Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY DỊCH VỤ TƯ VẤN KẾ TOÁN VÀ KIỂM TOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.89 KB, 24 trang )

Luận văn tốt nghiệp
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY DỊCH VỤ TƯ VẤN KẾ TOÁN VÀ
KIỂM TOÁN - AASC
3.1. NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
3.1.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện lập kế hoạch kiểm toán
Trong kiểm toán Báo cáo tài chính, lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên
của cuộc kiểm toán có vai trò quan trọng chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của
toàn bộ cuộc kiểm toán. Đoạn 2 trong VSA số 300 - Kế hoạch kiểm toán cũng nêu rõ:
“Kiểm toán viên và Công ty kiểm toán phải lập kế hoạch kiểm toán để đảm bảo cuộc
kiểm toán được tiến hành một cách có hiệu quả”. Kế hoạch kiểm toán giúp kiểm toán
viên thu thập được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm cơ sở để đưa ra
các ý kiến xác đáng về Báo cáo tài chính từ đó giúp kiểm toán viên hạn chế những sai
sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp lý, nâng cao hiệu quả công việc và giữ được uy tín
nghề nghiệp với khách hàng. Kế hoạch kiểm toán thích hợp là căn cứ để Công ty kiểm
toán tránh xảy ra những bất đồng với khách hàng. Kế hoạch kiểm toán cũng giúp các
kiểm toán viên phối hợp với nhau cũng như phối hợp hiệu quả với các bộ phận có liên
quan như kiêm toán nội bộ, các chuyên gia bên ngoài
Mặt khác, việc lập kế hoạch kiểm toán tại AASC còn một số tồn tại và bất cập
như đã trình bày ở phần “Thực trạng lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài
chính tại Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán - AASC”. Bởi vậy, để
nâng cao hiệu quả và chất lượng kiểm toán đòi hỏi các tổ chức kiểm toán độc lập phải
không ngừng nghiên cứu, hoàn thiện nội dung, quy trình, phương pháp kiểm toán Báo
cáo tài chính nói chung và lập kế hoạch kiểm toán nói riêng.
Việc đề ra các giải pháp để hoàn thiện lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán
Báo cáo tài chính nhằm nâng cao chất lượng của các tổ chức kiểm toán độc lập ở nước ta
hiện nay là một vấn đề bức thiết có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Mặc dù có nhiều
nội dung phải hoàn thiện, có nhiều giải pháp để thực hiện tốt công tác lập kế hoạch kiểm
toán, song trong phạm vi của luận văn này, em chỉ đề cập đến một số nội dung cơ bản,
cần thiết để hoàn thiện lập kế hoạch kiểm toán tại AASC.


3.1.2. Những phương hướng hoàn thiện lập kế hoạch kiểm toán
Để đáp ứng được những yêu cầu về quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kiểm
toán nói chung và kiểm toán Báo cáo tài chính nói riêng thì lập kế hoạch kiểm toán cũng
phải được hoàn thiện cho phù hợp. Muốn đảm bảo cho việc hoàn thiện lập kế hoạch kiểm
Nguyễn Thị Thu Hương - 1 - Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính có tính khả thi cao thì các nội dung đưa ra phải
đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Phải phù hợp với các chính sách, chế độ quản lý kinh tế hiện hành của Nhà nước,
các chuẩn mực kế toán, kiểm toán đã ban hành và các thông lệ, chuẩn mực kiểm toán
quốc tế phổ biến.
- Phải phù hợp với yêu cầu quản lý của Nhà nước mà trực tiếp là Bộ Tài chính đối
với hoạt động kiểm toán hiện nay.
Để các nội dung hoàn thiện lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài
chính có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, đòi hỏi phải thực hiện tốt các yêu cầu trên một
cách đồng bộ.
