Tải bản đầy đủ (.docx) (151 trang)

NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY MÔN CẦU LÔNG GIỜ NGOẠI KHÓA CHO NỮ SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ KHÁNH HÒA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 151 trang )

1
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ
VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

δx

--------oo0oo--------

HUỲNH THANH HÙNG

“NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH
GIẢNG DẠY MÔN CẦU LÔNG GIỜ NGOẠI KHÓA CHO
NỮ SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ KHÁNH HÒA”

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


2
2
TP. Hồ Chí Minh, năm 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

--------oo0oo--------

HUỲNH THANH HÙNG

“NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH
GIẢNG DẠY MÔN CẦU LÔNG GIỜ NGOẠI KHÓA CHO


NỮ SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ KHÁNH HÒA”

Chuyên ngành
Mã số

: Giáo dục thể chất
: 60140103

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Tiên Tiến


3
3

TP. Hồ Chí Minh, năm 2016


4
4

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết
quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 06 năm 2016
Tác giả


Huỳnh Thanh Hùng


5
5

LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn chân thành của mình, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban
giám hiệu, quý thầy cô giáo cùng toàn thể cán bộ công viên chức trường Đại
Học TDTT thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức lớp cao học 19 và tạo thuận lợi
cho tôi hoàn thành tốt khóa học này.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến quý thầy, cô giảng dạy cho lớp cao học
19, đã dành nhiều tâm huyết để truyền thụ cho chúng tôi những kiến thức
quý báu về công tác giáo dục thể chất, làm tiền đề cho việc nghiên cứu luận
văn này.
Đặc biệt xin cảm ơn sâu sắc đối với thầy hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn
Tiên Tiến, người thầy đã tận tâm hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu trường Cao đẳng Y tế Khánh Hòa đã cho
phép và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được đi học nâng cao trình độ.
Tôi xin cảm ơn đến quý thầy, cô, đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã
giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

năm 2016

Huỳnh Thanh Hùng



6
6

PHỤ LỤC
Trang


7
7

DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

VIẾT TẮT THUẬT NGỮ TIẾNG VIỆT
CĐ Cao đẳng
CL Cầu lông
ĐC Đối chứng
ĐH Đại học
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
GDTC Giáo dục thể chất
GV Giáo viên
HS - SV Học sinh – Sinh viên
LVĐ Lượng vận động
RLTT Rèn luyện thân thể
TDTT Thể dục Thể Thao
TN Thực nghiệm
VĐV Vận động viên


8

8

DANH MỤC CÁC BẢNG
TT BẢNG
Bảng 1.1
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3
Bảng 3.4
Bảng 3.5
Bảng 3.6
Bảng 3.7

TÊN BẢNG
Phân phối nội dung và thời gian học tập trong
chương trình GDTC của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Bảng phân phối thời gian giảng dạy giáo dục thể chất
tại trường Cao đẳng Y tế Khánh Hòa.
So sánh thực trạng phân phối nội dung chương trình
giảng dạy môn học GDTC trường Cao đẳng Y tế
Khánh Hòa với Quy định của Bộ GD & ĐT.
Thực trạng đội ngũ giảng viên TDTT của trường Cao
đẳng Y tế Khánh Hòa giai đoạn 2010 -2014.
Thực trạng cơ sở vật chất của trường Cao đẳng Y tế
Khánh Hòa
Phương pháp giảng dạy của giáo viên giảng dạy môn
GDTC
Sự phối hợp giữa bộ môn GDTC với phòng công tác
học sinh, sinh viên
Sự hứng thú của sinh viên về môn học GDTC


Hiệu quả giờ giảng dạy môn thể dục hiện nay của nhà
trường
Kết quả học tập môn GDTC của nữ sinh viên trường
Bảng 3.9 Cao đẳng Y tế Khánh Hòa giai đoạn 2010 - 2014.
Chỉ số hình thái, chức năng và thể lực của nữ sinh viên
Bảng 3.10 trường Cao đẳng Y tế Khánh Hòa năm học 2014 2015
Kết quả phỏng vấn về việc lựa chọn nội dung giảng
Bảng 3.11 dạy môn Cầu lông ngoại khóa.
Bảng phân phối chương trình Giảng dạy môn cầu
Bảng 3.12 lông ngoại khóa
Bảng 3.8

Bảng phân phối chương trình giảng dạy môn Cầu
Bảng 3.13 lông ngoại khóa
Tiến trình biểu giảng dạy môn Cầu lông ngoại khóa
Bảng 3.14 cho nữ SV trường Cao đẳng Y tế Khánh Hòa

Trang
21

62
63
65
66
67
68
71

73


77

85

86


9
9

Thực trạng thể lực của nữ sinh viên Trường Cao
Bảng 3.15 đẳng Y tế Khánh Hòa trước xây dựng chương trình.
Bảng 3.16

