Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VIỆC THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG CỦA CÁC HỘ KINH DOANH CÁ THỂ TRÊN ĐỊA BÀN CỦA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.72 KB, 36 trang )

THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VIỆC
THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG CỦA CÁC HỘ KINH
DOANH CÁ THỂ TRÊN ĐỊA BÀN CỦA
CHI CỤC.
2.1. Khái quát chung về thuế GTGT và sự cần thiết phải quản lý việc
thực hiện luật thuế GTGT của các hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn
quận Hoàn Kiếm.
2.1.1. Khái quát chung về thuế giá trị gia tăng.
2.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế giá trị gia tăng.
Khái niệm: Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của
hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất đến tiêu dùng.
Thuế GTGT được áp dụng lần đầu tiên ở Pháp vào năm 1954, sau đó
một số nước Châu Âu khác cũng chuyển sang áp dụng loại thuế này và lần
lượt tiếp theo là nước Châu Mỹ la tinh và các nước Châu Á. Đến nay, trên
thế giới đã có khoảng 130 nước áp dụng thuế GTGT.
Ở Việt Nam, thuế GTGT được nghiên cứu từ năm 1990 và được áp
dụng thử nghiệm ở một số đơn vị thuộc ngành dệt, đường, xi măng từ năm
1993. Năm 1997, Luật thuế GTGT đầu tiên ở Việt Nam được thông qua thay
thế cho thuế doanh thu. Luật này chính thức áp dụng ở Việt Nam từ năm
1999.
Đặc điểm thuế GTGT :
Là thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ
nhằm động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng khi họ tiêu dùng
hàng hóa, dịch vụ chịu thuế.
Thuế GTGT đánh vào tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ từ sản xuất,
nhập khẩu, lưu thông tới tiêu dùng nhưng chỉ có tính trên phần gia tăng thêm
của hàng hóa.
Trong đó, giá trị gia tăng là phần giá trị mới được tạo ra trong sản xuất kinh
doanh, nó được xác định bằng chênh lệch giữa tổng giá trị sản xuất và tiêu
thụ với tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào tương ứng. Tổng số thuế thu
được ở các giai đoạn sẽ bằng với số thuế tính theo giá bán cho người tiêu


dùng cuối cùng.
Thuế GTGT có tính trung lập kinh tế cao, không chịu ảnh hưởng bởi
kết quả kinh doanh của người nộp thuế, là khoản được cộng thêm vào giá
bán của người cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
Thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia
các chu kỳ kinh tế nhiều hay ít nghĩa là tổng số thuế thu được ở các giai
đoạnh bằng số thuế tính theo giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
2.1.1.2. Nội dung cơ bản của thuế GTGT.
2.1.1.2.1. Phạm vi áp dụng thuế GTGT.
Đối tượng chịu thuế : Theo quy định hiện hành, đối tượng chịu thuế
GTGT là hàng hóa, dịch vụ sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng ở Việt Nam (bao
gồm cả hàng hóa, dịch vụ mua của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài) như:
- Hàng hóa, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng trong nước.
- Hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu để tiêu dùng trong nước.
- Hàng hóa, dịch vụ sản xuất được tiêu dùng nội bộ ( sản xuất điện,
dùng một phần điện đó cho hoạt động của chính công ty).
- Hàng hóa, dịch vụ được mua bán dưới mọi hình thức, bao gồm cả
trao đổi bằng hiện vật.
Đối tượng nộp thuế : Các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt Nam, không phân biệt
ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh và tổ chức, cá nhân khác có nhập
khẩu hàng hóa, mua dịch vụ từ nước ngoài chịu thuế GTGT( gọi chung là
người nhập khẩu) đều là đối tượng nộp thuế GTGT.
Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bao gồm:
- Các tổ chức kinh doanh được thành lập và đăng ký kinh doanh theo
Luật Doanh nghiệp nhà nước( nay là Luật Doanh nghiệp) và Luật Hợp tác
xã.
- Các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ
chức sự nghiệp và các tổ chức khác.

- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên bước ngoài tham
gia hợp tác kinh doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (nay là
Luật đầu từ); các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt
Nam nhưng không thành lập pháp nhân ở Việt Nam.
- Cá nhân, hộ gia đình, nhóm người kinh doanh độc lập và các đối
tượng kinh doanh khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh nhập khẩu.
2.1.1.2.3. Phương pháp tính thuế GTGT.
Giá tính thuế : Theo quy định của Luật thuế GTGT, giá tính thuế
GTGT được quy định khác nhau tùy theo đối tượng chịu thuế là hàng hóa
nhập khẩu hay sản xuất trong nước ( hàng xuất khẩu có thuế suất thuế GTGT
là 0%).
Đối với hàng nhập khẩu, giá tính thuế là giá trị gia tăng là giá tính
thuế hàng hóa nhập khẩu cộng thuế nhập khẩu (nếu có), cộng thuế tiêu thụ
đặc biệt (nếu có).
Trường hợp được giảm thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt thì giá
tính thuế giá trị gia tăng là giá tính thuế nhập khẩu cộng với thuế nhập khẩu,
thuế tiêu thụ đặc biệt tính theo mức thuế phải nộp sau khi đã được giảm.
Trường hợp miễn thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt thì giá tính
thuế GTGT là giá tính thuế hàng nhập khẩu ( do thuế nhập khẩu, thuế tiêu
thụ đặc biệt đã được miễn).
Thuế suất thuế GTGT : Thuế suất thuế GTGT được áp dụng thống
nhất theo loại hàng hoá, dịch vụ ở các khâu nhập khẩu, sản xuất gia công hay
kinh doanh thương mại. Hiện nay các mức thuế suất thuế GTGT gồm có 3
mức thuế suất:
Thuế suất 0%: áp dụng đối với hàng hoá dịch vụ xuất khẩu bao gồm
cả hàng gia công xuất khẩu; hoạt động xây dựng, lắp đặt công trình của
doanh nghiệp chế xuất; hàng hoá bán cho cửa hàng bán hàng miễn thuế;
hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT xuất khẩu ( trừ vận tải
quốc tề; hàng hóa, dịch vụ cung cấp trực tiếp cho vận tải quốc tế; dịch vụ du
lịch lữ hành ra nước ngoài; dịch vụ bưu chính viễn thông từ nước ngoài

chuyển về Việt Nam; dịch vụ tín dụng đầu tư tài chính, đầu tư chứng khoán
ra ngước ngoài và các hàng hóa, dịch vụ nêu tại điểm 1.27 Mục II, phần A
Thông tư 32/2007/TT-BTC).
Mức thuế suất 5%: áp dụng cho một số loại hàng hoá, dịch vụ đặc
biệt thiết yếu phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng và các hàng hoá, dịch vụ cần
ưu đãi như nước sạch phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt; thuốc chữa bệnh,
phòng bệnh; giáo cụ đồ dùng để giảng dậy và học tập…. Và được chỉ rõ tên
trong Luật thuế GTGT, các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Mức thuế suất 10%: áp dụng đối hàng hoá, dịch vụ thông thường
như sản phẩm điện tử, dầu mỏ, khí đốt, sản phẩm may mặc, xây dựng lắp
đặt, dịch vụ tư vấn…
2.1.1.2.3. Phương pháp tính thuế GTGT.
Phương pháp khấu trừ thuế: Phương pháp này áp dụng đối với các
cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo
quy định của pháp luật về kế toán, hoá đơn, chứng từ và đăng ký nộp thuế
theo phương pháp khấu trừ thuế.
Số thuế
GTGT phải
nộp
=
Số thuế GTGT
đầu ra -
Số thuế GTGT đầu vào
được khấu trừ
Số thuế GTGT đầu ra bằng tổng số thuế GTGTcủa hàng hoá, dịch vụ bán
ra ghi trên hoá đơn GTGT
Thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT bằng giá tính thuế của hàng hoá dịch vụ
bán ra nhân (x) thuế suất thuế GTGT của hàng hoá dịch vụ đó.
Thuế GTGT đầu vào bằng (=) tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn
GTGT mua hàng hoá, dịch vụ (bao gồm cả tài sản cố định) dùng cho sản xuất

kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT, số thuế GTGT ghi trên chứng từ
nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía
nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài chính áp dụng với các tổ chức nước
ngoài không có tư cách pháp nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài kinh doanh
hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam.
Thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT thì được khấu trừ toàn bộ.
Thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ sử dụng đồng thời cho hoạt
động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế thì
chỉ được khấu trừ số thuế GTGT đầu vào sử dụng cho sản xuất kinh doanh hàng
hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT. Trường hợp số thuế GTGT đầu vào của TSCĐ sử
dụng đồng thời cho cả sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và
không chịu thuế thì được khấu trừ toàn bộ. Thuế GTGT đầu vào phát sinh trong
tháng nào được khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp trong tháng đó. Trường
hợp cơ sở kinh doanh phát hiện số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ khai bỏ
sót thì được kê khai bổ sung với thời hạn tối đa là 6 tháng kể từ thời điểm phát
sinh.
Điều kiện được khấu trừ:
Thứ nhất: Có hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp
thuế GTGT ở khâu nhập khẩu
Thứ hai: Có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hoá, dịch vụ
mua vào trừ hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới 20 triệu đồng
Thứ ba : Đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu ngoài các điều kiện trên
phải có hợp đồng ký kết với nước ngoài về bán, gia công hàng hoá, cung ứng
dịch vụ, hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, chứng từ thanh toán qua ngân hàng, tờ
khai hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu.
Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT
Phương pháp này được áp dụng đối với các đối tượng nộp thuế sau:
Các cá nhân, hộ kinh doanh không thực hiện và thực hiện không đầy đủ
chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.

Tổ chức cá nhân nước ngoài kinh doanh không theo luật đầu tư và các tổ
chức khác không thực hiện và thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn,
chứng từ theo quy định của pháp luật.
Hoạt động kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quý, ngoại tệ
Số thuế GTGT phải nộp = GTGT của hàng hoá dịch vụ chịu thuế bán ra nhân(x)
thuế suất áp dụng đối với hàng hoá đó.
GTGT của hàng hoá, dịch vụ được xác định bằng giá thanh toán của hàng hoá,
dịch vụ bán ra trừ (-) giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ mua vào tương ứng.
Đối với cơ sở kinh doanh bán hàng hoá, dịch vụ có đầy đủ hoá đơn của hàng
hoá, dịch vụ bán ra theo chế độ quy định hoặc có đủ điều kiện xác định được
đúng doanh thu bán hàng hoá dịch vụ như hợp đồng và chứng từ thanh toán
nhưng không có đủ hoá đơn mua hàng hoá dịch vụ đầu vào thì GTGT được xác
định bằng doanh thu nhân(x) với tỷ lệ % GTGT tính trên doanh thu. Tỷ lệ %
GTGT tính trên doanh thu làm căn cứ xác định GTGT được quy định như sau:
- Thương mại ( phân phối, cung cấp hàng hoá): 10%
- Dịch vụ, xây dựng ( trừ xây dựng có bao thầu nguyên vật liệu): 5%
- Sản xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hoá, xây dựng có bao thầu
nguyên vật liệu: 30%.
Hoạt động kinh doanh, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy
định của pháp luật thì nộp thuế theo tỷ lệ % GTGT do Bộ tài chính quy định.
Cụ thể GTGT xác định đối với một số ngành nghề kinh doanh được
hướng dẫn chi tiết tại mục 2 phần B thông tư 129/2008/TT-BTC
ngày08/12/2008.
2.1.1.2.4. Vai trò của thuế GTGT.
Góp phần kích thích sản xuất, kinh doanh, tăng cường đầu tư, đổi mới
công nghệ, nâng cao sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, do thuế GTGT thu
không trùng lắp, cơ chế hiện đại.
Tạo nguồn thu ngày càng tăng cho ngân sách do phạm vi rộng, thu vào
mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.

