hội của phương Đông. Dựa trên chế độ Tông pháp, nhà Chu đã thiết lập và

4


củng cố nền thống trị của mình qua nhiều thế kỷ và đã đưa chế độ CHNL lên đến
đỉnh cao ở thời kỳ Tây Chu. Nhưng từ năm 770 TCN, do những nguyên nhân khách
quan và chủ quan, nhà Chu phải dời đô sang đất Lạc ấp ở phía Đông. Từ đó, nhà
Chu suy yếu dần và không còn ước thúc được các nước chư hầu nữa. Nhân cơ hội
này, các nước chư hầu đều mượn danh nghĩa “tôn vương” (tôn phò nhà Chu) để

động binh thôn tính các nước khác và giành quyền bá chủ. Chế độ Tông pháp - cơ sở
tổ chức xã hội của nhà Chu bị phá vỡ và Trung quốc bước vào thời kỳ khủng hoảng
xã hội ngày càng trầm trọng là thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc.
Giữa các nước chư hầu xảy ra chiến tranh, kéo dài liên tục suốt hơn 5 thế kỷ,
từ cục diện Ngũ bá thời Xuân thu (Tề, Tấn, Sở, Tần, Tống) đến Thất hùng thời Chiến
quốc (Yên, Tề, Triệu, Nguỵ, Hàn, Tần, Sở). Đây là thời kỳ mà xã hội Trung Quốc
trải qua những biến động rất lớn lao mà nguyên nhân sâu xa của nó là do sự phát
triển mạnh mẽ các yếu tố của lực lượng sản xuất: khoa học kỹ thuật đạt nhiều thành
tựu to lớn, kinh nghiệm sản xuất được tích luỹ lâu đời, sự cần cù chịu khó của nhân
dân…đặc biệt, với sự ra đời của đồ Sắt đã tạo ra bước nhảy vọt của công cụ sản
xuất, làm cho lực lượng sản xuất trở nên mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất
thống trị ban đầu. Trong bối cảnh xã hội giao thời, những giá trị chuẩn mực cũ bị
băng hoại, những chuẩn mực mới chưa định hình cho nên trật tự lễ nghĩa bị phá bỏ,
cương thường xã hội bị đảo lộn. Các hiện tượng vượt chức phận, tiếm tước vị, tôi
giết vua, con giết cha, anh em giết nhau.. trở nên phổ biến tạo ra sự hỗn loạn chưa
từng có. Bức tranh toàn cảnh của xã hội Trung quốc ở giai đoạn này là sự khủng
hoảng về chính trị xã hội và đạo đức luân lý hết sức sâu sắc. Do tác động của những
biến đổi kinh tế - xã hội, một bộ phận quý tộc cũ bị sa sút mất địa vị, họ không còn
được làm quan lại mà đi làm thầy trong thiên hạ. Một cách không tự giác, họ đóng
vai trò tích cực trong việc chuyển tải văn hoá quan phương (chỉ dành cho giới quý
tộc trước đây) xuống tầng lớp bình dân. Từ phong trào này, xuất hiện tầng lớp kẻ sỹ
cùng với một trào lưu học thuật và tự do tư tưởng rộng rãi - những tiền đề nảy sinh
5


một loạt các đại biểu và các trường phái tư tưởng chính trị đại diện cho lợi ích của
các tầng lớp giai cấp xã hội khác nhau như : Lão Tử, Khổng Tử, Mặc Tử, Hàn Phi
Tử với các học thuyết Lão gia, Nho gia, Mặc gia, Pháp gia…
Từ thực tế xã hội nóng bỏng đương thời đã đặt ra những yêu cầu trực tiếp đối
với các học thuyết phải quan tâm lý giải và đề xuất những giải pháp để vãn hồi trật

tự. Xuất phát từ quan niệm nền tảng về “Đạo”, Lão Tử cho rằng xã hội loạn là do
con người vi phạm qui luật tự nhiên, nên ông chủ trương “vô vi nhi trị”, khuyên mọi
người từ bỏ mọi thành quả văn minh và chạy trốn vào tự nhiên, thoát ly thực tế.
Trang Tử - học trò của ông lại muốn đi về một nẻo xa hơn, bi quan yếm thế gần như
thoát tục, chỉ còn mong được “làm con rùa để lết cái đuôi trong bùn”. Theo Khổng
Tử, xã hội loạn là do Lễ chế nhà Chu bị buông lỏng nên ông chủ trương khôi phục
Lễ, đề xuất chủ trương Đức trị. Chiến tranh giữa các nước chư hầu vẫn diễn ra triền
miên với qui mô và sự khốc liệt ngày càng tăng, xã hội ngày càng rối ren điên đảo,
cuộc sống của người dân ngày một cơ cực lầm than. Thống nhất Trung Quốc, chấm
dứt chiến tranh đã trở thành yêu cầu bức thiết của lịch sử. Các nhà pháp trị đã phê
phán gay gắt xã hội đương thời và họ cho rằng đặc điểm của thời đại lúc đó là thời
kỳ tranh đua sức mạnh, do đó không thể trông chờ đạo đức và tình thương để lập lại
trật tự xã hội mà phải dùng công cụ bạo lực để chấm dứt sự hoành hành của bạo lực
đã nhanh chóng khai thông bế tắc xã hội và trở thành ngọn cờ tư tưởng để nhà Tần
thực hiện thành công sự nghiệp thống nhất Trung Quốc.
* Tiền đề về kinh tế:
Ở thời nhà Chu, do thực hiện chính sách Phân phong nên tất cả ruộng đất đều
thuộc quyền quản lý của quý tộc, tầng lớp thứ dân về cơ bản là không có ruộng đất.
Vì vậy, để thiết lập quan hệ sản xuất, nhà Chu đã thi hành rộng rãi chế độ Tỉnh điền.
Theo chế độ này, ruộng đất được chia làm hai loại công điền và tư điền. Người nông
dân phải cùng nhau cày cấy và nộp sản phẩm ở công điền cho các quý tộc sau đó

