Tải bản đầy đủ (.docx) (337 trang)

Đảng cộng sản việt nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa từ năm 1996 đến năm 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.45 MB, 337 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRỊNH THÖY HƢƠNG

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG
ĐỐI NGOẠI TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA TỪ NĂM 1996
ĐẾN NĂM 2006

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội, năm 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRỊNH THÖY HƢƠNG

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG
ĐỐI NGOẠI TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA TỪ NĂM 1996
ĐẾN NĂM 2006

Chuyên ngành
Mã số

: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
:62225601

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Viết Thảo

Hà Nội, năm 2013


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

MỞ ĐẦU.......................................................................................................
1.

Lý do chọn đề tài .......................................................................................

2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................

3.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu...............................................................

4.

Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ..........................

5.


Đóng góp mới của luận án ..........................................................................

6.

Kết cấu của luận án ...................................................................................

TỔNG QUAN ...............................................................................................
1.

Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài .........................................

2.Những vấn đề còn tồn tại ...........................................................................
3.

Những vấn đề luận án tập trung giải quyết ...............................................

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHỦ TRƢƠNG
ĐỐI NGOẠI TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA............................................
1.1. Cơ sở lý luận .....................................................................................

1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

văn hóa, ngoại giao và giao lƣu văn hóa quốc tế ...................................

1.1.2. Tƣ duy truyền thống và hiện đại về giao lƣu văn hóa, hợp tác qu
tế trên lĩnh vực văn hóa..........................................................................
1.2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................
1.2.1. Hợp tác quốc tế về văn hóa trong 10 năm đầu đổi mới (1986 –
1996) .....................................................................................................



1.2.2. Mô hình và kinh nghiệm đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa của một
số quốc gia trên thế giới...................................................................................................... 62
Tiểu kết:
...................................................................................................................................................................

71
Chƣơng 2: CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VỀ ĐỐI NGOẠI TRÊN LĨNH
VỰC VĂN HÓA VÀ SỰ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN TỪ NĂM 1996 ĐẾN
NĂM 2006.......................................................................................................................................... 73
2.1. Bối cảnh mới và chủ trƣơng của Đảng............................................................. 73
2.1.1. Tình hình thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI . 73

2.1.2. Chủ trƣơng của Đảng về đối ngoại trên lĩnh vực văn hoá..................78
2.2. Sự chỉ đạo, tổ chức thực hiện và những kết quả ban đầu..................103
2.2.1. Mở rộng các mối quan hệ về văn hoá.......................................................... 103
2.2.2. Giới thiệu văn hóa, đất nƣớc và con ngƣời Việt Nam với thế giới
107
2.2.3. Tiếp thu các giá trị nhân văn, khoa học tiến bộ của nƣớc ngoài.. 119

2.2.4. Tăng cƣờng thực lực để giao lƣu văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc trong giao lƣu, hội nhập văn hóa............................................................... 123
2.2.5. Ngăn chặn những cái xấu, cái độc hại, phi văn hoá trong quá trình
giao lƣu văn hoá.................................................................................................................. 131
2.2.6. Giúp cộng đồng ngƣời Việt ở nƣớc ngoài hiểu biết về văn hóa dân
tộc................................................................................................................................................ 136
Tiểu kết:............................................................................................................................................. 142
Chƣơng 3: ĐÁNH GIÁ

CHUNG VÀ KINH NGHIỆM TỪ SỰ LÃNH


ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI TRÊN LĨNH VỰC
VĂN HÓA (1996 – 2006)....................................................................................................... 144
3.1. Đánh giá chung.............................................................................................................. 144
3.1.1. Về ƣu điểm, thành tựu........................................................................................ 144


3.1.2. Về hạn chế................................................................................................................. 157


3.2. Một số kinh nghiệm và vấn đề đặt ra.............................................................. 171
3.2.1. Một số kinh nghiệm.............................................................................................. 171
3.2.2. Những vấn đề đặt ra.............................................................................................. 185
Tiểu kết:............................................................................................................................................. 188
KẾT LUẬN.................................................................................................................................... 189
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN............................................................. Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................... 194
PHỤ LỤC


AEC
AFTA
APSC
ASC
ASCC
ASEAN
ASEAN - COCI
ASEANTA
ASEM

ASEP – III
CNRS
COCI
CONSAL
ĐCSVN
EALAC
EU


H
HTQT
GLVH
GMO
GS
IPU
LHP
NGO
NGVH
NQ
NQ/HNTW
Nxb
TSKH
TVRO
UBLLVHVNN
UNDP
UNESCO
VH-TT
XHCN
WTO



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ cuối thế kỷ XX đến nay, trong đời sống xã hội thế giới diễn ra nhiều
thay đổi sâu sắc, trong đó có thể kể đến sự gia tăng vai trò, vị trí của văn hóa
đối với sự phát triển của các quốc gia dân tộc và quá trình toàn cầu hóa hội
nhập quốc tế. Văn hóa ngày càng đƣợc khẳng định là mục tiêu, động lực và
hệ điều tiết của sự phát triển; là nhân tố đồng đẳng bên cạnh các nhân tố kinh
tế, xã hội, chính trị.
Toàn cầu hóa bƣớc vào giai đoạn mạnh mẽ, toàn diện, biến thế giới
thành một thực thể liên kết chặt chẽ không chỉ về kinh tế, thƣơng mại, an
ninh, chính trị, mà còn cả về văn hóa tinh thần.