Góp phần khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa xuất khẩu do áp
dụng thuế suất thuế GTGT 0% và được hoàn lại toàn bộ thuế GTGT đó thu ở
khâu trước. Đồng thời nó còn kết hợp với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn
hàng nhập khẩu, từ đó bảo hộ sản xuất trong nước.
Góp phần thực hiện tốt chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ, tạo điều
kiện chống trốn lậu thuế.
Góp phần hoàn thiệc hệ thống chính sách thuế của nước ta phù hợp
thông lệ quốc tế.
2.1.1.2.5. Yêu cầu đặt ra đối với quản lý thuế GTGT trong điều kiện hiện nay
- Hoá đơn, sổ sách, chứng từ phải đi vào nề nếp.
Căn cứ pháp lý chính để thực hiện thu thuế GTGT là hoá đơn chứng từ,
mà việc quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ hết sức phức tạp do liên quan tới
nhiều đối tượng và qua nhiều khâu luân chuyển. Cho nên, ý thức sử dụng đúng
chế độ hoá đơn, chứng từ của đối tương nộp thuế cần được khuyến khích. Bên
cạnh đó cơ quan thuế cần có sự hướng dẫn cập nhật thường xuyên những thay
đổi về chế độ sử dụng hoá đơn, chứng từ tới các đối tượng. Đặc biệt về chính
sách sử dụng chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với các hợp đồng trên 20
triệu đồng; hướng dẫn, theo dõi chi tiết, cụ thể tránh hiện tượng bóc tách hợp
đồng để trốn thuế GTGT. Qua đó, tạo được sự đồng bộ trong cơ chế hành thu để
đem lại hiệu quả thu cao nhất.
- Hệ thống pháp luật về thuế phải đồng bộ, hợp lý, minh bạch, rõ ràng
Để giúp cho việc thực hiện thu thuế GTGT có hiệu quả nhất thì ngoài
việc xây dựng được pháp luật thuế GTGT khoa học thì cần phải có sự kết hợp
hài hoà của các sắc thuế khác. Bởi việc tính và thu thuế GTGT liên quan chặt
chẽ tới các sắc thuế khác như thuế Nhập khẩu, thuế TTĐB ... Bên cạnh đó thuế
GTGT còn ảnh hưởng tới kết quả của sắc thuế như thuế TNDN. Hệ thống pháp
luật phải minh bạch, rõ ràng tránh hiện tượng nhầm lẫn không phân biệt được
doanh thu để áp dụng được đúng thuế suất, xác định được đúng tỷ lệ GTGT trên
doanh thu đối với các trường hợp ấn định. Làm được điều này, đảm bảo không
những việc thực hiện nghĩa vụ thuế được đầy đủ mà còn tạo điều kiện cho công

tác quản lý thuế hiện nay.
- Trang bị kỹ thuật và trình độ của cán bộ thuế
Về trang bị kỹ thuật cần quản lý thu thuế trên hệ thống máy tính hiện đại,
nối mạng máy tính trên toàn quốc, để việc xử lý nghiệp vụ thuế chính xác, hiệu
quả cao. Đồng thời, thực hiện việc đối chiếu thông tin thuế nhanh, giúp thực
hiên thu thuế kịp thời, chính xác, hạn chế tiêu cực thuế, đảm bảo số thu vào
ngân sách nhà nước.
Về trình độ cán bộ thuế đòi hỏi phải nắm vững nghiệp vụ chuyên môn,
yêu nghề, có sự hiểu biết toàn diện các vấn đề kinh tế xã hội. Yếu tố con người
sẽ là nhân tố quyết định hiệu quả của công tác thu. Vì vậy, đòi hỏi cần phải có
chính sách bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ thuế phù hợp yêu
cầu hành thu trong nền kinh tế thị trường vốn hết sức phức tạp và khó khăn.
- Công tác thanh tra kiểm tra:
Để quản lý thuế GTGT một cách hiệu quả cơ quan thuế đổi mới cơ chế
hành thu: tự kê khai, tính thuế, nộp thuế. Do đó, công tác thanh tra kiểm tra là
yếu tố quan trọng thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát của nhà nước, đảm bảo cho
quá trình hành thu đi vào nề nếp, hạn chế các tiêu cực xảy ra.Vì vậy, phải
thường xuyên đẩy mạnh công tác thanh tra kiểm tra, hạn chế thấp nhất tình
trạng khai man trốn lậu thuế, ngày càng tạo được thói quen nghiêm chỉnh chấp
hành luật thuế trong tầng lớp dân cư.
2.1.2. Kinh tế cá thể và sự cần thiết phải quản lý việc thực hiện luật thuế
GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể.
2.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của kinh tế cá thể
Khái niệm :
Việt Nam là nước có nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; các thành phần kinh tế được tự
do phát triển trong đó thành phần kinh tế cá thể chiếm một vị trí rất quan trọng.
Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản
xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình.
Kinh tế cá thể có đặc điểm:

- Là loại hình có số lượng lao động tham gia đông hơn hẳn so với những
loại hình tổ chức sản xuất khác. Bản thân số lượng này không phải là yếu tố
quyết định song lại là cơ sở hình thành tính phong phú đa dạng không đồng nhất
của hoạt động kinh tế diễn ra ở tất cả các hộ kinh doanh cá thể.
- Phạm vi hoạt động kinh tế cá thể tương đối rộng lớn và đa dạng, được
phát triển ở mọi ngành nghề, phân bổ rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, từ
đồng bằng đến miền núi...và diễn ra trên mọi lĩnh vực sản xuất thương nghiệp
dịch vụ. Điều này chứng tỏ Nhà nước có số thu thuế từ khu vực kinh tế cá thể
trên phạm vi rộng.
- Kinh tế cá thể có thể tồn tại độc lập hoặc cũng có thể tham gia vào các
lĩnh vực khác như: Hợp tác xã, liên doanh liên kết... Quy mô của các hộ kinh tế
nhìn chung không lớn khoảng trung bình từ 5 đến 6 lao động.
- Kinh tế cá thể dù có cố gắng đến bao nhiêu cũng không loại bỏ được
những hạn chế vốn có như: Tính tự phát, manh mún hạn chế về kỹ thuật
Vai trò của thành phần kinh tế cá thể :
Cùng với sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, kinh tế cá thể
được coi là bộ phận hỗ trợ hết sức quan trọng đối với nền kinh tế. Kinh tế cá thể
tồn tại là một tất yếu khách quan xuất phát từ yêu cầu của xã hội và ngày càng
khẳng định vai trò to lớn của nó:
- Kinh tế cá thể đã và sẽ tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội, đáp
ứng cho nhu cầu đời sống sinh hoạt của nhân dân, cung cấp các yếu tố đầu vào
của quá trình sản xuất, làm cầu nối giữa sản xuất và lưu thông tiêu dùng, tạo
điều kiện cho việc lưu thông hàng hoá tiền tệ trong nền kinh tế nhanh chóng và
có hiệu quả. Tham gia hỗ trợ những mặt mà kinh tế quốc doanh và các thành
phần kinh tế khác chưa giải quyết được.
- Kinh tế cá thể đã góp phần to lớn để tạo công ăn việc làm. Khu vực
quốc doanh ở nước ta tạo việc làm cho khoảng 11% trong tổng số lực lượng lao
động. Gần 90% lao động làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh. Có nhiều hình
thức thu hút lao động ngoài quốc doanh: Doanh nghiệp tư nhân, cá nhân tự tạo
việc làm, lao động làm thuê theo vụ việc, mùa vụ... song cho tới nay phổ biến

nhất vẫn là hộ kinh tế cá thể. Hiện nay ở nước ta có khoảng 1,5 triệu hộ cá thể.
Nếu cứ tính trung bình mỗi hộ sử dụng 2 lao động thì tổng cộng đã giải quyết
được 3 triệu lao động. Điều này, không chỉ đơn thuần đảm bảo thu nhập sinh
hoạt cho người lao động mà còn có tác động đến vấn đề an ninh xã hội và gánh
nặng chi tiêu của Nhà nước, để giải quyết vấn đề thất nghiệp và tệ nạn xã hội do
không có việc làm tạo nên.
- Kinh tế cá thể ngày càng phát triển góp phần làm tăng tổng sản phẩm xã
hội và đã đóng một phần thu nhập vào Ngân sách Nhà nước đáp ứng cho nhu
cầu chi tiêu ngày càng lớn của Nhà nước.
Kinh tế cá thể nắm giữ một khối lượng vốn lớn trong nền kinh tế và có
khả năng huy động được nhiều vốn. Nếu như lượng vốn này được tham gia vào
sản xuất kinh doanh thì hiệu quả kinh tế của xã hội tăng lên, thúc đẩy mở rộng
sản xuất, kích thích tiêu dùng, từ đó thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh
tế khác. Bên cạnh những mặt tích cực kinh tế cá thể có một số hạn chế dẫn đến
việc tổ chức, quản lý đối tượng này gặp rất nhiều khó khăn. Với nguồn vốn huy
động tuỳ thuộc vào ngành nghề và mặt hàng sản xuất kinh doanh đã tạo nên sự
đa dạng trong nguồn vốn dẫn tới khó khăn trong công tác quản lý thu thuế đối
với hộ kinh tế cá thể và góp phần không nhỏ trong việc làm tăng số lượng thuế
bị thất thu, vì khó xác định được một cách chính xác quy mô vốn và quy mô
kinh doanh.
Bên cạnh đó, trình độ quản lý của cán bộ thuế chưa cao dẫn tới hiệu quả
quản lý thu kém. Đây là yếu điểm khó tránh khỏi bởi hộ kinh tế cá thể có đặc
điểm mang tính gia đình, khó kiểm soát chặt chẽ, và ý thức chấp hành pháp luật
nói chung và pháp luật thuế nói riêng của hộ cá thể chưa tốt đã gây cản trở cho
cán bộ thuế trong công tác quản lý. Để công tác thu thuế có hiệu quả hơn đòi
hỏi phải có biện pháp phát huy những mặt mạnh của kinh tế cá thể, và khắc
phục được những hạn chế vốn có.
2.1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý thực hiện luật thuế GTGT đối với các
hộ kinh doanh cá thể.
Thuế GTGT là một sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế của nước