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU HOÀN THIỆN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY DỊCH VỤ TƯ VẤN KẾ
TOÁN VÀ KIỂM TOÁN - AASC
3.2.1. Hoàn thiện thủ tục phân tích
3.2.1.1. Bổ sung phân tích các tỷ suất tài chính
Trong kiểm toán Báo cáo tài chính, AASC luôn áp dụng thủ tục phân tích trong
giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, đối với mọi khách hàng của Công ty. Tuy nhiên, đối
với một số khách hàng chẳng hạn như Công ty liên doanh A, thông thường kiểm toán
viên chỉ tiến hành phân tích xu hướng biến động của các khoản mục trên Bảng cân đối
kế toán và trên Báo cáo kết quả kinh doanh mà không thực hiện phân tích các tỷ suất tài
chính. Điều này, sẽ gây ra những hạn chế trong việc thực hiện mục tiêu của thủ tục phân
tích sơ bộ như: việc tìm hiểu về nội dung của toàn bộ Báo cáo tài chính, đánh giá rủi ro
và xác định mức trọng yếu kiểm toán, và xem xét khả năng tiếp tục hoạt động của khách
hàng. Bởi vì kết quả của việc phân tích xu hướng biến động chỉ cho thấy sự biến động,

cũng như nguyên nhân biến động của từng khoản mục riêng lẻ mà chưa chỉ ra được mối
quan hệ giữa các khoản mục đó như thế nào. Hơn nữa, nó cũng không giúp kiểm toán
viên thấy được thực trạng tài chính của khách hàng để từ đó có thể phán đoán ra các sai
sót tiềm tàng có thể xảy ra đối với các khoản mục trên Báo cáo tài chính. Chẳng hạn, đối
với Công ty liên doanh A, nếu kiểm toán viên thực hiện phân tích các tỷ suất tài chính
trên Báo cáo tài chính như phân tích các tỷ suất về khả năng thanh toán, sẽ cho thấy
Công ty đang gặp khó khăn lớn về mặt tài chính, với tỷ suất thanh toán chỉ bằng 0.31 mà
chủ nợ chủ yếu là Công ty LG và Công ty SHINIL, thời hạn nợ đến hết ngày
31/04/2005. Nếu 2 Công ty này không trợ giúp về mặt tài chính mà đòi nợ thì Công ty
liên doanh A sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán và có nguy cơ bị phá sản.
Như vậy, qua phân tích các tỷ suất tài chính cho thấy rủi ro tài chính đối với khách hàng
là rất cao, ảnh hưởng đến khả năng tiếp tục hoạt động kinh doanh của khách hàng, và
các sai sót tiềm tàng có thể xảy ra là có xu hướng hạch toán tăng các khoản mục thuộc
tài sản lưu động như: Tiền mặt, phải thu, hàng tồn kho và hạch toán giảm các khoản nợ
Nguyễn Thị Thu Hương - 2 - Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
phải trả để cải thiện tình hình tài chính của khách hàng. Một ưu điểm nữa trong việc
phân tích các tỷ suất tài chính là tính ổn định tương đối của chúng qua các kỳ, do vậy
bất kỳ một sự thay đổi nào trong chính sách quản lý, chính sách kế toán, cũng như trong
hoạt động kinh doanh của khách hàng cũng rất dễ nhận ra.
Trong quá trình thực hiện thủ tục phân tích sơ bộ, với bất kỳ một khách hàng nào
dù ở quy mô lớn hay nhỏ, đặc điểm kinh doanh phức tạp hay giản đơn thì kiểm toán
viên luôn phải tiến hành phân tích các tỷ suất tài chính. Như vậy sẽ giúp kiểm toán viên
đạt được mục tiêu mong muốn trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, từ đó xây dựng
một kế hoạch kiểm toán phù hợp và hiệu quả hơn cho một cuộc kiểm toán, tránh được
những rủi ro có thể có.