6


mới được canh tác ở phần ruộng được chia. Như vậy, người nông dân lĩnh đất canh
tác nhưng không có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng ruộng đất. Chế độ Tỉnh
điền đã cho thấy tính chất nhị nguyên cố hữu của quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ở
phương Đông - tức là sự tồn tại song song của công điền với tư điền trong công xã.
1.3. Giá trị tư tưởng trong học thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử

Tư tưởng pháp trị thời Chiến Quốc đạt được bước phát triển mới: những
người theo tư tưởng pháp trị đã trở thành trường phái pháp gia với ba học phái riêng
rẽ là: Thuật (của Thân bất Hại), Thế (của Thận Đáo) và Pháp (của Thương ưởng).
Họ không chỉ chủ trương dùng pháp luật để cai trị mà còn kết hợp với những
phương tiện khác để trị nước. Đồng thời, trong tư tưởng của các pháp gia, chính trị
đã thực sự ly khai với đạo đức.
* Quan niệm về “Thuật” của Thân Bất Hại: Thân Bất Hại là người đất Kinh,
một người tôi tầm thường ngày xưa của nước Trịnh, ông học "thuật" để cầu lộc với
Hàn Chiêu Hầu. Chiêu Hầu dùng ông làm tướng quốc, bên trong sửa đổi chánh trị,
giáo dục: bên ngoài ứng phó với chư hầu suốt 15 năm; trọn đời của Thân Tử, ông
làm cho quốc trị, binh cường, không ai xâm phạm nước Hàn cả. Cái học của Thân
Tử, gốc ở Hoàng Lão, mà chỉ là “hình danh”, viết sách gồm 2 thiên, đề là Thân Tử.
*Quan niệm về “Thế” của Thận Đáo: Thận Đáo (370- 290 TCN), người nước
Triệu, trong khi đề cao pháp luật (coi pháp luật là nguyên tắc cao nhất của chính trị),
lại cho rằng nếu không có quyền thế (địa vị, quyền lực) thì pháp luật cũng vô hiệu.
Vì thế, Thận Đáo hết sức đề cao quyền thế. Theo ông, quyền thế là cơ sở để đặt ra
pháp luật và đảm bảo cho pháp luật được thi hành. Để đảm bảo quyền thế của người
cai trị, Thận Đáo chủ trương thiết lập một nhà nước tập quyền thống nhất, trong đó
mọi quyền lực đều thuộc về nhà vua. Hiền và trí không đủ để cấp dưới phục tùng
nhưng quyền thế và địa vị đủ khuất phục tùng nhưng quyền thế và địa vị đủ khuất

7


phục được người. Chủ trương tập quyền, cấm không được lập bè đảng, phân biệt và
quy định rõ địa vị, quyền hạn của các tầng lớp người trong xã hội cho rõ ràng.
* Quan niệm về “Pháp” của Thương Ưởng: Thương Ưởng (khoảng 390
TCN-338 TCN) là công tử nước Vệ. Thương Ưởng đề cao “pháp” trong quản lý
nhưng cũng yêu cầu hình pháp phải được thay đổi theo thời thế. Pháp luật phải
nghiêm, ban bố cho mọi người đều biết, ai cũng phải thi hành, có tội thì phải phạt,

phạt nặng thì mới răn đe được. Đặt ra lệnh cao gian, cáo sai thì bị tội, cùng nhau
chịu trách nhiệm; thường hậu mà xác thực, phạt nặng mà cương quyết. Tổ chức liên
gia thực hiện chính sách cáo gian; thực hiện thưởng cho người có công, phạt người
phạm tội; quý tộc mà không có chiến công thì hạ xuống dân thường.
Tiếp thu điểm ưu trội của ba trường pháp “pháp”, “thuật”, “thế” để xây dựng
và phát triển một hệ thống lý luận pháp trị tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với
đương thời, Hàn Phi Tử đã tiến hành tổng kết toàn bộ tư tưởng của các pháp gia tiền
bối. Trong khi xác nhận những yếu tố hợp lý, đúng đắn của các quan điểm Pháp,
Thế, Thuật trong việc khẳng định vai trò của các công cụ này, Hàn Phi Tử cũng chỉ
ra những hạn chế cụ thể của họ. Theo ông, Thuật của Thân Bất Hại là hoàn toàn
đúng, song nó còn thiếu một điều kiện đảm bảo cho pháp luật có thể thực thi đó là
quyền lực, vì “Bề trên có dùng Thuật giỏi nhưng nếu không có Thế thì cũng bị cái vạ
là pháp luật không thấm nhuần vào được các quan”.
Khi nói về Thận Đáo, Hàn Phi cho rằng: Thế là cần thiết, nhà cầm quyền phải
dùng quyền thế của mình nhưng cũng phải biết giữ pháp luật (phải có Thuật), song
ông cũng chưa nhìn thấy vai trò của Thuật là yếu tố giữ cho quyền lực được bền
vững. Những quan điểm về Pháp và Biến Pháp của Thương Ưởng có nhiều tiến bộ,
nhưng cũng như Thận Đáo, ông cũng chưa thấy được vai trò bổ sung giữa Thuật và
Pháp. Theo Hàn Phi: “nhà vua không có Thuật thì cái tệ ở nơi người trên, bầy tôi mà
không có pháp thì cái loạn do kẻ dưới”. Trong thiên Định pháp, ông còn cho rằng: cả

8


Thuật và Pháp đều cần thiết đối với cai trị như cơm ăn và áo mặc- những dụng cụ để
nuôi sống con người.
Phê phán quan điểm phiến diện của cả ba phái, Hàn Phi đã nêu rõ tính tất yếu
phải hợp nhất chúng lại vì theo ông chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau, trong
đó Pháp được coi là trung tâm của chính sách cai trị; Thuật và Thế là những điều
kiện tất yếu để thi hành pháp luật. Đồng thời, pháp luật được thực thi sẽ là cơ sở để