Việt Nam, Đảng và Nhà nƣớc đã xác định, một mặt, văn hóa là nền

tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội; mặt khác, nhận thức rõ vai trò của văn hóa trong việc thiết lập, duy
trì và phát triển quan hệ đối ngoại, nhằm đạt đƣợc các mục tiêu cơ bản của
quốc gia là hòa bình, ổn định, thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.
Ngoại giao văn hóa đã trở thành một lĩnh vực đặc biệt trong chiến lƣợc ngoại
giao toàn diện của Việt Nam, nó “liên quan đến việc sử dụng văn hoá như là
đối tượng và phương tiện nhằm đạt những mục tiêu cơ bản của chính sách
đối ngoại của quốc gia, tạo hình ảnh tốt đẹp của đất nước, quảng bá văn hoá
và ngôn ngữ quốc gia ở nước ngoài” [112, tr. 311]. Đây là một biểu hiện đổi
mới trong tƣ duy đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam, đó là việc coi
trọng nội dung văn hoá trong hoạt động ngoại giao. Trong đó, hoạt động hợp
tác quốc tế về văn hoá ngày càng đƣợc chú trọng phát triển: “Việc mở rộng,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa là nhiệm vụ trọng tâm, trong
chiến lược phát triển của Việt Nam. Hợp tác và giao lưu quốc tế về văn hóa

giúp đạt các mục tiêu mà chính sách văn hóa đặt ra, đó là tiếp thu tinh hoa

1


văn hóa của nhân loại, làm phong phú và sâu sắc thêm những giá trị văn hóa
truyền thống của đất nước, góp phần xây dựng một nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Không những thế, hợp tác về văn hóa còn là nền
tảng để mở rộng quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực khác” [43]. Thông qua các
hoạt động văn hóa, bạn bè thế giới hiểu biết hơn về đất nƣớc, con ngƣời và
văn hóa Việt Nam, từng bƣớc tạo dựng lòng tin đối với Việt Nam, đƣa quan
hệ đối tác đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững, qua đó nâng cao vị thế đất
nƣớc trên trƣờng quốc tế.
Ngay từ rất sớm và trong suốt các thời kỳ phát triển của đất nƣớc từ năm
1945 đến nay, việc giao lƣu về văn hoá, trao đổi, hợp tác trên lĩnh vực văn
hoá đã bắt đầu đƣợc thực hiện [Phụ lục số 1]. Trong mỗi thời kỳ khác nhau và
căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, đối ngoại trên lĩnh vực văn hoá
cũng có những đặc điểm khác nhau, chẳng hạn giai đoạn từ 1945 - 1975 phát
huy vai trò nhƣ một “mặt trận” chủ yếu để tranh thủ sự ủng hộ của dƣ luận
thế giới đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất
nƣớc. Giai đoạn 1975 - 1990, trong thời kỳ đất nƣớc bị bao vây, cô lập, đối
ngoại trên lĩnh vực văn hoá đã đóng góp tích cực vào củng cố quan hệ với các
nƣớc XHCH anh em, đồng thời để “phá băng”, “giữ cầu”, “mở đƣờng” cho
quá trình bình thƣờng hóa quan hệ chính trị với các đối tác khác.
Thời kỳ phát triển mới của ngoại giao văn hóa (những năm đầu của thập
kỷ 90 đến nay) đặc biệt kể từ khi kết thúc chiến tranh lạnh vào đầu những
năm 90 của thế kỷ XX và sự ra đời của Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ƣơng khoá VIII (1998) (sau đây gọi tắt là Nghị quyết TW 5
(khóa VIII) năm 1998) của Bộ Chính trị về “Xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đây đƣợc coi là chiến lƣợc

văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Ngoại giao văn hóa bắt đầu đƣợc sử

2


dụng nhƣ một công cụ quan trọng trong đƣờng lối, chính sách ngoại giao
“thêm bạn, bớt thù”, “đa phƣơng hóa, đa dạng hóa” và hội nhập kinh tế quốc
tế của Việt Nam. Ngoại giao văn hóa lúc này đƣợc coi là một nội dung quan
trọng gắn chặt với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế để phục vụ mục
tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm phong phú nền văn hóa dân tộc.
Đƣơng nhiên, việc xác định ngoại giao văn hóa cũng chỉ có ý nghĩa tƣơng
đối vì khó có thể tách bạch văn hóa ra khỏi kinh tế và chính trị, vì thuộc tính
văn hóa có khi nằm ngay trong các hoạt động chính trị và kinh tế đối ngoại.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc việc
giao lƣu văn hoá với thế giới nhằm củng cố, phát huy văn hoá dân tộc, phục
vụ sự phát triển và hội nhập đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc coi là một nhiệm vụ
quan trọng. Nghị quyết Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) năm 1998 nhấn mạnh:
Làm tốt việc giới thiệu văn hoá, đất nƣớc và con ngƣời Việt
Nam với thế giới; tiếp thụ có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa
học, tiến bộ của nƣớc ngoài; phổ biến những kinh nghiệm xây dựng
và phát triển văn hoá của các nƣớc; ngăn ngừa sự xâm nhập các sản
phẩm văn hoá phản động đồi truỵ; giúp đỡ cộng đồng ngƣời Việt
Nam ở nƣớc ngoài hiểu biết tình hình nƣớc nhà, thu thập thông tin
và sản phẩm văn hoá từ trong nƣớc ra, nêu cao lòng yêu nƣớc, tự
tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc, phát huy trí tuệ,
tài năng sáng tạo, đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nƣớc [68,
tr. 67 - 68]
Hội nghị lần thứ 25 năm 2006 của ngành ngoại giao Việt Nam nhất trí
triển khai đồng bộ chính sách ngoại giao dựa trên ba trụ cột: ngoại giao chính

trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa. Trên thực tế, Việt Nam đã thực
hiện Năm ngoại giao văn hóa 2009; Ngày 14 tháng 2 năm 2011, Thủ tƣớng
Chính phủ ký Quyết định số 208/QĐ - TTg, phê duyệt Chiến lược ngoại giao