Tuy nhiên, việc sử dụng phân tích các tỷ suất tài chính nào là tuỳ thuộc vào đặc
thù của từng khách hàng và phán đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Mặc dù vậy, để
thuận tiện cho kiểm toán viên trong quá trình sử dụng và từng bước chuẩn hoá công việc
kiểm toán của Công ty. AASC nên xây dựng một hệ thống các tỷ suất tài chính chuẩn

ứng với mỗi ngành kinh doanh cụ thể. Chẳng hạn có thể xây dựng chỉ tiêu các ngành sản
xuất, ngành thương mại, ngành kinh doanh du lịch - khách sạn, ngành ngân hàng - tài
chính, ngành bảo hiểm và các ngành dịch vụ khác...
3.2.1.2. Tăng cường phân tích ngang (Phân tích xu hướng)
Hiện nay, phần lớn đối với tất cả các khách hàng, trong bước so sánh thông tin ở
thủ tục phân tích sơ bộ, số liệu mà kiểm toán viên dùng để so sánh với số liệu được kiểm
toán của năm hiện tại là số liệu của cuối năm trước. Điều này là hợp lý nếu thực hiện so
sánh số liệu trên Báo cáo kết quả kinh doanh (vì số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh
là số luỹ kế) và thực hiện đối với những khách hàng có quy mô nhỏ, các nghiệp vụ phát
sinh trong năm không lớn và phức tạp. Nhưng đối với các khoản mục trên Bảng cân đối
kế toán thì số dư của các khoản mục này là kết quả tổng hợp bù trừ giữa các nghiệp vụ
phát sinh bên Có và bên Nợ của các tài khoản nên chúng thường biến động tăng, giảm
thường xuyên và liên tục qua từng tháng, từng quý, tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh doanh
ở từng thời điểm. Nếu chỉ tiến hành so sánh với số liệu của năm trước thì rất khó tìm ra
nguyên nhân tăng giảm của các khoản mục này, có chăng cũng chỉ phân tích được một
số ít nghiệp vụ điển hình. Điều này sẽ gây ra những hạn chế trong quá trình tìm hiểu
hoạt động kinh doanh của khách hàng, cũng như sự hiểu biết về toàn bộ Báo cáo tài
chính trong niên độ kiểm toán và những thay đổi về chính sách kế toán và chính sách
quản lý trong năm.
Đối với những khách hàng lớn, có nhiều nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong năm,
để hiểu biết rõ hơn về đặc điểm kinh doanh của khách hàng thì ngoài việc so sánh số
liệu năm được kiểm toán với số liệu của năm trước (thường là số liệu ngày 31 tháng 12
của năm), kiểm toán viên nên kết hợp với việc phân tích sự biến động của chúng qua
Nguyễn Thị Thu Hương - 3 - Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
từng quý trong năm (vì số liệu này luôn được khách hàng chuẩn bị và sẵn có), theo mẫu
sau:
Bảng số 3.1 Phân tích sơ bộ trên Bảng cân đối kế toán
Năm trước
Năm nay Chênh lệch

Ghi
chú
Quý I Quý II Quý III Quý IV Tuyệt đối
Tương đối
(%)
(1) (2) (3) (4) (5) (6)=(5)-(1) (7)=(5):(1) (8)
Tài sản
Nguồn vốn
Nếu thực hiện theo mẫu trên, kiểm toán viên sẽ dễ dàng trong việc tìm nguyên
nhân tăng giảm của từng khoản mục ứng với từng thời điểm cụ thể trong năm. Mặt
khác, nó không chỉ giúp cho kiểm toán viên xác định được khoản mục nào có khả năng
xảy ra rủi ro và sai sót trọng yếu mà còn giúp kiểm toán viên xác định được thời điểm