Thuật và Thế được giữ vững và phát huy tác dụng.
Bên cạnh đó Hàn Phi còn kế thừa, tiếp thu cơ sở lý luận từ các học thuyết tư
tưởng Nho, Lão và phát triển chúng theo quỹ đạo của pháp trị. Theo ông, trừ một số
ít thánh nhân, còn hầu hết là thường nhân với nhiều tính xấu: tranh nhau vì lợi, lười
biếng và chỉ phục tùng quyền lực. Bản tính vị kỷ, hám lợi sẽ dẫn con người đến chỗ
tranh đoạt lẫn nhau và gây ra nhiều điều ác. Bằng lý luận về “tính ác”, Hàn Phi đã
luận chứng cho tính tất yếu phải cai trị bằng pháp luật.
Ông còn tiếp thu và phát triển học thuyết “chính danh” của nho gia thành một
trong những tiền đề lý luận quan trọng cho lý thuyết pháp trị. Theo nho gia, “Chính
danh” là một biện pháp qui định giúp mọi người nhận rõ cương vị, quyền hạn và
nghĩa vụ của mình trong quan hệ với chức vụ và đẳng cấp tương ứng. Có xác định
được danh phận thì mới điều hoà được các quan hệ, do đó “chính danh” được xem
như là phương tiện để ổn định trật tự xã hội. Tuy nhiên, nếu nho gia cho rằng danh
phận được sắp đặt tự nhiên thì Tuân Tử chủ trương việc chế danh, ấn định ý nghĩa
cho danh đó là quyền của vua, không ai được tự ý chế danh, đặt sai ý nghĩa các danh
mà nhà vua đã định. Hàn Phi đã tiếp thu tư tưởng của thầy thành lý luận về hình
danh cho pháp trị: “cái đạo bất biến của việc cai trị là lấy cái danh (tên gọi) làm đầu.
Cái danh đã chính thì sự vật được xác định. Cái danh thiên lệch thì sự vật thay đổi”.
Điều quan trọng hơn, theo Hàn Phi là phải tìm một sở triết học làm xương
sống cho lý thuyết pháp trị và ông đã tìm thấy nó ở lý thuyết của Lão Tử mà cơ sở là

9


Đạo Đức kinh. Kế thừa và phát triển quan điểm duy vật về thế giới của Lão Tử và
Tuân Tử, Hàn Phi đã giải thích sự phát sinh, phát triển của vạn vật theo “đạo” và “lý
” của chúng. Theo ông, “đạo” vừa là nguồn gốc của vạn vật, vừa là qui luật phổ biến
của chúng, vì vậy nó không thay đổi. Còn “lý” là qui luật riêng, nên nó thường biến
hoá không ngừng. Vì vậy, để nhận thức được sâu sắc sự vật và hoạt động có kết quả,
mọi hoạt động của con người phải theo qui luật “thể hiện đạo” và “tuân theo lý”.

Vận dụng thuyết “đạo” và “lý” vào phép trị nước, ông cho rằng, ngày nay cái “lý”
(thời thế, hoàn cảnh…) đã thay đổi, thì phép trị nước không thể viện dẫn theo Đạo
đức của Nho gia, Kiêm ái của Mặc gia, Vô vi của Đạo gia như trước nữa, mà trong
hoàn cảnh hiện tại (vương đạo suy vi, đất nước loạn lạc…) cần phải dùng pháp trị.
Triết lý chính trị của Hàn Phi, bắt nguồn từ tư tưởng "Phú quốc cường binh"
của Ngô Khởi cùng Thương Quân, hình thành một hệ thống gồm ba chủ điểm là:
“Thuật” – “Thế” - “Pháp”.
-“Thuật” theo tư tưởng của Hàn Phi Tử Là một quan niệm rất quan trọng,
trong tư tưởng của Hàn Phi, luôn luôn gắn liền với "Pháp", chỉ có khác ở chỗ, Pháp
để trị dân, còn Thuật thì để nhà vua kiểm soát thần thuộc, tập trung ở hai điểm:
+ Một là, "Cách tắc nhi bất thông, chu mật nhi bất hiện". (Ngăn cách đừng thông
nhau, kín đáo đừng lộ liễu). Về điểm một là bảo, kẻ làm vua nên sống cách biệt với
quần thần, đừng để họ thấy cử chỉ của mình, mà đoán biết ý định chân chính của mình.
+ Hai là, giấu kỹ tình cảm ghét thương. Điểm hai cho rằng người làm vua phải
tập làm sao cho tình cảm ai lạc hỷ nộ của mình, chẳng bao giờ biểu lộ ra ngoài, có vậy
thì đám thần thuộc sẽ không cách nào khai thác, lợi dụng cảm tình của mình. Xem đó
thì ai muốn có "Thuật" làm vua, cũng chẳng dễ gì, cần phải học hỏi thêm công phu tu
thân, dưỡng tính vừa Hư và Tĩnh của cả nhà Nho lẫn nhà Đạo, mới mong thành công
được. Để giữ gìn quyền lực tuyệt đối của nhà vua, Hàn Phi khuyên các vua chúa
không nên tín nhiệm kẻ khác. Đã không nên tín nhiệm mà thật tế lại đòi hỏi, không

10


thể không dùng người làm việc cho mình, cho nên cần phải có thuật khống chế người,
bằng những pháp lệnh khắt khe, khiến cho người ta khiếp sợ, phải cúi đầu khuất phục.
-“Thế” theo tư tưởng của Hàn Phi Tử: là "Quyền lực tối thượng", Nguyên
quan niệm về Thế, là do Thân Đáo khởi xướng, kịp đến tay Hàn Phi, thì càng coi đó
là điều kiện căn bản nhất của nhà lãnh đạo. Nếu chúa mà thiếu cái Thế mạnh thì
Pháp không thể hành, và sở dĩ chúa phải dùng đến Thuật, là nhằm bảo vệ cái Thế.