Bảng 3.17
Bảng 3.18
Bảng 3.19

Đánh giá sự phát triển hình thái, chức năng và thể lực
của cho nữ sinh viên trường Cao đẳng Y tế Khánh
Hòa nhóm thực nghiệm sau thực nghiệm.
Đánh giá sự phát triển hình thái, chức năng và thể lực
của cho nữ sinh viên trường Cao đẳng Y tế Khánh
Hòa nhóm đối chứng sau thực nghiệm.
Kết quả so sánh thể chất 2 nhóm thực nghiệm và
nhóm đối chứng.
Kết quả so sánh giá trị trung bình của nhóm thực
nghiệm với tiêu chuẩn thể lực của sinh viên lứa tuổi 18
-20


101


10
10

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ

TT

TÊN BIỂU ĐỒ

Tran
g

Hình 2.1

Test chạy 30m xuất phát cao (giây)

Hình 2.2

Test chạy con thoi 4 x 10m (giây)

Hình 2.3

Test bật xa tại chỗ (cm)

46


Hình 2.4

Test chạy 5 phút tùy sức (m)

47

Biểu đồ
3.1

Kết quả học tập môn GDTC của nữ sinh viên trường
Cao đẳng Y tế Khánh Hòa giai đoạn 2010 - 2014.

Biểu đồ
3.2

Thực trạng thể lực của nữ sinh viên Trường Cao đẳng
Y tế Khánh Hòa

Biểu đồ
3.3

Sự phát triển hình thái, chức năng, thể lực của nữ sinh
viên nhóm thực nghiệm sau thực nghiệm.

104

Biểu đồ
3.4

Sự phát triển hình thái, chức năng, thể lực của nữ sinh

viên nhóm đối chứng sau thực nghiệm.

109

Biểu đồ
3.5

Kết quả so sánh sự phát triển về hình thái, chức năng và
thể lực của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng.

112

72


11

PHẦN MỞ ĐẦU
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Đảng và Nhà
nước ta luôn coi trọng vị trí của công tác giáo dục thể chất (GDTC) đối với thế
hệ trẻ. Đây là một chủ trương đúng đắn có ý nghĩa chiến lược của Đảng ta vì
công tác GDTC và hoạt động TDTT trong nhà trường là một mặt giáo dục quan
trọng không thể thiếu trong sự nghiệp GD&ĐT góp phần thực hiện mục tiêu:
Bồi dưỡng và phát triển toàn diện thế hệ trẻ Việt Nam, chủ nhân tương lai của
đất nước trở thành những con người phát triển hài hòa về các mặt thể chất, tinh
thần, trí tuệ và đạo đức đáp ứng yêu cầu xu hướng phát triển của đất nước.
Hệ thống GDTC trong các trường đại học là một bộ phận hữu cơ của hệ
thống GD&ĐT Việt Nam. Mục đích của GDTC là củng cố và tăng cường sức
khỏe, phát triển năng lực thể chất của con người, hình thành và hoàn thiện các
kỹ năng vận động để chuẩn bị sẵn sàng xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong

chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước theo định hướng XHCN, sức
khỏe con người là vốn quý. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vị trí của
công tác GDTC nhằm bồi dưỡng, nâng cao sức khỏe đối với thế hệ trẻ và xem
đó là động lực quan trọng, cần phải có chính sách chăm sóc GD&ĐT thế hệ
trẻ Việt Nam phát triển hài hòa về mặt thể chất, tinh thần, trí tuệ và đạo đức.
Công tác GDTC và hoạt động TDTT trong các trường đại học, là một mặt
giáo dục quan trọng trong sự nghiệp GD&ĐT, để góp phần thực hiện mục
tiêu: Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài cho đất nước để
đáp ứng nhu cầu đổi mới sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
GDTC trong trường học là thực hiện mục tiêu phát triển thể chất cho học sinh,
sinh viên, nhằm góp phần vào việc đào tạo con người phát triển toàn diện,
nâng cao thể lực, giáo dục nhân cách đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong
phú đời sống văn hóa tinh thần trong sinh viên. Thế hệ học sinh, sinh viên, là


12

những người chủ tương lai của đất nước, nên sứ mệnh lịch sử tương lai của dân
tộc đều trông mong vào thế hệ này. Sinh viên Việt Nam ngày nay đang được
sống và học tập dưới một chế độ ưu việt - chế độ XHCN và được thừa hưởng
những thành tựu vĩ đại của cha ông ta để lại trong sự nghiệp chiến đấu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm chăm sóc.
Trong Di chúc của Hồ Chủ Tịch, Người đã căn dặn: "Bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và cần thiết". Thấm nhuần lời
dạy của Người, thế hệ trẻ Việt Nam trong đó có lực lượng sinh viên đang ra sức
thi đua học tập, rèn luyện để đạt được trình độ giáo dục chính trị, văn hóa cao,
có sức khỏe vững vàng chuẩn bị tốt về thể lực, phát triển ngày càng cao các
phẩm chất đạo đức và ý chí để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay, các trường Đại học - Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp
đều có xu hướng phát triển về qui mô và đa dạng hóa các loại hình đào tạo.