nào có khả năng xảy ra rủi ro và sai sót trọng yếu mà còn giúp kiểm toán viên xác định
được thời điểm nào có khả năng xảy ra rủi ro và sai sót trọng yếu cao (Quý I, II, III hay
IV). Điều này sẽ rất tiện lợi trong việc xác định thời gian, phạm vi và các thủ tục kiểm
toán cần thiết áp dụng cho từng khoản mục trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
3.2.1.3. Bổ sung thu thập và sử dụng các thông tin trong phân tích
Hiện nay, các thông tin tài chính và phi tài chính mà kiểm toán viên thường sử
dụng trong thủ tục phân tích sơ bộ chủ yếu là các thông tin từ trong nội bộ khách hàng
như các Báo cáo kế toán, Báo cáo quản trị... Tuy nhiên, đối với các thông tin bên ngoài
như các thông tin của ngành có liên quan đến hoạt động của khách hàng thì rất hạn chế
trong việc sử dụng, do những nguồn thông tin này ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa được
phổ biến. Điều này sẽ rất rủi ro trong trường hợp các nguồn thông tin mà khách cung
cấp phản ánh thiếu trung thực, đặc biệt là đối với khách hàng mới. Từ đó sẽ khó có thể
đánh giá rủi ro kiểm toán cũng như xây dựng một chương trình kiểm toán sát thực trong
giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
Các thông tin của ngành liên quan đến khách hàng được kiểm toán là những thông
tin rất hữu ích và có độ tin cậy cao. Vì vậy, trong quá trình kiểm toán, AASC cần thu thập và
xây dựng nên một hệ thống các thông tin tài chính quan trọng cho từng ngành cụ thể và tiến
hành cập nhật qua từng năm (chẳng hạn như: các chỉ số về giá cả, tỷ suất lãi gộp, tỷ suất về

khả năng sinh lời của tài sản, tốc độ tăng doanh thu...). Việc xây dựng hệ thống thông tin
trên càng chi tiết cho từng lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh cụ thể thì càng tiện lợi cho việc
sử dụng thông tin trong phân tích của kiếm toán viên.
Nguyễn Thị Thu Hương - 4 - Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
Việc phân chia các tiêu thức về ngành, lĩnh vực hoạt động làm cơ sở để xây dựng
hệ thống thông tin là tuỳ thuộc vào khách hàng hiện tại và tương lai của AASC, các
thông tin được cập nhật phải mang tính phổ biến và đặc trưng của ngành. Chẳng hạn,
với tình hình khách hàng như hiện nay của AASC thì có thể xây dựng thông tin theo các
lĩnh vực như: Ngân hàng, Bảo hiểm, Khách sạn, các khách hàng là đơn vị thuộc lĩnh vực
sản xuất như: Ngành điện lực, ngành dầu khí, ngành than, ngành xi măng, ngành thuốc
lá, ngành sản xuất ôtô... Có thể cụ thể hơn là xây dựng cho các doanh nghiệp quốc
doanh và ngoài quốc doanh.
Việc sử dụng thông tin của ngành có thể được thực hiện theo bảng sau:
Bảng số 3.2: So sánh thông tin
Chỉ tiêu
Năm nay Năm trước
Chênh lệch
(Đơn vị)
Chênh lệch
(Ngành)
Đơn vị Ngành Đơn vị Ngành
(1) (2) (3) (4) (5) (6)=(4)-(2) (7)=(5)-(3)
Chú ý: Trong khi sử dụng các thông tin của ngành kiểm toán viên cần phải xem
xét xem liệu các thông tin của ngành có phù hợp với khách hàng hiện tại không. Trường
hợp các thông tin đó là không phù hợp thì kiểm toán viên không nên sử dụng vì việc so
sánh trên sẽ không có ý nghĩa.