3


văn hóa đến năm 2020 [Phụ lục số 8]. Chiến lƣợc đã đề ra các biện pháp triển
khai cụ thể để thực hiện mục tiêu của công tác đối ngoại, nhƣ việc đƣa nội
dung ngoại giao văn hóa vào giảng dạy tại một số trƣờng đại học, nhằm nâng
cao kiến thức của sinh viên, thanh niên đối với công tác ngoại giao văn hóa và
đào tạo cán bộ làm công tác ngoại giao văn hóa.
Trong xu thế hội nhập, những hoạt động văn hóa Việt Nam ở nƣớc
ngoài, những hoạt động giao lƣu văn hóa với các nƣớc trên thế giới, đã góp
phần trực tiếp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại; ngày càng trở thành
một lĩnh vực rất nhạy cảm, nó vừa mang tính chính trị, vừa mang tính văn
hóa. Làm sao để hòa nhập mà không hòa tan, hay nói cách khác, làm sao để
đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa thực sự phát huy đƣợc chức năng của mình
cùng với đối ngoại kinh tế và đối ngoại chính trị trở thành một cái kiềng vững
chắc đƣa Việt Nam trong quá trình đi lên? Tại Đại hội X (2006) ĐCSVN
khẳng định: “Đẩy mạnh công tác văn hóa – thông tin đối ngoại, góp phần
tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các
nước” [79, tr. 115]. Đại hội lần thứ XI (2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam
tiếp tục khẳng định: “Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý
tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ
hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân
dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa;
giữa đối ngoại với quốc phòng an ninh” [85, tr. 238]
Từ thực tế trên đây, dƣới góc độ nghiên cứu của chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, xét cả về nhu cầu lý luận và nhu cầu thực tiễn thì

việc nhận thức và nghiên cứu hoạt động đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa một
cách hệ thống, khoa học là hết sức cần thiết và cấp bách, để từ đó làm sáng tỏ
hơn nữa chủ trƣơng của ĐCSVN trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại trên
lĩnh vực văn hóa, góp phần định hƣớng việc thực thi chính sách đối ngoại văn

4


hóa của Đảng nhằm làm cho đối ngoại văn hóa đủ khả năng để trở thành một
động lực của công cuộc phát triển, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Với lý do trên đây, tôi chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
hoạt động đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa từ năm 1996 đến năm 2006” để
làm luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

-

2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.

1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ sự lãnh đạo của ĐCSVN về vấn đề đối ngoại trên lĩnh vực văn

hóa từ năm 1996 đến năm 2006.
-


Làm rõ sự chỉ đạo và tổ chức thực hiện chủ trƣơng về đối ngoại trên

lĩnh vực văn hóa. Chỉ ra những kết quả của việc thực hiện chủ trƣơng này.
-

Đánh giá sự lãnh đạo của Đảng và khái quát một số kinh nghiệm cơ

bản về hoạt động đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa từ năm 1996 đến năm 2006
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc những mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ sau:
-

Tìm hiểu và làm rõ các vấn đề: Những cơ sở khoa học để Đảng xác định

chủ trƣơng đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa, cụ thể là chủ trƣơng mở rộng

hợp tác quốc tế về văn hóa.
-

Hệ thống hóa và phân tích các chủ trƣơng của Đảng nhằm mở rộng

hợp tác quốc tế về văn hóa từ năm 1996 đến năm 2006.
-

Phân tích quá trình thực hiện chủ trƣơng mở rộng hợp tác quốc tế về văn

hóa trên các mặt: Mở rộng các mối quan hệ về văn hoá; giới thiệu văn hóa, đất
nƣớc và con ngƣời Việt Nam với thế giới; tiếp thu các giá trị nhân văn, khoa
học tiến bộ của nƣớc ngoài; tăng cƣờng thực lực để giao lƣu văn hóa, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc trong giao lƣu, hội nhập văn hóa; ngăn chặn những cái


5


xấu, cái độc hại, phi văn hoá trong quá trình giao lƣu văn hoá; giúp cộng đồng
ngƣời Việt ở nƣớc ngoài hiểu biết về văn hóa dân tộc.
- Đánh giá và rút ra những kinh nghiệm từ sự lãnh đạo của Đảng về hoạt động
đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa giai đoạn 1996 – 2006

-

3.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.

1. Đối tƣợng nghiên cứu của luận án

Quan điểm, đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc

Việt Nam liên quan đến việc mở rộng giao lƣu văn hóa quốc tế.
- Các chủ thể chính thực hiện chủ trƣơng mở rộng giao lƣu văn hóa quốc
tế.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: Tập trung vào giai đoạn từ 1996 – 2006, có
nghiên
cứu khái quát thời gian trƣớc 1996. Đây là sự xác định có ý nghĩa tƣơng đối
vì yêu cầu của một đề tài khoa học lịch sử là sự nhìn nhận của một quá trình

đặt trong bối cảnh lịch sử - cụ thể, có sự ảnh hƣởng của thời gian trƣớc và sự
tác động đối với khoảng thời gian sau đó.
-

Phạm vi chủ thể để khảo sát: Trong số nhiều chủ thể thực hiện chủ

trƣơng hợp tác quốc tế trên lĩnh vực văn hóa giai đoạn 1996 - 2006 của Đảng,
luận án tập trung khảo sát hoạt động của Bộ Văn hóa – Thông tin nay là Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Ngoại giao…
-

Phạm vi nội dung chủ yếu: Quá trình nhận thức của ĐCSVN về vai trò,

vị trí của đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa và quá trình hình thành chủ trƣơng
mở rộng hợp tác, trao đổi văn hóa quốc tế giai đoạn từ 1996 - 2006. Những
nội dung cơ bản, nổi trội, liên quan đến việc triển khai chủ trƣơng mở rộng
hợp tác quốc tế trên lĩnh vực văn hoá từ 1996 – 2006.
4.

Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

4.

1. Cơ sở lý luận


6


Luận án đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của ĐCSVN về đối ngoại, văn hoá, giao lƣu văn hóa, hợp tác quốc
tế về văn hóa. Đặc biệt chú ý quan điểm toàn diện và lịch sử - cụ thể.
4.2. Nguồn tài liệu
-

Các văn kiện của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam có liên quan đến vấn đề

đối ngoại, văn hóa, giao lƣu văn hóa, trao đổi hợp tác quốc tế về văn hóa,
nhiệm vụ và mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.…
-

Các Báo cáo tổng kết công tác văn hóa – thông tin (1956 - 2005); Niên

giám thống kê ngành Văn hóa – Thông tin các năm từ 1999 đến 2004; Những
tài liệu liên quan đến hoạt động giao lƣu, hợp tác, trao đổi văn hóa với nƣớc
ngoài đƣợc lƣu trữ tại Trung tâm lƣu trữ Quốc gia III (Phông Thủ tƣớng,
Phông Bộ Văn hóa -Thông tin – Vụ Hợp tác quốc tế.)
-

Các công trình nghiên cứu, các sách đã xuất bản, các bài báo, tạp chí,

luận án, luận văn, tiểu luận, đề tài cấp bộ… những trang website có liên quan
đến mảng thông tin về đối ngoại, ngoại giao, văn hóa, hợp tác quốc tế trên
lĩnh vực văn hóa, ngoại giao văn hóa…có liên quan đến đề tài.
- Tài liệu khảo sát thực tế ở địa phƣơng.
4.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
-

Phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu mà luận án sử dụng là phƣơng pháp


lịch sử và phƣơng pháp logic. Phƣơng pháp lịch sử, nhằm trình bày, phân
tích các sự kiện có liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về
vấn đề đối ngoại trên lĩnh vực văn hoá trong quá trình lịch sử hiện thực.
Phƣơng pháp logích đƣợc sử dụng trong luận án này nhằm khái quát, đánh
giá về ƣu điểm, hạn chế và rút ra những kinh nghiệm cơ bản nhất của Đảng
trong quá trình lãnh đạo về đối ngoại trên lĩnh vực văn hoá.
-

Ngoài ra luận án còn sử dụng một số phƣơng pháp khác nhƣ thống kê,

phân tích, so sánh và tổng hợp để làm rõ sự thay đổi cũng nhƣ những phát

7


triển về đƣờng lối đối ngoại và đƣờng lối văn hóa có liên quan đến chủ
trƣơng mở rộng giao lƣu văn hóa với nƣớc ngoài. Phƣơng pháp tiếp cận liên
ngành đƣợc sử dụng trong luận án này nhằm mục đích khai thác những nội
dung liên quan đến khái niệm công cụ của luận án, những vấn đề có tính chất
chuyên sâu mà khoa học lịch sử Đảng không thể bao quát hết.
-

Phƣơng pháp phỏng vấn chuyên sâu (đối tƣợng đƣợc phỏng vấn là các

nhà nghiên cứu có những công trình chuyên sâu về văn hóa và đối ngoại; các
nhà quản lý có liên quan đến hoạt động trao đổi, hợp tác văn hoá quốc tế, đặc
biệt trong giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2006).
5. Đóng góp mới của luận án
-


Xây dựng thƣ mục các văn bản, văn kiện, hoạt động liên quan trực tiếp

đến chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam về đối ngoại trên
lĩnh vực văn hóa trong giai đoạn từ 1986 - 2006.
-

Nghiên cứu, đánh giá, tổng kết thực tiễn lãnh đạo của ĐCSVN đối với

hoạt động đối ngoại trên lĩnh vực văn hoá từ năm 1996 đến năm 2006 dƣới
góc độ lịch sử Đảng.
6. Kết cấu của luận án
Luận án ngoài phần mở đầu, tổng quan, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, danh mục công trình (bài báo) của tác giả đã công bố liên quan đến luận
án và phần phụ lục. Luận án đƣợc kết cấu với 03 chƣơng chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của chủ trƣơng đối ngoại trên lĩnh
vực văn hóa
Chương 2: Chủ trƣơng của Đảng về đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa và
sự chỉ đạo thực hiện từ năm 1996 đến năm 2006.
Chương 3: Đánh giá chung và kinh nghiệm từ sự lãnh đạo của Đảng về
hoạt động đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa (1996 – 2006)

8


TỔNG QUAN
1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hoạt động đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa là hình thức giao lưu văn hóa bằng
tiếp xúc và trao đổi qua lại những hoạt động mà hai hoặc nhiều bên căn cứ vào lợi
ích của mình để thực hiện. Khái niệm giao lƣu văn hóa là một khái niệm rộng, với