Với sự phát triển mạnh mẽ về số lượng sinh viên như hiện nay, vấn đề đảm
bảo chất lượng giáo dục (trong đó có GDTC) đang là thử thách lớn. Mặc dù,
công tác GDTC đã được các cấp lãnh đạo hết sức quan tâm, như một số
trường đã được đầu tư xây dựng những công trình TDTT mới, rất lớn và hiện
đại để phục vụ tốt cho công tác giảng dạy nội khóa, hoạt động ngoại khóa và
phong trào thể thao của sinh viên. Song, trong thực tế công tác GDTC và
TDTT học đường ở nhiều trường Đại học - Cao đẳng còn có những hạn chế
chưa đáp ứng được yêu cầu mục tiêu GD&ĐT đề ra. Về thực trạng của công
tác GDTC hiện nay, Bộ GD&ĐT đã nhận định: "Chất lượng GDTC còn thấp,
giờ dạy còn đơn điệu, thiếu sinh động". Nhận thức về vị trí, vai trò của GDTC
còn nhiều hạn chế trong các cấp giáo dục và cơ sở trường. Đặc biệt làviệc
đánh giá về sức khỏe và thể chất sinh viên hiện nay, chủ yếu dựa vào kết quả
từng học phần hoặc môn học, bằng cách cho điểm theo tiêu chuẩn của Bộ
GD&ĐT ban hành. Do vậy, chỉ đánh giá được một giai đoạn ngắn trong 3


13

năm học, mà chưa đánh giá được sức khỏe và sự phát triển thể chất của sinh
viên trong suốt quá trình đào tạo.
Mặt khác, việc chuẩn bị thể lực cho sinh viên có vai trò quyết định
trong tiếp thu và hình thành kỹ thuật động tác, cũng như kỹ năng thực hành
trong các môn thể thao. Từ đó cho thấy cần thiết phải có những bài tập phù
hợp để kịp thời nâng cao thể lực và phát triển thể chất cho sinh viên.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, trong nhiều năm qua
Đảng và Nhànước ta luôn luôn quan tâm đến việc phát triển GDTC trong
trường học và xác định đầu tư cho TDTT là đầu tư cho con người, cho sự phát
triển của đất nước. Chiến lược phát triển TDTTViệt Nam đến năm 2020 nêu
rõ :“Mục tiêu của Chiến lược phát triển TDTT Việt Nam đến năm 2020 nhằm
xây dựng và phát triển nền TDTT nước nhà để nâng cao sức khỏe nhân dân,

góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tăng tuổi thọ của người Việt Nam theo
tinh thần vì sự nghiệp dân cường, nước thịnh, hội nhập và phát triển”
Chấp hành, quán triệt tư tưởng của Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ
Chính trị, Bộ GD&ĐT đã có những biện pháp đổi mới nội dung chương trình
GDTC. Qua đó định hướng các tiêu chí đánh giá về giảng dạy, học tập môn
GDTC bao gồm những mặt sau : kiến thức, kỹ năng và sức khỏe.
Trong những năm qua, ngành GD&ĐT đã có nhiều cố gắng trong công
tác GDTC. Song trên thực tế, công tác GDTC tại các trường Đại học và Cao
đẳng còn chuyển biến chậm và gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện
những định hướng và giải pháp trên. Còn có nhiều trường chưa mạnh dạn cải
tiến nội chương trình và phương pháp giảng dạy (vốn đã lạc hậu, cứng nhắc,
không sai về kỹ thuật nhưng gây cho giáo viên và sinh viên nhàm chán), một
phần do những điều kiện chưa đảm bảo, chưa khắc phục triệt để. Đội ngũ giáo
viên còn thiếu về số lượng, chất lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ


14

GDTC và TDTT, cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và phong trào TDTT
còn nhiều hạn chế.
Trước tình hình trên, ban lãnh đạo trường đã yêu cầu bộ môn GDTC
cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học. Yêu cầu đưa ra được nội dung
chương trình giảng dạy môn Cầu lông giờ ngoại khóa cho nữ sinh viên nhằm
đáp ứng được nhu cầu tập luyện, cũng như tạo điều kiện cho các em sinh viên
hứng thú trong quá trình học tập. Từ đó điều chỉnh nội dung, phương pháp
giảng dạy cho phù hợp, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác GDTC của
nhà trường hiện nay. Nhưng cho tới nay, ở trường Cao đẳng Y tế Khánh Hòa
vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào về mảng đề tài này. Xuất phát từ
những yêu cầu thực tế đó, tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu xây dựng