3.2.1.4. Tăng cường phân tích kết quả so sánh
Sau khi thực hiện bước so sánh sự biến động của các số liệu trên Báo cáo tài
chính, kiểm toán viên thường chỉ tiến hành phân tích đối với những khoản mục nào có

sự biến động lớn. Tuy nhiên, không phải những khoản mục không có sự biến động hoặc
có sự biến động nhỏ là không có khả năng xảy ra rủi ro trọng yếu là sai sót tiềm tàng,
đặc biệt là đối với những khoản mục trên Bảng cân đối kế toán. Vì số dư cuối kỳ là kết
quả bù trừ giữa phát sinh bên Nợ và phát sinh bên Có của tài khoản. Do vậy, mặc dù số
dư cuối kỳ không có sự biến động lớn nhưng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong kỳ có
thể lại rất lớn. Vì vậy, nếu không tiến hành phân tích để đánh giá thì việc xác định thời
gian, phạm vi và các thủ tục kiểm toán áp dụng cho các khoản mục này sẽ không sát
thực.
Trong quá trình phân tích sự biến động của các tài khoản, ngoài việc phân tích
các tài khoản có sự biến động lớn, kiểm toán viên cũng cần phải xem xét cả những tài
khoản ít có sự biến động để tìm hiểu nguyên nhân. Việc xác định thêm những tài khoản
nào để tiến hành phân tích là tuỳ thuộc vào kinh nghiệm, sự hiểu biết của kiểm toán viên
về khách hàng và sự đánh giá rủi ro có thể có đối với các tài khoản đó. Cách tốt nhất để
lựa chọn khoản mục nào là nên dựa vào kết quả của việc phân tích các tỷ suất tài chính,
thông qua sự biến động của các tỷ suất tài chính kiểm toán viên sẽ xác định được các tài
khoản liên quan nào cần xem xét và phân tích.
Nguyễn Thị Thu Hương - 5 - Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
Hơn nữa, trong bước phân tích kết quả, bên cạnh việc phân tích nguyên nhân gây
ra sự biến động của các tỷ suất, tài khoản hay khoản mục. Căn cứ vào sự hiểu biết, kinh
nghiệm của kiểm toán viên về khách hàng hoặc từ các thông tin bên ngoài có liên quan
kết hợp với những giải thích ban đầu về các khoản mục trên Báo cáo tài chính của khách
hàng, kiểm toán viên cũng cần có những đánh giá sơ bộ về sai sót tiềm tàng có thể có
đối với khoản mục đó. Điều này sẽ rất thuận tiện cho kiểm toán viên khi thực hiện xây
dựng kế hoạch kiểm toán chi tiết cho từng khoản mục và cho quá trình kiểm tra chi tiết
trong giai đoạn thực hiện kiểm toán.
Bước phân tích kết quả trong phân tích sơ bộ nên được trình bày theo mẫu sau:
Bảng 3.3 Phân tích kết quả so sánh
Ký hiệu Mô tả Phân tích Sai sót tiềm tàng
3.2.2. Hoàn thiện việc đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ trong giai đoạn lập kế

hoạch kiểm toán
Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ tại AASC hiện nay chủ yếu dựa vào Bảng
câu hỏi. Bảng câu hỏi đã được AASC thiết kế và quy định. Tuy nhiên, để hỗ trợ cho các
kiểm toán viên trong việc đưa ra kết luận về hệ thống kiểm soát nội bộ của Công ty
khách hàng, AASC nên đưa ra tiêu thức đánh giá dựa trên Bảng câu hỏi được thiết kế.
AASC có thể dùng cách thức cho điểm đối với mỗi câu hỏi được trả lời có hoặc không.
Khi điểm số thấp hơn một mức nào đó thì hệ thống kiểm soát nội bộ bị đánh giá là trung
bình hoặc yếu. AASC cũng có thể dùng cách thức đánh giá dựa trên phần trăm các câu
trả lời. Nếu khách hàng trả lời không trên một số phần trăm nào đó thì hệ thống kiểm
soát sẽ bị đánh giá là hoạt động không có hiệu quả. Trong trường hợp hệ thống kiểm
soát của khách hàng được đánh giá là yếu (ví dụ: số câu trả lời không là trên 70%) thì
bên cạnh việc không dựa vào Hệ thống kiểm soát nội bộ trong quá trình kiểm toán,
kiểm toán viên cần có ý kiến với Ban Giám đốc của khách hàng.