Tóm lại, Pháp, Thuật, Thế là ba mặt của quyền lực tối thượng, tuy có khác nhau,
nhưng liên đới vô cùng chặt chẽ với nhau.
- “Pháp” theo tư tưởng Hàn Phi Tử là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định
rõ danh phận, phải trái, công tội; từ đó mọi người biết được bổn phận, trách nhiệm
của mình. Hàn Phi Tử định nghĩa cho "Pháp" có ba điểm chính: Là pháp lệnh do cửa
quan ban ra, mọi người đều phải tuân theo; Nội dung chính yếu của pháp lệnh là
Thưởng và Phạt. Pháp ví như tấm gương sáng có thể soi thấu tà gian; pháp ví như
cán cân, tiêu biểu cho lẽ công bằng.
Từ quan niệm hiện đại, thì hàm nghĩa của "Pháp" gồm có hai mặt tích cực và
tiêu cực. Về mặt tiêu cực là có tính cách phòng ngừa, pháp đã quy định sẵn, trường
hợp phạm vào lệnh cấm nào, thì phải chịu theo hình phạt ấy; về mặt tích cực thì, có
những điều khoản bảo đảm quyền lợi chính đáng cho người dân. Nhìn lại cái gọi là
"Pháp" mà Hàn Phi luôn luôn nhấn mạnh, thì chỉ có mặt tiêu cực thôi. Nói cách khác
là, Pháp của Hàn Phi, chỉ có những điều do kẻ thống trị đòi hỏi ở nhân dân thôi,
ngược lại, nhân dân chẳng có quyền đòi hỏi điều gì cả ở kẻ thống trị.
Ông cho rằng, “Pháp” là Cấm Tức là lệnh cấm, là những gì mà kẻ thống trị
đòi hỏi một chiều ở người dân, ai làm đúng với lệnh đó thì được thưởng, trái với
lệnh đó là phải thọ phạt. Thưởng và Phạt là hai cái cán, giúp cho kẻ thống trị kiểm
soát, thậm chí nô dịch nhân dân. Để pháp lệnh được thi hành hữu hiệu, đòi hỏi kẻ
hành pháp phải công bằng vô tư. Theo Hàn Phi, nội dung chính yếu của Pháp là

11


thưởng và phạt. Sở dĩ phải nhấn mạnh vấn đề thưởng phạt, là vì có ba nguyên nhân
sau đây: Người ta có tâm lý ham thưởng sợ phạt, nên áp dụng luật thưởng phạt, là
phương pháp cai trị hữu hiệu nhất. Nếu vua chúa để mắt nhìn, để tai nghe và dùng
đầu óc suy tư thì rất dễ bị thần thuộc a dua lừa bịp. Một khi đã áp dụng luật lệ
thưởng phạt, thì sẽ tránh được tệ hại đó bởi điều thưởng phạt là phán xét theo sự
kiện khách quan, việc gì đáng thưởng, điều nào đáng phạt, đều được định sẵn bằng

luật lệ minh bạch, khỏi bị ảnh hưởng bởi tình cảm chủ quan. Thưởng phạt là lợi khí
sắc bén, để vua chúa kiểm soát thần thuộc. Bá Di, Thúc Tề vì tưởng niệm cố quốc,
bất mãn chính trị mà chịu chết đói trên núi hoang, được Khổng Tử tôn là hiền sĩ,
nhưng với Hàn Phi thì cho rằng, những người chẳng ham thưởng, không sợ phạt như
vậy, là "hạng thần dân vô ích", theo tiêu chuẩn giá trị chữ "Pháp". Hàn Phi quan
niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định và công bằng.
Ông coi trọng tác dụng của pháp luật và chủ trương xây dựng một lý luận
pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ “pháp”,
“thuật” với “thế”. Ông hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh
lệnh ban bố rõ ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng
cho những kẻ cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh”. Đây là
một tư tưởng hết sức tiến bộ so với đương thời. Cái gọi là “mệnh lệnh ban bố rõ ràng
nơi cửa công” khác xa so với cách cai trị bởi ý muốn chủ quan của các cá nhân quý
tộc nắm quyền đương thời. Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm họ, làm cho dân
biết pháp luật để tránh phạm pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho hành vi của mọi người,
chứ không phải là cái bẫy để hại dân. Các điều luật minh bạch là phương thức phòng
bị tích cực, chứ không phải là một thủ đoạn chế tài tiêu cực. Đồng thời, nó cũng
chính là “hiến lệnh” – một công cụ - để vua cai trị thần dân.
Nội dung của “pháp” có thể quy về 2 khái niệm chủ yếu là “thưởng” và “phạt”.
Thực hành pháp trị tất phải xây dựng pháp luật. Và phải xét từ các nguyên tắc sau:

12


Tính tư lợi: Hàn Phi quan niệm nền tảng của quan hệ giữa con người với con
người là tư lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình. Luật pháp đặt ra thì cái lợi của
nó phải lớn hơn cái hại.
Hợp với thời thế: Đây chính là thuyết biến pháp của Hàn Phi. Nguyên tắc thực
tế của việc xây dựng pháp luật, hay tính thực tiễn của luật pháp, là nét nổi bật trong
tư tưởng pháp trị của Hàn Phi. Đối với ông, không có một pháp luật siêu hình hay

một mô hình pháp luật trừu tượng tiên thiên để mà noi theo. Chỉ duy nhất có yêu cầu
và tiêu chuẩn của thực tiễn. “Pháp luật thay đổi theo thời thì trị; việc cai trị thích
hợp theo thời thì có công lao... Thời thế thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì
sinh loạn... Cho nên, bậc thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà thay đổi và
sự ngăn cấm theo khả năng mà thay đổi”.
Ổn định, thống nhất: mặc dù pháp luật phải thay đổi cho hợp với thời thế, song
trong một thời kỳ, pháp lệnh đã đặt ra thì không được tùy tiện thay đổi (“số biến
pháp”), vì nếu vậy thì dân chúng không những không thể theo, mà còn tạo cơ hội cho
bọn gian thần. Phù hợp với tình người, dễ biết dễ làm; Đơn giản mà đầy đủ; Thưởng
hậu phạt nặng. Đối với việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi là tăng cường giáo
dục pháp chế, tức là “dĩ pháp vi giáo”. Mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước pháp
luật, tức “pháp bất a quý”, “hình bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu”. Đến bản
thân bậc quân chủ – nhà vua – cũng phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật: “Kẻ làm vua
chúa là kẻ phải giữ pháp luật, căn cứ vào kết quả mà xét để lập công lao”.
Cho rằng nhà vua biết bỏ điều riêng tư, làm theo phép công thì chẳng những
dân sẽ được yên, mà nước cũng được trị. Nếu xét theo ý nghĩa của những luận điểm
này thì có thể thấy rằng, mặc dù Hàn Phi chủ trương quân quyền thần thánh không
thể xâm phạm, song hình thái quân quyền này vẫn bị chế ước bởi pháp quyền.
Nghiêm khắc cẩn thận, “tín thưởng tất phạt”, không được tùy ý thưởng cho người
không có công, vô cớ sát hại người vô tội. Dùng sức mạnh đạo đức hỗ trợ cho việc