ta. Việc áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu nhằm đảm bảo việc tập
trung nguồn thu cho NSNN. Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế nước ta
hiện nay, chi tiêu cho phát triển là một nhu cầu vô cùng lớn nên xảy ra hiện
tượng thiếu hụt ngân sách. Vì vậy, chúng ta phải tìm mọi biện pháp để tăng
thu ngân sách nhà nước. Với đường lối đổi mới kinh tế tạo điều kiện cho các
thành phần kinh tế phát triển bình đẳng trước pháp luật thì việc quản lý thu
thuế khu vực kinh tế nào cũng rất quan trọng. Thành phần ngoài quốc doanh
nói chung và kinh tế cá thể nói tiêng lại đang phát triển cả về quy mô và số
lượng, thu nhập tăng nhanh thì việc tăng cường quản lý thu thuế khu vực
kinh tế này là rất cần thiết.
Bên cạnh đó, đảm bảo công bằng xã hội là một yêu cầu đặt ra với
chính sách thuế và bản thân với chính sách thuế cũng phải đảm bảo sự công
bằng xã hội vì có công bằng xã hội thì mới có thể động viên số thu lớn nhất
trong thời gian ngắn nhất. Tăng cường quản lý thuế GTGT đối với thành
phần kinh tế cá thể một cách chặt chẽ chính là biện pháp để đảm bảo tính
công bằng xã hội, từ đó giảm tối đa hiện tượng trốn lậu thuế, tạo ra sự cạnh
tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
Ngoài ra, thông qua quản lý thuế GTGT đối với hộ kinh doanh cá thể
sẽ tạo điều kiện cho nhà nước trong việc quản lý vĩ mô nền kinh tế thông
qua:
- Kiểm tra, kiểm soát các ngành nghề, mặt hàng kinh doanh, từ đó
giúp cho các cơ quan quản lý kinh tế có định hướng phát triển ngành nghề
phù hợp.
- Nắm được mức độ tiêu dùng, cơ cấu tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ từ
đó giúp nhà nước có cơ sở định hướng cho tiêu dùng trong dân cư phù hợp
với từng giai đoạn phát triển kinh tế cá thể.
Trong những năm gần đây, việc quản lý thu thuế nói chung và thuế
GTGT đối với thành phần kinh tế cá thể còn nhiều thiếu sót dẫn đến hậu quả
là gây ra nguồn thất thu thuế, nhà nước bị chiếm dụng vốn gây ra tác động
xấu đối với nền kinh tế. Việc áp dụng thuế GTGT thay thế cho thuế doanh