Việc đưa ra tiêu thức để đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ dựa vào bảng câu hỏi
không những giúp cho kiểm toán viên dễ dàng đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ là
hoạt động có hiệu quả hay không mà còn tạo nên một sự thống nhất trong việc đưa ra
đánh giá giữa các kiểm toán viên khác nhau.
Nếu như việc Bảng câu hỏi cho kiểm toán viên những đánh giá, nhận định các
điểm yếu của hệ thống kiểm soát nội bộ thì vẽ sơ đồ sẽ giúp kiểm toán viên có cái
nhìn tổng quát về hệ thống kiểm soát nội bộ. Kết hợp hai hình thức này sẽ cho phép
kiểm toán viên có sự nhận xét chính xác hơn khi đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ
của khách hàng.
Nguyễn Thị Thu Hương - 6 - Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
Bảng câu hỏi: Một hệ thống kiểm soát nội bộ dù đơn giản hay phức tạp cũng
đều thực hiện 7 mục tiêu cụ thể của kiểm soát nội bộ như: sự phê chuẩn, tính có thật,
tính đầy đủ, sự đánh giá, sự phân loại và trình bày, tính đúng lúc. Do đó, Công ty có thể
thiết kế bảng câu hỏi sử dụng cho mọi cuộc kiểm toán để kiểm tra tính hiệu quả của
kiểm soát nội bộ căn cứ trên 7 mục tiêu trên. Bảng câu hỏi được thiết kế dưới dạng trả
lời “có” hoặc “không” mà những câu trả lời “không” cho thấy nhược điểm của hệ thống

kiểm soát nội bộ.
Ưu điểm của bảng câu hỏi là nhờ sự chuẩn bị sẵn nên kiểm toán viên có thể tiến
hành nhanh chóng và không bỏ sót các vấn đề qan trọng. Nhưng do được thiết kế chung
nên có thể không phù hợp với các nét đặc thù hay quy mô của từng đơn vị.
3.2.2.1. Hoàn thiện việc đánh giá rủi ro kiểm soát
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA số 320 - Tính trọng yếu trong kiểm toán
yêu cầu "Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định mức trọng yếu có
thể chấp nhận được để làm tiêu chuẩn phát hiện những sai sót về mặt định lượng... kiểm
toán viên cần xem xét tính trọng yếu trên cả phương diện mức độ sai sót tổng thể của
Báo cáo tài chính trong mối quan hệ với mức độ sai sót chi tiết của số dư các tài
khoản ..." Mặt khác, theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA 400 – Đánh giá rủi ro và
kiểm soát nội bộ, quy định thì: “Kiểm toán viên phải sử dụng khả năng xét đoán chuyên
môn của mình để đánh giá rủi ro kiểm toán và xác định các thủ tục kiểm toán nhằm
giảm các rủi ro kiểm toán xuống mức có thể chấp nhận được”.
Trọng yếu và rủi ro là vấn đề rất hay được đề cập đến. Nhưng chưa có một tài
liệu, văn bản cụ thể hay Thông tư nào của Bộ Tài chính hướng dẫn cách thức xác định
mức trọng yếu và rủi ro. Đây cũng chính là mặt hạn chế cho các công ty kiểm toán khi
tiến hành xác định mức trọng yếu và rủi ro vì mỗi công ty áp dụng một cách thức xác
định chúng là khác nhau.