13


thi hành pháp luật. Hàn Phi chủ trương pháp trị, song cũng rất chú trọng đến “thuật”
của nhà vua, bởi vì “bầy tôi đối với nhà vua không phải có tình thân cốt nhục, chỉ vì
bị tình thế buộc không thể không thờ”. Nhà vua dựa vào pháp trị để làm cho đất
nước giàu mạnh, song nếu “không có cái thuật để biết kẻ gian thì chỉ lấy cái giàu
mạnh của nước mà làm giàu có cho các quan đại thần mà thôi”.
Như vậy, nhà vua phải có “thuật” để dùng người. Đối với Hàn Phi, “thuật” chính

là một loạt các phương pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm, thi cử, thưởng phạt của nhà vua.
Trong đó, phép hình danh là một thuật không thể thiếu được của bậc quân chủ. Với
cách nhìn như vậy thì “pháp” và “thuật” gắn bó chặt chẽ với nhau: “Nhà vua không có
thuật trị nước thì ở trên bị che đậy; bầy tôi mà không có pháp luật thì cái loạn sinh ra ở
dưới. Hai cái không thể thiếu cái nào, đó đều là những công cụ của bậc đế vương”.
Vua phải duy trì địa vị độc tôn của mình, không được để bề tôi quá quý hiển,
đề phòng đại thần tiếm quyền. Vì vậy, nếu chỉ xét về bản thân vị vua, thì “thế” là cái
cốt lõi nhất, quan trọng nhất, còn “pháp” và “thuật” chỉ là công cụ. Sử dụng “pháp”,
“thuật”, “thế” cốt yếu là để tăng cường sức mạnh của tập quyền quân chủ, tạo nên
bối cảnh chính trị “việc tuy ở bốn phương song then chốt ở tại trung ương, thánh
nhân nắm giữ cái chủ yếu, bốn phương đến phục dịch” (sự tại tứ phương, yếu tại
trung ương, thánh nhân chấp yếu, tứ phương lai hiệu. “Hàn Phi tử. Dương quyền”).
Từ đó, góp phần tạo ra một xu thế lịch sử cho việc xây dựng một nhà nước trung
ương tập quyền phong kiến thống nhất.

14


Chương II: Ý nghĩa tích cực tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử trong việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay
2.1. Đánh giá những ưu điểm trong tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử
Trung hoa thời cổ đại, học thuyết pháp trị được ra đời từ những nguyên nhân
bắt nguồn từ phương diện thực tiễn và lý luận. Đó vừa là sự kế thừa những tư tưởng,
học thuyết đi trước; vừa là sự phản ánh qui luật vận động của hiện thực trên cơ sở
những kết quả của hoạt động nhận thức sáng tạo của con người gắn với những phẩm
chất, nhân cách cá nhân tiêu biểu của thời đại.
Hàn Phi Tử nhà sáng lập ra học thuyết pháp trị có sự kế thừa, tiếp thu những
mặt mạnh của các quan niệm về “Thuật” – Thân Bất Hại, “Thế” của Thận Đáo và
“Pháp” của Thương Ưởng. Hàn Phi còn kế thừa, tiếp thu cơ sở lý luận từ các học
thuyết tư tưởng Nho, Lão và phát triển chúng theo quỹ đạo của pháp trị. Bên cạnh

phát huy những điểm ưu của những tư tưởng trước đó thì ông cũng đã chỉ ra một
cách thật cụ thể về những mặt mạnh, mặt hạn chế của từng quan niệm mà vận dụng
đưa vào tình hình nước nhà cho phù hợp.
Tình hình rối ren, xã hội loạn lạc thì giữa lúc đó học thuyết pháp trị của Hàn
Phi Tử đã xuất hiện. Chính nhờ vào sự ra đời của học thuyết pháp trị của ông đã tạo
ra tiền đề vững chắc khắc phục tình trạng nước nhà đang trong thế lâm nguy. Nhờ có
học thuyết này nên xã hội phần nào ổn định không còn tình trạng cướp bóc như
trước kia, khuôn khổ pháp luật đi vào nề nếp làm cho nhà nước hưng thịnh, đời sống
nhân dân được chăm lo một cách chu đáo hơn.
Sự ra đời của học thuyết được xem là một công cụ hữu hiệu để tình hình chính
trị lúc bấy giờ đi vào kỷ cương và được lòng tin cậy của nhân dân, học thuyết được
xem là một mô hình chuẩn để mọi người căn cứ vào đó mà chấp hành và có quyền
chịu trách nhiệm về việc làm của mình.

15


2.2. Đánh giá những hạn chế trong tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử
Nhà Tần, sau khi sử dụng hệ thống pháp trị, đã thu phục được các nước còn
lại, thống nhất Trung Quốc, mở ra một trang sử mới cho dân tộc Trung Hoa. Song,
sang đến đời Hán, Nho gia đã hưng thịnh trở lại, Pháp gia cùng hệ thống pháp trị
nhanh chóng mất đi chỗ đứng của mình. Về phương diện này, Ngô Kinh Hùng, nhà
triết học pháp luật nổi tiếng người Trung Quốc, đã đưa ra một nhận xét tương đối
xác đáng rằng, sở dĩ Pháp gia thất bại là do bản thân cách làm của Pháp gia (trong đó
có Hàn Phi) tồn tại nhiều điểm quá cực đoan:
- Cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình phạt nghiêm khắc.
- Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng quá máy
móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính đàn hồi trong việc sử dụng pháp luật.
- Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp với
pháp luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.

- Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất; thực
ra, luật pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích khác nhau. Ở
họ, có lòng nhiệt huyết cải cách mù quáng, song lại quá thiếu ý thức lịch sử, dường
như là muốn sáng tạo lại lịch sử.
Là đại biểu xuất sắc nhất trong tư tưởng pháp trị của Trung Quốc, vẫn thiếu
một tinh thần pháp luật tối thượng. Tuy Hàn Phi quan niệm vua phải tuân theo pháp
luật, song trên thực tế, vua là người siêu vượt lên trên pháp luật, vì mọi quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp đều nằm trong tay nhà vua. Hơn nữa, xem xét dưới góc
độ kỹ thuật, dù có một số người vẫn quan niệm pháp luật của Hàn Phi là sự kết hợp
giữa lễ và hình, song để so sánh, thì “hình” vượt xa “lễ” rất nhiều. Trên thực tế, hình
phạt là nền tảng của những điều luật mà Pháp gia đưa ra.
Như vậy, tư tưởng của Hàn Phi hết sức sâu rộng, bao gồm chính trị, pháp luật,
triết học, xã hội, kinh tế, quân sự, giáo dục,...; trong đó, then chốt chính là tư tưởng
16


chính trị. Ông để tâm suy nghĩ làm sao cho vị vua trong điều kiện xã hội đương thời
có thể vận dụng vô số các phương pháp khác nhau để đạt được cục diện chính trị ổn
định, để cho nước giàu quân mạnh. Có thể nói “Hàn Phi Tử” là một bộ sách chính trị
học vĩ đại và học thuyết chính trị của ông được người xưa gọi là “học thuyết của đế
vương” (đế vương chi học).
2.3. Ý nghĩa tích cực tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử trong việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay
* Ý nghĩa của việc tìm hiểu nguyên nhân ra đời của học thuyết pháp trị của
Hàn Phi Tử.
Trung Quốc thời kỳ Cổ đại đã lần lượt kiểm nghiệm vai trò của hàng loạt các học
thuyết chính trị khác nhau trong việc giải đáp yêu cầu nóng bỏng của lịch sử, song chỉ
duy nhất học thuyết pháp trị giải quyết thành công. Sự khủng hoảng chính trị - xã hội
trầm trọng của xã hội đương thời phản ánh sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp đã
trở nên gay gắt, chín muồi và đặt ra nhu cầu giải quyết bằng bạo lực và Pháp trị là học

thuyết duy nhất đã nhận thức được nhu cầu đó. Không như những học thuyết khác đều đề
cao nhân trị, pháp trị thực hiện đường lối chiến lược lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu,
thực hiện các biện pháp kết hợp pháp quyền với kinh tế trong cải cách để thúc đẩy kinh
tế-xã hội phát triển, sao cho “binh cường nước mạnh”. Có thể nói, lý thuyết pháp trị của
Hàn Phi trong Bách gia chư tử là có ý nghĩa thực tiễn nhất. Nó vừa phản ánh sự vận động
của xã hội Trung Quốc thời kỳ cổ đại, vừa chỉ được con đường tất yếu chính trị để đi đến
một quốc gia trung Quốc phong kiến thống nhất. Chủ trương của pháp trị đã đứng trên
mảnh đất của hiện thực để giải quyết hiện thực và đáp ứng được lợi ích của giai cấp địa
chủ - giai cấp đại diện cho xu thế đi lên của lịch sử. Vì vậy, pháp trị là học thuyết khoa
học, cách mạng và thực tế cao.
Sự ra đời của học thuyết pháp trị cho thấy: thực tiễn là nơi đặt ra yêu cầu cho
lý luận giải đáp, song thực tiễn cũng luôn kiểm nghiệm, sàng lọc nghiêm khắc để đi

17


đến sự lựa chọn duy nhất đúng là học thuyết pháp trị. Đồng thời nó cũng khẳng định:
chỉ có học thuyết tư tưởng nào được ra đời trên cơ sở tổng kết thực tiễn, được kế
thừa và được bổ sung thêm những giá trị tư tưởng mới trên cơ sở có chọn lọc, thì học
thuyết đó mới giữ được vai trò lịch sử tiên phong. Sức sống của học thuyết pháp trị
đối với thực tiễn còn được thể hiện ở chỗ đã đáp ứng được những lợi ích cơ bản của
giai cấp thống trị đương thời. Những qui luật rút ra từ quá trình hình thành của học
thuyết pháp trị đã góp phần khẳng định tính khách quan, chân lý khoa học của học
thuyết Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Đặc biệt,
trong khi khẳng định tính quyết định của thực tiễn với lý luận thì đồng thời cũng cho
thấy vai trò cực kỳ quan trọng của lý luận trong việc mở đường cho thực tiễn đi lên.
Nguyên nhân ra đời của học thuyết pháp trị, một học thuyết đã từng thành công
trong lịch sử, đối với công tác lý luận phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, bám sát
để nắm bắt được đúng những yêu cầu của thực tiễn; đồng thời phải biết bổ sung
những giá trị mới trong kho tàng nhân loại và thời đại để không ngừng phát triển hoàn

thiện lý luận, để lý luận luôn đáp ứng được những yêu cầu của cuộc sống. Bài học của
việc kế thừa, phát huy những giá trị tư tưởng phải đứng vững trên lập trường giai cấp
cũng gợi mở ý nghĩa thiết thực đối với công tác lý luận của chúng ta trong giai đoạn
hiện nay. Thực tiễn đất nước hiện nay cũng đang đặt ra những câu hỏi lớn về hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế, xây dựng nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân… mà lý luận phải giải đáp có hiệu quả.
* Ý nghĩa của học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử trong vận dụng vào xây
dựng nhà nước pháp quyền XNCH ở nước ta hiện nay
Xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN, tư tưởng pháp trị của ông có
nhiều tiến bộ có thể áp dụng, nhất là vấn đề dùng pháp luật nghiêm minh đúng đắn:
- Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, chúng ta đã xác định pháp luật là tối
thượng nhưng pháp luật nhà nước ta là do nhân dân đề xuất soạn ra chứ không phải