nhiều sự biểu hiện khác nhau và vì thế lại chứa đựng những nội dung đa dạng,
phong phú nhƣ: giao tiếp văn hóa, trao đổi văn hóa, xâm lƣợc văn hóa, đô hộ văn
hóa, áp đặt văn hóa, hợp tác văn hóa v.v…. Do đó, đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo hoạt động đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa từ năm 1996 đến năm 2006” là
một vấn đề có tính chất liên ngành, vừa là vấn đề chính trị, vừa là một vấn đề văn
hóa – xã hội. Ở mức độ, góc độ khác nhau, đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa cũng là
đối tƣợng nghiên cứu của những ngành học có đối tƣợng nghiên cứu là văn hóa
nhƣ dân tộc học, văn hóa học, tâm lý học, xã hội học, nhân loại học…Hoặc những
ngành học có đối tƣợng nghiên cứu là hoạt động của chủ thể lãnh đạo nhƣ chính trị
học, khoa học ngoại giao…
Trong quá trình khảo sát tƣ liệu, tác giả luận án nhận thấy vấn đề Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa từ năm 1996
đến năm 2006 đƣợc đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu, có thể chia theo 03
nhóm nhƣ sau:
Nhóm 1: Những công trình nghiên cứu về văn hóa nói chung
Văn hóa là một lĩnh vực xã hôi rộng lớn, văn hóa có mặt khắp nơi trong đời
sống của con ngƣời. Nói đến con ngƣời, nói đến xã hội là nói đến văn hóa, có thể
nhận thấy rằng, về một phƣơng diện nào đó, lịch sử phát triển loài ngƣời chính là
lịch sử phát triển văn hóa.
Văn hóa luôn đƣợc hiểu là một khái niệm động , một khái niệm mở . Văn hóa
nếu đƣơcc̣ coi nhƣ môṭđối tƣơngc̣ đểtác hơpc̣ , giao lƣu, hoăcc̣ môṭphƣơng tiêṇ đểthƣcc̣
hiêṇ môṭmucc̣ đich́ vid́ u c̣ nhƣ chinh́ tri c̣ chẳng haṇ thic̀ óthể dùng khái niệm “văn hóa”
nhằm để chỉ trƣớc nhất là các sản phẩm liên quan đến hoạt động trí tuệ và

9


nghê c̣thuâṭsáng taọ , nhƣ: âm nhacc̣, kịch nghệ , múa, hôịhoạ, điêu khắc , văn hocc̣,
điêṇ ảnh, di sản; Hoăcc̣ nhiǹ nhâṇ văn hóa mang tinh́ nhân hocc̣ nhƣ lối sống , truyền
thống vàcác giátri .c̣ Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor taịlê p ̃ hát đôngc̣ Thâpc̣

kỷthếgiới phát triển văn hóa đƣơcc̣ tổchƣ́c taịPari ngày 21/1/1988: “Văn hóa là tổng
thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế
kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền
thống và các thị hiếu – Những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [40]
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa, trong đó đề cập đến các vấn
đề nhƣ bản chất, chức năng, quy luật phát triển của văn hóa. Đặc biệt, các công
trình nghiên cứu về văn hóa đều khẳng định: Một trong những quy luật chung của
sự phát triển văn hóa là quy luật giao lƣu và tiếp biến văn hóa. Từ đó, khái niệm
giao lƣu văn hóa, tiếp biến văn hóa và những đặc trƣng cơ bản của nó đã đƣợc các
nhà nghiên cứu bàn luận rất sâu sắc, công phu. Những công trình tiêu biểu đã đề cập
đến vấn đề này nhƣ: “Cơ sở văn hóa Việt Nam”[226]; “Giao tiếp văn hóa và vai trò
của nó đối với quy luật đổi mới cái 'truyền thống' trong văn hóa các dân tộc Việt
Nam và Đông Nam Á” [205, tr. 39]; “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” [201].
Giao lƣu và tiếp biến văn hóa là quy luật nhìn nhận sự phát triển của văn hóa
trong mối quan hệ không gian với nhiều phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Sự giao lƣu
giữa các nền văn hóa đƣợc coi là một quy luật tất yếu của sự phát triển văn hóa:
“Sự gặp gỡ, đối thoại, thâm nhập vào nhau, tác động lẫn nhau giữa các nền văn hóa
là một hiện tƣợng phổ biến, cần thiết đối với sự phát triển văn hóa của mọi dân tộc,
mọi thời đại” [170, tr. 65 – 76].
Trong quá trình giao lƣu, các nền văn hóa đều đƣợc bổ sung, tiếp nhận và
làm giàu cho nhau, dẫn đến sự biến đổi, phát triển và tiến bộ văn hóa.
Trong cuốn Giáo trình Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, do
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn năm 2000 có viết: “Không một
dân tộc nào, dù có nhiều truyền thống mà có thể đóng cửa và tự túc hoàn toàn về
mặt phát triển. Sức sống nội sinh và nội lực là vốn chính, vốn cơ bản nhƣng việc

10


học hỏi, tham khảo, trao đổi các hiểu biết, kinh nghiệm, sản phẩm bằng các phƣơng