 Đánh giá rủi ro khi chấp nhận hợp đồng kiểm toán
Để tạo nên một sự thống nhất trong công tác đánh giá rủi ro khi chấp nhận hợp
đồng kiểm toán, Công ty AASC bên cạnh việc sử dụng bảng câu hỏi đánh giá tính độc
lập của kiểm toán viên và Công ty kiểm toán đối với khách hàng thì nên thiết kế một
bảng câu hỏi đánh giá về tính trung thực của Ban quản lý Công ty khách hàng, khả năng
Công ty có thể kiểm toán cho khách hàng. Đối với công việc đánh giá rủi ro khi chấp
nhận hợp đồng kiểm toán, cùng với việc đánh giá tính độc lập của kiểm toán viên đối
với khách hàng thì đánh giá tính liêm chính của Ban Giám đốc khách hàng, khả năng
Công ty có thể kiểm toán cho khách hàng là điều quan trọng.
Bảng câu hỏi đánh giá này có thể được thiết kế như bảng dưới đây
Nguyễn Thị Thu Hương - 7 - Kiểm toán 44

Luận văn tốt nghiệp
Bảng 3.4: Bảng câu hỏi đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán
Câu hỏi Có Không N/A
1- Tính liêm chính của hội đồng quản trị và Công ty khách hàng: KTV xác định có lý do gì
khiến KTV nghi ngờ sự chính trực của Ban quản lý Công ty khách hàng, cả trong quan hệ với
bên thứ ba, lẫn trong quan hệ với KTV không?
2- Lợi ích kinh tế từ việc kiểm toán cho Công ty khách hàng có cao hơn mức rủi ro đi kèm với
Công ty khách hàng không?
3- Liệu việc chấp nhận kiểm toán cho Công ty khách hàng có làm cho AASC bị tổn thất một
khoản tiền do vướng vào một vụ kiện với Công ty khách hàng hay tổn hại đến uy tín Công ty
AASC không?
4- Liệu AASC có thể cung cấp dịch vụ kiểm toán với chất lượng cao do các KTV có kinh
nghiệm chuyên môn, năng lực ở mức độ phù hợp với công việc cũng như độc lập với khách
hàng không?
….
 Đánh giá rủi ro kiểm soát
Hiện nay tại AASC việc đánh giá rủi ro kiểm soát mới chỉ được đánh giá chung
cho từng khoản mục mà chưa đánh giá theo các cơ sở dẫn liệu đối với các khoản mục
trọng yếu. Để đánh giá rủi ro kiểm soát có hiệu quả cũng như phù hợp theo hướng dẫn
của VSA số 400, AASC nên thiết kế bảng phân tích, đánh giá rủi ro kiểm soát theo từng
cơ sở dẫn liệu đối với các khoản mục trong mối quan hệ kết hợp với các mục tiêu kiểm
soát cho từng loại nghiệp vụ chủ yếu.
Bảng phân tích đánh giá rủi ro kiểm soát theo từng cơ sở dẫn liệu đối với từng
khoản mục có thể được thiết kế như sau
Bảng 3.5: Bảng phân tích đánh giá rủi ro kiểm soát
Áp dụng đối với Các khoản chi tiền mặt
Mục tiêu kiểm soát Kiểm soát của khách hàng Người thực
hiện
Đánh giá
CR

1-Tất cả các nghiệp vụ cần được ghi chép đã được ghi chép
Các khoản chi tiền đều được
ghi chép vào sổ
- Hàng tháng, kiểm kê quỹ tiền mặt và đối
chiếu với sổ quỹ
- Biên bản kiểm kê quỹ được sự xem xét và
kiểm soát bởi kế toán trưởng
-Thủ quỹ
- Kế toán
trưởng
Thấp
2- Tất cả các nghiệp vụ đã ghi chép đều là có thật
a- Các khoản chi tiền đều có
các chứng từ đính kèm và được
phê duyệt đầy đủ
b- Các khoản chi là không có
thật
c- Các khoản chi tiền được ghi
nhiều lần vào sổ
- Phiếu chi tiền được đính kèm các chứng từ
bổ sung như: lệnh chi, giấy đề nghị thanh
toán, hoá đơn, hợp đồng…
- Phiếu chi được xem xét và ký duyệt bởi
trưởng bộ phận, kế toán trưởng, giám đốc
- Người nhận đã ký vào phiếu chi để khẳng
định là đã nhận tiền
- Hàng tháng kiểm kê quỹ tiền mặt và đối
chiếu với sổ quỹ
- Kế toán trưởng xem xét và kiểm soát các
bút toán trước khi chúng được chuyển cho

các bộ phận khác


Người nhận
Thủ quỹ
Kế toán trưởng
Thấp
Nguyễn Thị Thu Hương - 8 - Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
Việc đánh giá như trên sẽ đảm bảo cho kiểm toán viên thuận tiện trong việc đưa
ra kết luận về mức rủi ro kiểm soát. Theo đó, kiểm toán viên cũng dễ dàng hơn trong
bước tiếp theo khi thực hiện các thử nghiệm kiểm soát để khẳng định đánh giá ban đầu
về rủi ro kiểm soát là đúng hay sai. Lúc này, kiểm toán viên sẽ tập trung vào các mục
tiêu kiểm soát chủ yếu.