chương trình giảng dạy môn Cầu lông giờ ngoại khóa cho nữ sinh viên
trường Cao Đẳng Y Tế Khánh Hòa”
Mục đích nghiên cứu:
Nhằm xây dựng chương trình giảng dạy môn Cầu lông giờ ngoại khóa
cho nữ sinh viên tại trường Cao đẳng Y tế Khánh Hòa, góp phần nâng cao
hiệu quả học tập và rèn luyện thể chất cho sinh viên.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài giải quyết 3 nhiệm vụ sau:
1. Đánh giá thực trạng công tác giáo dục thể chất trường Cao đẳng Y tế
Khánh Hòa giai đoạn 2010 - 2014.
2. Xây dựng và ứng dụng chương trình giảng dạy môn Cầu lông cho nữ
sinh viên Trường Cao đẳng Y tế Khánh Hòa qua một năm học 2015 - 2016.
3. Đánh giá hiệu quả việc ứng dụng thực nghiệm chương trình giảng
dạy môn Cầu lông tại trường Cao đẳng Y tế Khánh Hòa năm học 2015 - 2016.


15

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác GDTC.
Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của vai trò sức khoẻ con người
đối với vận mệnh đất nước, cũng như đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc, xây dựng Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam đã luôn chú trọng đến việc tăng cường, mở rộng các hoạt động TDTT và
đặc biệt là công tác GDTC cho thanh niên.
Trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục của Bác vào tháng 3 năm 1946,
Bác đã chỉ rõ “… Mỗi người dân khỏe mạnh tức là góp phần làm cho cả nước
mạnh khỏe, mỗi người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần,
dân cường nước thịnh. Tự tôi ngày nào cũng tập”[37].

Ngày 31/3/1960, Bác Hồ tự tay viết thư gửi Hội nghị cán bộ TDTT
toàn miền Bắc. Trong thư, người dạy: “Muốn lao động sản xuất tốt, công tác
và học tập tốt thì cần có sức khỏe. Muốn có sức khỏe thì nên thường xuyên
tập luyện thể dục thể thao. Vì vậy, chúng ta nên phát triển phong trào thể dục
thể thao cho rộng khắp”. Đồng thời, Bác cũng căn dặn: “Cán bộ thể dục thể
thao phải học tập chính trị, nghiên cứu nghiệp vụ và hăng hái công tác”
nhằm phục vụ sức khỏe cho nhân dân. Về vị trí TDTT trong xã hội, Bác Hồ
khẳng định “là một công tác trong những công tác cách mạng khác” [36]. Vì
vậy, việc chăm lo cho công tác giáo dục thể chất trong trường học là một việc
làm có tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp giáo dục đào tạo, nhằm chuẩn
bị con người cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong chỉ thị của Ban bí thư Trung ương Đảng số 169/CT.TW ngày
14/12/1969 ghi rõ:“Trường phổ thông cần có các biện pháp tích cực để nâng
cao chất lượng giáo dục lên một bước nhằm vào 3 mặt: tư tưởng đạo đức,


16

kiến thức văn hoá và sức khỏe … tăng cường rèn luyện thân thể và công tác
vệ sinh phòng bệnh trong trường học, đảm bảo từng bước giữ gìn và nâng
cao sức khoẻ học sinh” [6].
Hiến pháp Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam quy định tại
điều 41 năm 1992 “Nhà nước và xã hội phát triển nền TDTT dân tộc, khoa
học và nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp TDTT, quy định chế
độ GDTC bắt buộc trong trường học, khuyến khích và giúp đỡ phát triển các
hình thức TDTT tự nguyện của nhân dân, tạo các điều kiện cần thiết để không
ngừng mở rộng các hoạt động TDTT quần chúng, chú trọng hoạt động thể
thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài năng thể thao” [7].
Ngày 7/3/1995, Thủ tướng Chính Phủ ban hành Chỉ thị 133/TTg về
việc xây dựng và quy hoạch phát triển ngành TDTT và Giáo dục đào tạo. Về

GDTC trong trường học, Chỉ thị nêu rõ: “... Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đặt
biệt coi trọng việc GDTC trong nhà trường, cải tiến nội dung giảng dạy
TDTT nội khóa, ngoại khóa, quy định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho học
sinh ở các cấp học, có quy chế bắt buộc đối với công tác GDTC trong nhà
trường” [4].
Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII năm 1996 đã
khẳng định:“... Giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ phải thực
sự trở thành quốc sách hàng đầu … chuẩn bị tốt hành trang cho thế hệ trẻ
bước vào thế kỷ 21 …” Đồng thời, Đảng cũng khẳng định:“Sự cường tráng
về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quí để tạo ra
tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội, chăm lo cho con người về thể chất là
trách nhiệm của toàn xã hội, của các cấp, các ngành, các đoàn thể …” [6].
Để cụ thể hóa các văn bản pháp luật có tính định hướng và chỉ đạo nói
trên, Bộ Giáo dục Đào tạo đã ban hành “Quy chế giáo dục thể chất trong nhà
trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân” [2], trong đó chỉ rõ:


17

- Giáo dục thể chất là nội dung bắt buộc đối với học sinh, sinh viên,
được thực hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân, từ mầm non đến đại học.
GDTC là một bộ phận quan trọng để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện,
góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Nhiệm vụ của GDTC là hình thành ở thế hệ trẻ nếp sống lành mạnh,
có tri thức, kỹ năng và phương pháp giữ gìn sức khỏe, phát triển thể lực, góp
phần thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo.
- Ngành giáo dục đào tạo phối hợp với ngành TDTT, y tế và các ngành
có liên quan, tạo điều kiện để tất cả các học sinh, sinh viên được học tập và
tham gia các hoạt động TDTT, tham gia các giải thi đấu thể thao.

Nội dung của hoạt động thể chất bao gồm: dạy và học môn thể dục nội
khóa, hoạt động TDTT trong và ngoài nhà trường, tổ chức các hoạt động
ngoại khóa để bảo vệ và tăng cường sức khỏe, vệ sinh cá nhân, môi trường và
dinh dưỡng.
Dạy và học môn thể dục là hình thức GDTC cơ bản trong nhà trường,
được tiến hành chủ yếu bằng giờ học nội khóa. Nhà trường phải đảm bảo dạy
đúng, đủ nội dung và thời gian môn học theo quy định của Bộ. Nội dung
chương trình GDTC nội khóa gồm phần bắt buộc và phần tự chọn. Phần tự
chọn bao gồm các môn thể thao phù hợp với điều kiện từng trường.
Hoạt động ngoại khóa về TDTT bao gồm các hình thức: tự tập luyện,
tập luyện có hướng dẫn, tập luyện trong và ngoài nhà trường, trong các CLB
thể thao trường học.
Tóm lại, qua những chỉ thị và Nghị quyết trên cho thấy: Đảng và Nhà
nước rất coi trọng việc tăng cường sức khỏe cho nhân dân, nhất là đối với
tầng lớp học sinh, sinh viên. Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước


18

của thời đại hiện nay, việc giáo dục và phát triển thể chất là một trong những
biện pháp tích cực nhất góp phần tăng cường và bảo vệ sức khỏe.
1.1.1. Mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung GDTC trong trường Đại học,
cao đẳng.
Nâng cao năng lực thể lực và sức khỏe cho học sinh, sinh viên là một
trong những mục tiêu chiến lược của Đảng, Nhà nước, của ngành Giáo dục và
Đào tạo nước ta trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn
diện ở tất cả các bậc học, nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước thì nhất thiết phải coi công tác Giáo dục thể chất trong trường học.
Đặc biệt là khối đại học, cao đẳng chuyên nghiệp vì sinh viên là những nhân
tố lực lượng nồng cốt để phát triển đất nước.

Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán: Về mục tiêu công tác giáo dục
thể chất và thể thao trường học nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo đội
ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế và văn hóa xã hội, phát triển hài
hòa, có thể chất cường tráng, đáp ứng yêu cầu chuyên môn, nghề nghiệp và có
khả năng tiếp cận với thực tiễn lao động sản xuất của nền kinh tế thị trường
theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa [20].
Căn cứ vào mục tiêu nêu trên, giáo dục thể chất và thể thao trong
trường học phải giải quyết ba nhiệm vụ:
- Góp phần giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa, rèn luyện tinh thần tập
thể, ý thức tổ chức kỷ luật, xây dựng niềm tin, lối sống lành mạnh, tinh thần
tự giác rèn luyện thân thể, sẵn sàng phục vụ lao động sản xuất và bảo vệ
Nước nhà.
- Cung cấp cho sinh viên những kiến thức lý luận cơ bản về nội dung
và phương pháp tập luyện thể dục thể thao, kỹ năng vận động và kỹ thuật cơ
bản một số môn thể thao thích hợp. Trên cơ sở đó, bồi dưỡng khả năng sử
dụng các phương tiện để rèn luyện thân thể, tham gia tích cực vào việc tuyên


19

truyền và tổ chức các hoạt động thể dục thể thao của nhà trường và xã hội.
Góp phần duy trì và cũng cố sức khỏe, nâng cao trình độ thể lực cho sinh
viên, phát triển cơ thể hài hòa, cân đối, rèn luyện thân thể, đạt những tiêu
chuẩn thể lực quy định.
- Có thể thấy rằng, một trong những nhiệm vụ cơ bản quan trọng của
giáo dục thể chất là không ngừng nâng cao sức khỏe, nâng cao trình độ chuẩn
bị thể lực cho sinh viên, Noovicop A.D; MatsVeep L.P (1993); khẳng định:
“…thể lực còn là một trong những nhân tố quan trọng nhất, quyết định hiệu
quả hoạt động của con người, trong đó những đặc điểm cơ bản, nổi bật của
quá trình giáo dục thể chất”.