thức khác nhau là hiện tƣợng phổ biến từ xƣa đến nay”[109, tr. 47].
Từ nhận thức giao lƣu văn hóa là một quy luật phát triển của văn hóa đã dẫn
đến quan điểm khẳng định: “Đã là một quy luật khách quan thì sự vi phạm quy luật
dƣới bất cứ hình thức nào, nguyên nhân nào cũng khiến cho nền văn hóa bị trả giá,
hoặc trì trệ chậm phát triển hoặc đứt gãy, thậm chí lụi tàn…lịch sử phát triển văn
hóa nhân loại đã để lại nhiều bài học đắt giá về vấn đề này”[170, tr. 67].
Tính tất yếu của giao lƣu văn hóa và tiếp biến văn hóa cũng là một nội dung
cơ bản đƣợc phân tích kỹ trong các công trình nghiên cứu về văn hóa. Cụ thể, trong
cuốn Giáo trình lý luận văn hóa Mác – Lênin của Phân viện báo chí và Tuyên
truyền xuất bản năm 2002 có nêu lên ba phƣơng diện thể hiện tính tất yếu của giao
lƣu và tiếp biến văn hóa, đó là: Thứ nhất, xuất phát từ bản chất chung của con
ngƣời là tính ngƣời, tính nhân loại; thứ hai, hoạt động trao đổi kinh tế ngay từ hình
thức sơ khai buổi đầu (vật đổi vật) giữa các cộng đồng dân cƣ đã là cơ sở để dẫn
đến hoạt động trao đổi văn hóa, đến lƣợt nó, văn hóa tác động trở lại đối với nhu
cầu trao đổi kinh tế; thứ ba, văn hóa là sản phẩm lao động trí tuệ của con ngƣời mà
qui luật vận động tự thân của nó là trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ
cộng đồng này sang cộng đồng khác.[170, tr. 67 – 68].
Nhiều nhà khoa học nghiên cứu lịch sử, văn hóa của Việt Nam đều khẳng định
giao lƣu văn hóa là một sự tất yếu và cần thiết cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam
nói riêng và sự phát triển chung của đất nƣớc trên tất cả các lĩnh vực, nhất là trong thời
đại mới của thế giới. Giáo sƣ Vũ Dƣơng Ninh – một nhà khoa học Việt Nam có nhiều
công trình nghiên cứu về lịch sử thế giới, trong bài viết “Kinh nghiệm lịch sử và hội
nhập văn hóa thế giới” đã khẳng định: “Thời đại thông tin ngày nay không cho phép
kéo dài nhƣ vậy và đóng cửa nhƣ vậy. Khi mà mỗi sự kiện xảy ra từ một nơi nào đó
trên hành tinh, ngay lập tức, đƣợc truyền đến từng căn phòng thì sự đóng cửa, bƣng
bít, ngăn cản là điều không thể làm đƣợc. Khi đã nhận thức sự giao lƣu văn hóa là một
quy luật tất yếu của đời sống, một nhu cầu tự nhiên của con ngƣời thì thực hiện sự giao
lƣu ấy một cách chủ động, tích cực và có chọn

11



lọc là chọn lựa là phƣơng sách thông minh nhất”[160, tr. 587]. Từ đó, đặt ra một
yêu cầu cấp thiết đối với vấn đề giao lƣu văn hóa trong thời kỳ hội nhập là sự
nghiên cứu một cách nghiêm túc những cái hay, cái dở của văn hóa dân tộc cũng
nhƣ văn hóa quốc tế để tìm ra giải pháp tối ƣu cho sự hội nhập.
Bàn về tính tất yếu của sự giao lưu văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa là
một trong những nội dung của các công trình như: “Tác động của toàn cầu hóa đối
với sự phát triển văn hóa và con người Việt Nam” của GS.TS. Dƣơng Phú
Hiệp[105], cuốn sách là tập hợp các bài phân tích, luận chứng của các nhà nghiên
cứu, học giả đã có những bài viết về vấn đề đối ngoại và đối ngoại trên lĩnh vực văn
hóa, văn hóa đối ngoại, ngoại giao văn hóa nhƣ: GS.TS. Hồ Sĩ Quý, GS.TS.Dương
Phú Hiệp, TS. Nguyễn Thái Yên Hương, TSKH. Lương Văn Kế, GS. TS. Ngô Đức
Thịnh, TS. Hoàng Khắc Nam, Chu Công Phùng… Xoay quanh chủ đề hội nhập văn
hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa, các tác giả đã đƣa ra những lý thuyết bàn về phát
triển văn hóa và con ngƣời trong bối cảnh toàn cầu hóa. Trong đó, có đề cập đến tác
động của toàn cầu hóa đối với sự phát triển văn hóa và con ngƣời Việt Nam – cơ
hội và thách thức, khẳng định: “Hội nhập văn hóa thế giới là một hiện tƣợng tự
nhiên, thƣờng xuyên, có ý thức và không có ý thức. Nó nhƣ một làn gió mang lại
sự trong lành nhƣng cũng không loại trừ khí độc. Không vì sợ hãi khí độc mà đóng
chặt cửa, thi hành chính sách bế quan tỏa cảng. Nhất là trong thời đại toàn cầu hóa
ngày nay, chỉ có rộng mở cánh cửa, hội nhập quốc tế, đón nhận những cái hay, cái
tốt của thế giới mới đi đúng xu thế phát triển của loài ngƣời” [105, tr. 44].
Những nội dung về tính tất yếu của sự giao lƣu văn hóa, còn đƣợc thể hiện
trong các bài viết nhƣ: “Dân tộc và quốc tế trong giao lƣu văn hóa” [48]; “Văn hóa
và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa” [49]; “Toàn cầu hóa văn hóa”[227];
“Giao lƣu văn hóa đối với sự phát triển văn hóa nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay”
[93]; “Bàn về văn hóa văn học” [129].



góc độ coi giao lƣu văn hóa là hoạt động tất yếu diễn ra trong quá trình hội

nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, tác giả Phạm Duy Đức trong bài “Giao lƣu văn hoá
đối với sự phát triển văn hoá nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay” [93], đề cập đến