thu tạo ra khả năng kiểm tra, kiểm soát tốt hơn đối với công tác quản lý
nhưng bên cạnh đó thì cũng gây ra những khó khăn:
- Thuế GTGT đòi hỏi phải thay đổi một thói quen vốn đã in sâu trong
cách nghĩ và cách làm của mỗi người là: mua bán hàng hóa không cần hóa
đơn, linh hoạt đến mức tùy tiện trong ghi chép chứng từ, sổ kế toán, tính
thuế trên tổng doanh thu, không phân biệt giữa doanh nghiệp có nhiều và
doanh nghiệp có ít giá trị gia tăng và việc thay đổi thói quen cố hữu này là
điều hết sức khó khăn.
- Thuế GTGT được tính trên phần giá trị tăng thêm nên để bảo đảm
mức động viên ngang bằng với thuế Doanh thu thì thuế GTGT phải cao hơn
thuế suất doanh thu. Điều này dẫn đến tâm lý cho rằng nhà nước tăng thu
thuế cà gây ra tác động làm tăng giá. Do đó cùng với việc giải thích, cần áp
dụng biện pháp quản lý chặt chẽ và phải có các biện pháp kinh tế, ngăn ngừa
lợi dụng tăng giá.
Thành phần kinh tế cá thể chủ yếu là những hộ có quy mô nhỏ, hoạt động
phân tán nên công tác quản lý thuế gặp nhiều khó khăn.
Cũng bởi những lý do trên mà đề tài này xin đề cập đến thực trạng công tác
quản lý thực hiện Luật thuế GTGT của các hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn
quận Hoàn Kiếm. Từ đó, rút ra các biện pháp cần thiết để tăng cường công
tác quản lý thực hiện Luật thuế GTGT trên địa bàn Quận của các hộ kinh
doanh cá thể.
2.2. Thực trạng quản lý việc thực hiện luật thuế giá trị gia tăng của các
hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn của chi cục.
2.2.1. Quản lý đối tượng nộp thuế.
Trong những năm vừa qua, Ban Lãnh đạo và toàn thể cán bộ công
chức của Chi cục thuế Hoàn Kiếm đã có rất nhiều cố gắng nỗ lực trong công
tác quản lý đối tượng nộp thuế và đặc biệt là với thành phần kinh tế cá thể.
Chi cục thuế thường xuyên cung cấp tờ khai đăng ký thuế và hướng
dẫn các hộ mới ra kinh doanh kê khai, đăng ký thuế. Cán bộ thuế của từng
phường, liên phường, chợ, liên chợ tiếp nhận hồ sơ của các hộ kinh doanh và

kiểm tra kỹ càng. Khi tiếp nhận thì cán bộ thuế ghi vào sổ nhận hồ sơ và viết
phiếu hẹn trả giấy chứng nhận đăng ký thuế cho hộ kinh doanh. Sau khi nhận
hồ sơ của các hộ kinh doanh thì các đội thuế phường, chợ chuyển hồ sơ về
đội nghiệp vụ dự toán thuộc chi cục thuế, tại đây cán bộ nghiệp vụ kiểm tra
hồ sơ đăng ký thuế, đối chiếu các chỉ tiêu khai trên tờ khai sau đó nhập vào
hệ thống máy tính.
Tiếp đó, đội kê khai lập danh bạ bộ kinh doanh đã đăng ký thuế và
được cấp mã số thuế, đồng thời ra thông báo cho đội thuế phường biết để
đưa vào sổ bộ thuế. Chi cục thuế đã thống kê được tình hình kinh doanh cá
thể trên địa bàn thông qua trình tự và thủ tục đăng ký kinh doanh.
Các đội thuế phường, liên phường, chợ, liên chợ, ủy nhiêm thu thường
xuyên hướng dẫn và đôn đốc người nộp thuế có trách nhiệm đăng ký thuế,
khai và nộp thuế.
Trên địa bàn quận Hoàn Kiếm thành phần kinh tế cá thể chiếm một số
lượng rất lớn, ngành nghề hoạt động đa dạng như sản xuất, ăn uống, thương
nghiệp, dịch vụ, thuê nhà, vận tải... quy mô hoạt động cũng rất phong phú,
trình độ học vấn của người nộp thuế cũng rất khác nhau vì vậy việc quản lý
thực hiện Luật thuế GTGT của chi cục cũng gặp rất nhiều khó khăn và trở
ngại. Tính đến tháng 12 năm 2008 chi cục thuế Quận Hoàn Kiếm đã quản lý
được 11.101 hộ kinh doanh cá thể trong đó có 10.022 hộ đã đươc cấp mã số
thuế, 1.079 hộ chưa được cấp mã số thuế 12.288. Còn đến tháng 12 năm
2009 chi cục quản lý đươc 11.873 hộ kinh doanh cá thể trong đó có 11.685
hộ đã được cấp mã số thuế và 188 hộ chưa được cấp mã số thuế. So với năm
2008 thì đến năm 2009 số hộ mà chi cục đã quản lý được tăng lên 772 hộ
kinh doanh, đặc biệt năm 2008 số hộ chưa được cấp mã số thuế còn tương
đối cao nhưng đến năm 2009 thì con số đó đã giảm xuống rất thấp, giảm 891
hộ so với năm 2008. Điều đó chứng tỏ sự nỗ lực rất lớn trong công tác quản
lý đối tượng nộp thuế của chi cục thuế Quận Hoàn Kiếm.
Để thấy được rõ hơn việc quản lý đối tượng nộp thuế trên địa bàn ta
có thể xem khái quát bảng số liệu về hộ kinh doanh cá thể sau:

×