Nội dung chương trình; Quán triệt sâu sắc nội dung các nghị quyết, chỉ
thị của Đảng, Hiến pháp nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam, các văn bản pháp
luật của chính phủ về công tác TDTT trong tình hình mới, cũng tiếp tục khẳng
định, cần phải khắc phục thực trạng giảm sút thể lực của sinh viên hiện nay.
Hai ngành Giáo dục - Đào tạo và TDTT đã thống nhất những nội dung, biện
pháp và hợp đồng trách nhiệm chỉ đạo, nhằm thúc đẩy nhanh và nâng cao chất
lượng GDTC cho sinh viên: “Hai ngành nhất trí xây dựng chương trình mục
tiêu, cải tiến nâng cao chất lượng GDTC”.
Với nội dung phối hợp giữa hai ngành, Bộ GD & ĐT đã chỉ đạo các
cấp giảng dạy thể dục nội khóa, theo chương trình kế hoạch có nề nếp, đảm
bảo thực hiện nghiêm túc các quy phạm đánh giá quá trình dạy – học thể dục,
quy chế GDTC sinh viên. Nghiên cứu và điều chỉnh chương trình thể dục các
cấp, thực hiện kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho sinh viên. Từng
bước áp dụng thống nhất giữa các vùng, khu vực trên toàn quốc. Điều chỉnh
và ban hành tài liệu giảng dạy, sách giáo khoa cho từng cấp. Đảm bảo cơ sở
vật chất tối thiểu để phục vụ việc thực hiện chương trình ngoại khóa, phát
động phong trào rộng khắp trong nhà trường với mục tiêu: “Mỗi sinh viên biết


20

chơi một môn thể thao”, chỉ đạo và cải tiến chương trình hình thức hoạt động
TDTT ngoại khóa, mở rộng mạng lưới câu lạc bộ TDTT sinh viên. Tập trung
hỗ trợ về cán bộ, cơ sở vật chất để cũng cố, thành lập câu lạc bộ TDTT mới,
thu hút nhiều sinh viên tham gia tập luyện.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành quy chế số 931/RLTC ngày
29/04/1993 về công tác GDTC trong nhà trường [9] là: “Các trường từ Mầm
non đến Đại học phải đảm bảo thực hiện dạy môn thể dục theo quy định cho
học sinh, sinh viên”. GDTC bao gồm nhiều hình thức có liên quan chặt chẽ
với nhau. Giờ học thể dục, tập luyện thể thao theo chương trình, giờ tự tập của

học sinh, sinh viên, giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường. Chương trình thể
dục và các hình thức GDTC khác được sắp xếp phù hợp với trình độ sức
khỏe, giới tính và lứa tuổi. Hàng năm, sinh viên tự tập luyện thể thao ngoại
khóa ở trường, ở nhà. Nhà trường phải có kế hoạch hướng dẫn học sinh, sinh
viên tập luyện thường xuyên, tổ chức các ngày hội thể thao của trường và xây
dựng thành nề nếp truyền thống “Kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo
lứa tuổi và chỉ tiêu phát triển thể lực cho học sinh, sinh viên theo quy định
của chương trình GDTC”.
1.1.2. Chương trình GDTC bậc Đại học và Cao đẳng ở Việt Nam.
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình GDTC trong các trường
học theo quyết định số 203/QT – TDTT, ngày 23/1/1989, quyết định
3244/GT-DT ngày 12/01/1995 và số 1262/GT-ĐT ngày 12/04/1997. Sau khi
hoàn thành chương trình GDTC, các trường cần tổ chức cấp chứng chỉ sinh
viên theo đúng quy định tại chương 2, điều 1, khoản 1 của quy chế GD-ĐT số
14/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 3/5/2001. Nội dung khái quát như sau [1]:
Chương trình GDTC cho hệ Đại học gồm 150 tiết, với 5 học phần,
tương ứng với 5 đơn vị học trình TDTT. Mỗi đơn vị học trình TDTT được học


21

trong một học kỳ, như vậy, chương trình GDTC được tiến hành trong hai năm
rưỡi đầu của chương trình học tập.
Chương trình GDTC cho hệ cao đẳng gồm 90 tiết và chia hai phần:
Phần lý thuyết 12 tiết, phần thực hành 78 tiết. Phần lý luận, được học xen kẽ
vào trong các học kỳ của giai đoạn 1. Phần thực hành, ngoài kiểm tra kỹ chiến
thuật, còn phải kiểm tra lý thuyết của môn học.
Cuối mỗi năm học, ngoài kiểm tra lý thuyết, kỹ chiến thuật môn thể
thao đã học, sinh viên phải kiểm tra theo quy định của Bộ hay tiêu chuẩn của
trường. Sinh viên tích lũy điểm của 3 học phần, trong đó có điểm “đạt” tiêu

chuẩn rèn luyện thân thể (RLTT) mới được cấp chứng chỉ môn học.
Ngoại khóa là nội dung học tập bắt buộc của chương trình GDTC cho
sinh viên và được cán bộ giảng dạy TDTT quản lý.
Có thể tóm lược chương trình GDTC trong các trường Cao đẳng hiện nay
qua phân bổ thời gian (khung chương trình) cho các nội dung học tập như sau:
Bảng 1.1. Phân phối nội dung và thời gian học tập trong chương trình
GDTC của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
TT
1