12


những vấn đề lý luận chung về giao lƣu văn hóa; mối quan hệ biện chứng giữa cái
nội sinh và cái ngoại sinh trong giao lƣu văn hoá; đánh giá vai trò, tác động của các
yếu tố văn hoá truyền thống, các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá tới quá trình giao
lƣu văn hoá và văn hoá nghệ thuật; phân tích thực trạng giao lƣu văn hoá nghệ
thuật và những giải pháp góp phần xây dựng nền văn hoá;
Trong một loạt các công trình mang tính văn hóa học, nhiều tác giả đã rất
công phu luận giải về tính hai mặt của toàn cầu hóa trong quá trình giao lƣu và tiếp
biến văn hóa. Ở đó, các tác giả đều đƣa ra những căn cứ khoa học luận giải cho tính
tất yếu của sự giao lƣu văn hóa, tiếp xúc văn hóa nhƣ: “Việc toàn cầu hóa thị
trƣờng và những tiến bộ vƣợt bậc của hệ thống thông tin làm cho các dân tộc với
những nền văn hóa khác nhau trên thế giới thƣờng xuyên tiếp xúc với nhau
hơn”[92]; “Hợp tác và giao lƣu văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa” [135], cũng là
một công trình bàn luận về tính tất yếu của giao lƣu văn hoá.
Đồng thời với việc chỉ ra tính tất yếu của giao lƣu văn hóa, các công trình
nghiên cứu đều cảnh báo một nguy cơ của toàn cầu hóa là sự “đồng nhất hóa các hệ
thống giá trị và tiêu chuẩn, đe dọa làm suy kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn
hóa, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của nhân loại”[169]
Vai trò của giao lưu văn hóa, mối quan hệ biện chứng giữa giao lưu văn hóa
và sự nâng cao đời sống văn hóa của cộng đồng, là những nội dung đƣợc đề cập
khá nhiều trong các công trình.
Tác giả Hoàng Vinh trong cuốn: “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng
văn hóa ở nƣớc ta” đã viết về mối quan hệ biện chứng giữa giao lƣu văn hóa và sự

nâng cao đời sống văn hóa của cộng đồng: “Giao lƣu văn hóa là sự vận động
thƣờng xuyên gắn với tiến hóa xã hội. Trong đời sống xã hội, giao lƣu càng mạnh
mẽ hơn, mọi sáng tạo văn hóa đƣợc phổ biến và trao truyền rộng rãi, sẽ góp phần
nâng cao đời sống văn hóa của cộng đồng. Đời sống văn hóa của cộng đồng đƣợc
nâng cao là điều kiện cần thiết để mở rộng giao lƣu văn hóa.”[222, tr.93]; “Một
cộng đồng xã hội càng mở rộng sự giao lƣu với bên ngoài, hấp thụ đƣợc nhiều tri
thức mới lạ, làm cho quỹ thông tin xã hội tăng lên sẽ có nhiều tiềm năng sáng tạo

13


văn hóa. Ngƣợc lại, cộng đồng sinh hoạt theo kiểu khép kín, thu mình trong sự tự trị
của những mối quan hệ nội giao sẽ làm khô kiệt tiềm năng sáng tạo, cuối cùng không
tránh khỏi nguy cơ suy thoái”[222, tr. 92], điều này cũng đƣợc bàn đến trong cuốn
“Giao lƣu văn hóa xây dựng tƣơng lai khu vực châu Á – Thái Bình Dƣơng”[152];
Cuốn sách “Một số vấn đề về quản lý Nhà nước kinh tế văn hóa giáo dục trên thế giới
và Việt Nam”[14] là một công trình nghiên cứu đƣa ra những vấn đề khái niệm về
ngoại giao văn hoá và khẳng định tính tất yếu của giao lƣu văn hoá quốc tế trong thời
đại ngày nay: “Ngoại giao văn hóa trong thời đại kinh tế tri thức ngày càng có ý nghĩa
quan trọng, đem lại nhiều hiệu quả to lớn, lâu dài theo phƣơng cách hòa bình, nên
nhiều quốc gia đặc biệt chú trọng. Ngoại giao văn hóa có nội hàm là: sự tổng hòa các
mối quan hệ đối ngoại mang đầy đủ tính hội thông, liên thông và tƣơng thông mà nhà
nƣớc của một quốc gia đứng ra chủ trì, điều hành. Đó là mối quan hệ văn hóa chính
thức (official cultural relation) lấy lợi ích quốc gia, dân tộc (kể cả lợi ích văn hóa dân
tộc) làm chủ thể để tiến hành mọi chiến lƣợc, sách lƣợc bằng thủ pháp văn hóa, con
đƣờng văn hóa.[14, tr.310]; Cuốn “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc”[91] chỉ ra khả năng hội nhập văn hoá thế giới của dân
tộc Việt Nam thông qua việc khái quát lịch sử giao lƣu văn hoá dân tộc, đồng thời
khẳng định vai trò đẩy mạnh giao lƣu văn hoá với thế giới: “Đẩy mạnh giao lƣu văn
hóa với các nƣớc trên thế giới luôn luôn là một nhiệm vụ quan trọng mà thực hiện tốt

sẽ góp phần không nhỏ vào việc xây dựng thành công một nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.”[91, tr. 216]; Cuốn “Một số vấn đề lý luận văn hoá thời kỳ đổi
mới”[119] bàn về bản chất của văn hoá và vai trò của giao lƣu văn hoá trong phát triển
xã hội, khuynh hƣớng phát triển văn hoá Việt nam theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và
đƣờng lối đổi mới của ĐCSVN, khái niệm và vai trò của tài sản, di sản văn hoá, sự
biến thiên của các giá trị xã hội ở giai đoạn mới. Mối quan hệ giữa văn hoá và quản lý
nhà nƣớc, giữa văn hoá và cuộc đấu tranh tƣ tƣởng hiện nay. Phƣơng hƣớng phát
triển văn hoá trong những năm tới; “Giao lưu văn hóa trong thời đại ngày nay”[212, tr.
65 - 68] phân tích thực trạng của văn hóa và vai trò của việc giao lƣu văn hóa trong
thời