18


ông vua chuyên chế tạo ra. Nhà nước pháp quyền XHCN là quyền lực thuộc về nhân
dân, còn thời phong kiến quyền lực thuộc về ông vua. Nhà nước pháp quyền luôn
đảm bảo được tính tối cao của hiến pháp và pháp luật, pháp luật phải phản ánh đúng
nguyện vọng của nhân dân. Nhà nước đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công
dân, chịu trách nhiệm trước công dân về hoạt động của mình… Ngược lại, công dân
phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước, chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm
pháp luật của mình. Để đảm bảo các yêu cầu trên thì nhà nước pháp quyền nói chung
phải có một thể chế thích hợp, để đảm bảo pháp luật được thực thi và đảm bảo được
vai trò của các cơ quan lập pháp, tư pháp, hành pháp. Ở nước ta, nhà nước pháp
quyền XHCH là một kiểu tiến bộ dân chủ với có các đặc trưng là nhà nước của dân
do dân vì dân, dân ở đây là nhân dân lao động trong đó là liên minh công – nông –
trí thức trên cơ sở khối đại đoàn kết toàn dân tộc; Nhà nước quản lý mọi mặt đời
sống bằng pháp luật, đồng thời không ngừng nâng cao coi trọng giáo dục đạo đức và
pháp luật, pháp chế XHCN; Quyền lực thống nhất có sự phân công kiểm soát giữa

các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp; Nhà nước hoạt động, theo nguyên tắc tập trung dân chủ; Nhà nước do Đảng
cộng sản Việt Nam lãnh đạo trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Nhà nước luôn có sự phân công giữa các cơ quan nhằm đảm bảo các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và vì lợi ích của nhân dân. Trong thời kỳ đổi
mới, chúng ta đã và đang chú ý đến khâu kiểm soát. Từ kết quả nghiên cứu lịch sử tư
tưởng chính trị của thế giới, người ta nói rất nhiều về kiểm soát. Quyền lực công mà
không bị kiểm soát thì các cá nhân rất dễ đi vào lạm quyền, biến quyền lực chung
thành quyền lực riêng của cá nhân, biến mục đích sử dụng quyền lực của đại đa số
thành mục đích phục vụ cho lợi ích cá nhân. Vì vậy vấn đề kiểm soát đang là một
đòi hỏi cấp thiết hiện nay. Kiểm soát tốt, thanh tra tốt mới có thể hoàn thiện tốt nền
pháp trị XHCN, cũng từ đó hạn chế được vấn đề như: lạm quyền, tham ô, hối lộ…

19


- Hàn Phi Tử cho rằng: “những người thi hành pháp luật mà mạnh thì nước
mạnh, còn những người thi hành pháp luật yếu thì nước yếu”. Nước chỉ mạnh khi
những người thi hành pháp luật tạo ra một sự công bằng, nghiêm túc theo pháp luật.
Nếu như người cán bộ làm mất lòng tin của nhân dân thì tất yếu sẽ thiếu đi sự đoàn
kết thống nhất. Đã là người cán bộ thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Là
người cầm cán cân pháp luật họ phải xác định hai chữ “công bằng” trong đó chú ý
đến tính nhân văn của con người, phải nắm rõ pháp luật để xử lý sao cho công bằng
khách quan. Phải có những đội ngũ đó chúng ta mới thực hiện nghiêm pháp luật
được. Còn trong thực tế, Đảng ta cũng đánh giá có một bộ phận không nhỏ đã thoái
hóa, biến chất mới dẫn đến nhiều vụ án oan sai, nhiều vụ xử rồi mà vẫn không thi
hành được. Để có đất nước vững mạnh, chúng ta cần chuyên sâu hơn nữa, chú ý
nhiều đến vấn đề xây dựng một đội ngũ lãnh đạo đủ sức, đủ tài có thể đảm đương
gánh vác trách nhiệm mà nhân dân giao phó.
Nhà nước nào cũng là nhà nước của một giai cấp xác định, không có nhà nước

phi giai cấp. Khi nhà nước cầm quyền tức là vì nhân loại mà cầm quyền, để đạt được
khát vọng nhân văn và khả năng thực tiễn để vươn tới tự do bình đẳng. Vì vậy, bất
kể nền chính trị nào cũng bị chi phối bởi giai cấp, bởi nhân loại. Ở đây cũng nói đến
trạng thái, nhân cách, trí tuệ của giai cấp cầm quyền. Ở đây xin nói thêm, về nhà
lãnh đạo, vì ông vua là người soạn ra luật, nhưng nến ông vua ấy không đủ minh
mẫn, trí tuệ để soạn ra luật thì sao ? hay như việc ông vua đó không sáng suốt, áp
dụng sai luật pháp thì tất yếu lòng dân không phục. Hàn Phi Tử cũng đã nói đến, cần
phải có trạng thái pháp trị tốt và cần phải có nhà cầm quyền trí tuệ. Nếu nói, có nền
pháp trị thì không cần nhà lãnh đạo là một sai lầm. Nếu như vậy thì là quá tuyệt đối
hóa pháp luật. Hai yếu tố đó kết hợp thì mới thành công.
- Cho rằng những nhà lãnh đạo, phải dựa vào pháp trị để làm cho đất nước
giàu mạnh, song nếu “không có cái thuật để biết kẻ gian thì chỉ lấy cái giàu mạnh

20


của nước mà làm giàu có cho các quan đại thần mà thôi”. Xét một khía cạnh khác,
cái thuật ở đây Hàn Phi Tử muốn nói các phương pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm, thi
cử, thưởng phạt của người lãnh đạo. Cái thuật của Hàn Phi Tử là phải giữ kín trong
lòng. Từ cái trong lòng đó để áp dụng vào mà thử lòng người. Ví dụ với thời phong
kiến ở triều nhà Nguyễn cũng áp dụng điều này. Muốn thử lòng trung thì đưa người
đó đi thật xa và cho người theo dõi, muốn thử người lòng kính thì lại cho ở gần, càng
gần càng tỏ rõ bản chất xem có còn kính nữa không. Nó thuộc vào nghệ thuật dùng
người, khâu đánh giá, điều chỉnh cán bộ, nếu không có nghệ thuật thì không đánh
giá hết người tài, lại còn thiên kiến quan hệ với nhau. Giả định anh làm công tác đã
tốt nhưng không có thuật chọn người thay thế, kế nhiệm thì đó cũng chưa phải là tốt.
Hoàn toàn có thể vận dụng “thuật” của Hàn Phi Tử vào việc sử dụng cán bộ. Như
tấm gương Hồ Chí Minh cũng đã nói đến thuật dùng người. Sau khi có đường lối
đúng đắn thì chúng ta phải có cái thuật dùng người, người đó phải có cái tâm trong
sáng gạt qua lợi ích cá nhân để phụng sự cộng đồng.