2

3

Nội dung
Lý luận
Thực hành
- Thể dục
- Điền kinh
- Các môn thể thao tự chọn
Cộng
Ngoại khóa

Tổng số
giờ

I

Năm học
II


20
24

24

III

12
78

90
120

44
30

24
30

10
10
30

Có thể nhận thấy: nội dung học tập chính khóa phong phú, song thời
gian học 2 tiết thể dục/một tuần lại quá ít, do đó, muốn đạt hiệu quả cao, cần
phải phối hợp tốt các hình thức GDTC với nhau, đặc biệt cần có nhiều biện
pháp hiệu quả GDTC ngoại khóa để nâng cao sức khỏe cho sinh viên.



22

1.1.3. Giáo dục thể chất đối với sinh viên.
GDTC là một quá trình sư phạm nhằm hoàn thiện về mặt thể chất và
chức năng của cơ thể con người, nhằm hình thành và củng cố những kỹ năng
kỹ xảo vận động cơ bản trong đời sống, trong lao động. GDTC là một bộ
phận của TDTT, là một trong những hình thái hoạt động cơ bản của định
hướng rõ của TDTT trong xã hội. Hay cụ thể nói cách khác GDTC là loại
hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học vận động và phát triển có
chủ định các tố chất thể lực của con người.
TDTT là một bộ phận của nền văn hóa xã hội, một loại hình hoạt động
mà phương tiện cơ bản là các bài tập thể lực (thể hiện cụ thể qua cách thức
rèn luyện thân thể) nhằm tăng cường thể chất cho con người, nâng cao thành
tích thể thao, góp phần làm phong phú sinh hoạt văn hóa và giáo dục con
người phát triển cân đối hợp lý.
GDTC và thể thao trường học duy trì và cũng cố sức khỏe, nâng cao
trình độ thể lực sinh viên, rèn luyện thân thể để đạt được tiêu chuẩn thể lực
theo quy định. Trang bị cho sinh viên kiến thức lý luận cơ bản về những nội
dung, phương pháp tập luyện TDTT, kỹ năng vận động và kỹ thuật động tác
cơ bản một số môn thể thao. Rèn luyện cho sinh viên có ý thức tổ chức kỷ
luật, tinh thần tập thể, xây dựng lối sống lành mạnh, tinh thần tự giác rèn
luyện thân thể. Đồng thời, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các trường xây dựng
và rèn luyện phong trào thể thao mạnh mẽ và sâu rộng: “Thực hiện GDTC
trong tất cả các trường học, làm cho việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống
hằng ngày của hầu hết sinh viên…” [31, tr 420].
GDTC trong các trường đại học góp phần quan trọng trong việc “nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài…”[31], xây dựng những
lớp người chủ nhân tương lai cho đất nước.



23

Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nền TDTT nước nhà ngày
càng một phát triển mạnh sâu rộng, đã đạt được một số thứ hạng cao trong
khu vực và một số môn thể thao đã đạt được thành tích thế giới. Trong đó, coi
trọng công tác GDTC, coi như là một mặt trong mục tiêu giáo dục con người
phát triển toàn diện, nhằm phát triển và bồi dưỡng những tài năng thể thao
còn tiềm ẩn của đất nước.
Vì vậy, Bác Hồ khẳng định “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây
đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe… Dân cường thì nước thịnh…”.
Bác còn căn dặn: “Phải biết quý trọng sức người, là vốn quý nhất của
ta”.[13].
Trong những năm gần nay, ngành Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều đổi
mới về công tác GDTC và đã đạt được nhiều kết quả trên lãnh vực GDTC,
sức khỏe và y tế học đường. Hội nghị khoa học GDTC, sức khỏe ngành Giáo
dục – Đào tạo lần II tháng 5/1988 tại trường đại học Kinh Tế Quốc dân Hà
Nội lần III năm 2001 tại trường Đại học sư phạm TDTT I Hà Tây,… đã phản
ánh khá đầy đủ toàn diện các mặt trong việc tổ chức, chỉ đạo công tác GDTC,
sức khỏe và y tế học đường. Xác định rõ vị trí, vai trò công tác GDTC, sức
khỏe và thể thao ở các trường đại học trong mục tiêu giáo dục và đào tạo, cải
tiến nội dung và phương pháp GDTC, nghiên cứu những điều kiện đảm bảo
cho các hoạt động TDTT phát triển đồng bộ.
Muốn có sức khỏe tốt, đòi hỏi mỗi người phải tự giác tích cực rèn luyện
tập luyện để cơ thể phát triển một cách hài hòa, cân đối và toàn diện, vì “Sức
khỏe là cơ sở vật chất của sự tồn tại và phát triển con người, là nguồn hạnh
phúc của mỗi cá nhân trong cuộc sống, là cơ sở trong giữ gìn, xây dựng và
bảo vệ tổ quốc của cả một dân tộc” [13]. Giữ gìn và nâng cao sức khỏe cho
nhân dân không chỉ là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, mà còn được Bác
Hồ xác định “Đó là bổn phận của mỗi người dân yêu nước” [13].