14


đại ngày nay; “Vài suy nghĩ về sự phát triển văn hoá trong việc phát huy sức mạnh
tổng hợp của đất nước”[168, tr. 31 - 35], phân tích vai trò của sức mạnh văn hóa
trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nƣớc trong quá trình giao lƣu và
hội nhập quốc tế; “Mấy vấn đề giao lưu văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa”[99,
tr. 45 - 52], bàn về vai trò của giao lƣu văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa; “Giao
lưu văn hoá và sự xích lại gần nhau giữa các nền văn hoá Đông - Tây trong thời
đại ngày nay”[189] phân tích tầm quan trọng của việc giao lƣu văn hóa trong thời
đại ngày nay; “Giao lưu văn hóa và sự phát triển của đất nước trong điều kiện toàn
cầu hóa”[45] phân tích vai trò của giao lƣu văn hóa đối với sự phát triển của đất
nƣớc trong điều kiện toàn cầu hóa đối với Việt Nam; “Đẩy mạnh giao lưu văn hóa
nghệ thuật với thế giới là một nhiệm vụ quan trọng” [119, tr. 11 - 13] phân tích tầm
quan trọng của việc giao lƣu văn hóa nghệ thuật với các nƣớc trên thế giới và trong
khu vực; “Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa quốc tế” [50, tr. 107
- 114]; “Giao lưu văn hoá đối với sự phát triển văn hoá nghệ thuật ở Việt Nam hiện
nay” [94, tr. 63], trình bày thực trạng của văn hóa Việt Nam hiện nay và sự cần
thiết trong việc giao lƣu văn hóa quốc tế; “Giao lưu văn hóa Đông Tây”[116],

chỉ ra tính cấp thiết của việc giao lƣu quốc tế, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của
thế giới; “Mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới”[117, tr. 83
- 86] nêu lên tính cấp thiết của việc giao lƣu quốc tế, tiếp thu những tinh hoa văn
hóa của thế giới và làm giàu thêm bản sắc văn hóa của Việt Nam. “Đối thoại giữa
các nền văn hóa và văn minh vì hoà bình và phát triển bền vững”[162, tr. 4 - 5],
phân tích sự đối thoại, giao lƣu giữa các nền văn hóa và văn minh vì sự hòa bình và
phát triển; Cuốn“Văn hoá vì phát triển” [154] gồm ba phần, có những lý giải liên
quan đến chủ đề hợp tác quốc tế về văn hóa: Phần 1: Mấy vấn đề chung về vai trò
của văn hóa trong phát triển gồm những bài lý luận chung về vai trò văn hóa trong
phát triển và vì phát triển; Phần 3: Văn hóa trong giao lƣu hợp tác quốc tế gồm
những bài nghiên cứu về quá trình giao lƣu văn hóa;
Nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề làm thế nào để giao lưu văn hóa
hiệu quả. Giao lƣu vì hữu nghị, vì lợi ích chung trên nhiều lĩnh vực trong xu thế

15


hội nhập, đồng thời đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bản sắc văn
hóa của đất nƣớc là một công việc vô cùng quan trọng và cấp bách trong thời kỳ đổi
mới hiện nay ở Việt Nam. Chẳng hạn, bài “Phát huy truyền thống và bản lĩnh dân
tộc trong giao lƣu văn hóa với nƣớc ngoài”[87]; “Phát huy sức mạnh nội sinh của
bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam”
[211]; “Điện ảnh của nhu cầu phát triển văn hóa” [104, tr. 271] đề cập một lĩnh
vực của văn hóa đó là điện ảnh Việt Nam phát triển trong bối cảnh hội nhập, tác giả
cuốn sách nhấn mạnh đến vấn đề làm thế nào để điện ảnh Việt Nam giữ đƣợc bản
sắc riêng trên bản đồ văn hóa thế giới trong bối cảnh hội nhập văn hóa toàn cầu…
Nhấn mạnh bản lĩnh của văn hoá Việt Nam trong lịch sử giao lƣu với các nền văn
hoá, từ đó khẳng định tính tất yếu của việc giao lƣu văn hoá với thế giới.
Trong cuốn “Văn hoá vì phát triển”[153] tác giả Phạm Xuân Nam đã khẳng
định: “Trải qua tất cả các cuộc giao lƣu, tiếp xúc ấy, dù bị áp đặt hay tự nguyện, văn


hoá Việt Nam vẫn không những giữ đƣợc bản sắc của mình mà còn trở nên phong
phú thêm nhờ biết thâu nhận và đồng hoá nhiều yếu tố mới từ bên ngoài, đáp ứng
yêu cầu phát triển của đất nƣớc qua các giai đoạn lịc sử, đồng thời phù hợp với hệ
giá trị cội nguồn của văn hoá dân tộc”[153, tr. 55 – 56].
Nghiên cứu những vấn đề về mặt trái của toàn cầu hoá đồng thời chỉ ra định
hƣớng cho phát triển nền văn hoá Việt Nam, trong đó khẳng định sự cần thiết phải
giao lƣu hội nhập với văn hoá thế giới, đó là nội dung cơ bản của cuốn sách
“Phong trào chống mặt trái của toàn cầu hóa và vấn đề đặt ra với Việt Nam”[181,
tr. 30 - 31 và 152]; “Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở mở rộng cánh cửa
giao lưu với các nước” [108, tr. 5 - 7], luận bàn về bản sắc văn hóa dân tộc và sự
cần thiết phải mở cửa giao lƣu với các nƣớc trên thế giới và khu vực; Cuốn “Giao
lưu văn hoá quốc tế và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc” [88, tr. 48] nêu vài nét về
bản sắc văn hóa của dân tộc và phân tích quá trình giao lƣu văn hóa quốc tế và phát
huy bản sắc văn hóa của dân tộc;
Cuốn “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc”[91] khẳng định: “Lịch sử hình thành văn hóa dân tộc nƣớc ta gắn liền với

16


×