Một bộ phận không nhỏ biến chất đi lên bằng con đường luồn lách, chạy chức.
Đó là con đường đối lập với văn hóa chính trị. Khi lên theo con đường như vậy họ
không phải trả giá về rèn luyện đạo đức, họ lên như vậy và sau này họ cũng tuyển dụng
như vậy thì quả là nguy hiểm. Muốn có xã hội ổn định thì yếu tố con người mới là quan
trọng. Cần phải có các tổ chức giám sát, dựa vào nhân dân, cần phải mạnh, tăng cường
hơn nữa trong công tác giáo dục, quản lý, tuyển dụng cán bộ vào bộ máy nhà nước.
- Ông cho rằng “luật pháp không phân biệt sang hèn”, “hình phạt không kiêng
dè bậc đại thần, tưởng thưởng không bỏ sót kẻ thất phu… thưởng cho những kẻ cẩn
thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh”.
Ông rất coi trọng đến thưởng và phạt. Thưởng cho người có công, phạt những
người vi phạm, phạt cả những kẻ bao che tội phạm, khi xử phạt cũng không phân
biệt sang hèn tức là bình đẳng trước pháp luật. Nhưng cũng lưu ý đến thưởng, bởi

21


thưởng nhiều sẽ có kẻ hám hợi mà làm, làm vì được cái gì đó từ việc thưởng. Cho
đến bây giờ, thưởng – phạt là rất cần thiết, để làm được điều này chúng ta cần chú ý
đến các vấn đề như coi trọng hình thức, xét thi đua cũng mang trọng hình thức, lại có
những thực trạng chạy chọt để được danh hiệu thi đua… Việc thưởng gần như là một
phong trào, mà phong trào này chưa thực sự tạo ra sự công bằng mà theo kiểu háo
danh. Còn một thực tế nữa là phạt chưa đủ sức răn đe, khi bị phạt thì người bị phạt
lại tìm các mối quan hệ thân thiết để chạy án… Nếu như chúng ta áp dụng được tư
tưởng trên của Hàn Phi Tử thì rất hữu ích, tuy nhiên cũng phải lưu ý đến những thực
trạng háo danh, chạy chọt…, từ đó xác định rõ mục đích và tính chất của việc
thưởng – phạt. Trong tư tưởng pháp trị luôn dựa vào pháp luật để đòi hỏi một sự
công bằng, và ngày nay chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN cũng không
nằm ngoài mục đích đó. Còn chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN thì
công bằng ở đây mang tính nhân văn hơn nhiều. Vì chúng ta xác định quyền lực là ở
nhân dân lao động chứ không phải là ở ông vua. Vì vậy chúng ta mới phấn đấu để

mọi người dân có quyền ngang nhau từ trên cao xuống thấp theo cái nghĩa là luật ấy
do nhân dân đóng góp soạn thảo ra và ủy thác thẩm định cuối cùng là trong Quốc
hội. Luật pháp mà chúng ta soạn ra là luật phản ánh nguyện vọng của dân nên tất yếu
nó mang giá trị nhân văn và nó thực hiện các quyền con người, quyền công dân lao
động một cách phổ quát chứ không phải thực hiện các quyền vô biên của ông vua
trong thời Hàn Phi Tử.

22


KẾT LUẬN
Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử có nhiều tiến bộ mà có thể áp dụng được,
song cũng có mặt hạn chế nhất định. Từ truyền thống đến ngày nay, vẫn có nhiều
người có lý tưởng cao đẹp, phục vụ người khác mà không vụ lợi. Thế mà, theo quan
điểm của Hàn Phi Tử thì hành động của họ chẳng qua vì cái lợi. Thực sự ông đã bỏ
qua cái giá trị nhân văn của con người và độc tôn pháp luật. Chúng ta xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN là dựa vào dân, chủ quyền tối thượng thuộc về nhân dân.
Phải hiểu được rằng pháp luật không sinh ra quyền con người mà pháp luật chỉ là
công cụ để đảm bảo quyền của con người. Nếu làm khắt khe độc tôn pháp luật thì
chúng ta sẽ làm thui chột các giá trị sáng tạo trong thời đại và tất yếu sẽ gây nên nền
chính trị bất ổn trong đời sống nhân dân.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB lần thứ XI, NXB Chính trị
Quốc gia, 2011.
2. Đỗ Hoàng Toàn, Phan Kim Chiến, Đỗ Thị Hải Hà, Giáo Trình Quản Lý Xã
Hội , NXB Khoa học kỹ thuật, 2006

3. Các hình thức thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta
hiện nay, NCLL – HVCTQGHCM, 02/1999.
4. PGS.TS Đỗ Minh Cương, Các học thuyết quản lý, Nxb. Chính trị quốc gia,
HN. 2004.
5. Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hoá thông tin, H. 1998.
6. Lịch sử tư tưởng Việt nam- PGS Nguyễn Tài Thư chủ biên- Nxb khoa học
xã hội, H. 1993
7. GS.TS Lưu Văn Sùng (Chủ biên), Giáo trình Chính trị học (hệ cao cấp lý
luận), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
8. Tập bài giảng Chính trị học (hệ cử nhân chính trị), Nxb. Lý luận chính trị,
H. 2004.
9. Viện chính trị học, Học viện Chính trị hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,
Tập bài giảng Chính trị học (hệ cao cấp lý luận chính trị), Nxb. Chính trị - Hành
chính, HN. 2010.

24



×