24

Trên cơ sở tư tưởng đó, GDTC đối với các sinh viên là một việc không
thể thiếu được trong công tác giáo dục và đào tạo. Sức khỏe được coi như là
một vốn quý nhất của con người, là tài sản vô giá của quốc gia. Nhà nước đặt
công tác TDTT là ngang hàng với những công tác cách mạng khác.
1.1.4. Giáo dục thể chất ở một số nước
Bên cạnh sự khác biệt do truyền thống lịch sử và do cơ cấu quản lý Nhà
nước và xã hội, chương trình giáo dục thể chất (GDTC) trong trường học ở
nhiều nước có những yếu tố cấu trúc và tổ chức tương tự.
Nội dung chương trình thường bao gồm:
Các bài tập phát triển chung, các môn bóng, trò chơi vận động, bơi….
Gần đây các bài tập thể dục và nhảy múa cũng được phổ biến.
Giờ học lý thuyết riêng được đưa vào chương trình không chỉ nhằm bồi
dưỡng kiến thức mà còn giáo dục sự ham thích, tính tự giác và kiên trì đối với
tập luyện.
Thi đấu thể thao được các nhà khoa học coi là một trong yếu tố quan
trọng của hệ thống giáo dục thể chất.
Số giờ học thể dục ở mỗi nước khác nhau, nói chung quy định khoảng
3 – 4 giờ/tuần. Nhưng trong một số trường hợp, giáo viên có thể tự quy định
số giờ học và thời gian mỗi buổi học.
Sức khỏe là vốn quý của con người và con người là vốn quý của xã hội.
Chăm lo cho con người, đầu tư cho con người thông qua công tác GDTC là
chiến lược của mỗi một quốc gia trên thế giới [31]. Nhằm so sánh với công
tác GDTC ở nước ta, chúng tôi khái lược lại nội dung, hình thức và phương
pháp tổ chức giáo dục thể chất một số nước có nền GDTC tiên tiến trên thế
giới [24].



25

Giáo dục thể chất ở Liên Xô (trước đây)
Giáo dục thể chất trong trường đại học được thực hiện theo “Chương
trình phức hợp về giáo dục thể chất”.
Nhiệm vụ chủ yếu của chương trình:
- Giảng dạy những kỹ năng, kỹ xảo vận động quan trọng trong cuộc
sống và ứng dụng chúng trong thực tiễn.
- Tăng cường sức khỏe, phát triển các tố chất thể lực chủ yếu.
- Trang bị những kiến thức về vệ sinh TDTT, y học TDTT, xã hội học
TDTT… với mục đích nâng cao ý thức gìn giữ và chăm sóc sức khỏe sẵn
sàng lao động, bảo vệ tổ quốc, góp phần hình thành phẩm chất đạo đức lối
sống, niềm tin, hình thành thói quen rèn luyện thân thể hằng ngày.
Nội dung chương trình phức hợp gồm 4 phần:
-

Phần 1: quy định các hoạt động TDTT trong chế độ sinh hoạt hằng
ngày ở trường: Thể dục trước giờ học, phút thể dục trong tiết học, bài tập và

-

trò chơi trong giờ hành chính.
Phần 2: Quy định các tiết học TDTT cốt lõi của chương trình phức hợp,
hình thức cơ bản của GDTC. Nhiệm vụ chủ yếu là nâng cao thể lực, bồi
dưỡng kỹ năng, kiến thức, hình thành năng lực tổ chức tập luyện và tự tập

-

luyện, tạo tiền đề cho hình thức tập luyện ngoài giờ học.
Phần 3: Hình thức tập luyện ngoài trời học dựa trên tính tự quản của


-

học sinh, dưới sự chỉ đạo của giáo viên.
Phần 4: Quy định các hình thức hoạt động TDTT quần chúng toàn
trường.
Đánh giá hiệu quả GDTC: Bằng việc đánh giá kết quả môn học thể dục
và thể thao, đánh giá mức độ hoàn thành tiêu chuẩn RLTT.
Giáo dục thể chất ở Hoa Kỳ.
Ở Hoa Kỳ, không có chương trình GDTT thống nhất, các Bang, các
trường học được tự do xác định nội dung GDTC cho phù hợp với điều kiện


×