Đồng thời, AASC cũng nên tham khảo cách thức đánh giá mức trọng yếu và rủi
ro ở các Công ty kiểm toán khác nhau, nhất là các Công ty kiểm toán có uy tín trên thị
trường trong nước và quốc tế.
Ví dụ, tại VACO, hệ thống phương pháp kiểm toán AS/2 cung cấp cho kiểm toán
viên cách xác định mức độ trọng yếu cho từng loại hình doanh nghiệp, được chia thành:
- Đối với các Công ty cổ phần tham gia thị trường chứng khoán, thu nhập sau
thuế được dùng làm chỉ tiêu để xác định mức độ trọng yếu. Mức độ trọng yếu sẽ được
xác định bằng 5 – 10% thu nhập sau thuế.
- Đối với các Công ty không tham gia thị trường chứng khoán, việc xác định mức
trọng yếu được áp dụng trong một số trường hợp: 2% TSLĐ hoặc VCSH, 10% Thu
nhập sau thuế, 0,5% - 3% doanh thu theo tỷ lệ quy định dựa vào quy mô doanh thu.
- Đối với các Công ty là chi nhánh của công ty xuyên quốc gia, mức độ trọng yếu
thường được xác định trên cơ sở doanh thu và ở mức độ cao hơn 2 bậc so với doanh thu
không tham gia thị trường chứng khoán ngang bậc. Tuy nhiên, mức độ trọng yếu phải
nhỏ hơn mức độ trọng yếu được xác định cho công ty mẹ.
Hoặc tại KPMG, Công ty đã thiết kế thành công chương trình phần mềm Tiêu

chuẩn đánh giá kiểm toán Audit Gauge. Chương trình này dựa trên cơ sở Tổng tài sản
hoặc tổng doanh thu của đơn vị được kiểm toán. Như vậy, từ giai đoạn lập kế hoạch,
kiểm toán viên đã có thể xác định được các khoản mục trọng yếu cần kiểm tra chi tiết và
không mất nhiều thời gian để kiểm tra tổng thể.
3.2.2.2. Hoàn thiện thiết kế chương trình kiểm toán
Việc thiết kế chương trình kiểm toán theo hướng chi tiết hoá các thử nghiệm
kiểm toán cơ bản theo từng cơ sở dẫn liệu bị ảnh hưởng bởi các sai sót tương ứng với
từng rủi ro đã xác định giúp cho kiểm toán viên dễ dàng tiếp cận các phương pháp kiểm
toán để hạn chế các rủi ro tương ứng. Việc làm này mang tính hướng đích, tạo cho kiểm
toán viên thấy rõ mối quan hệ giữa việc đánh giá rủi ro kiểm toán với việc áp dụng các
thủ tục kiểm toán trong Chương trình kiểm toán. Ngoài ra, nó giúp cho chương trình
kiểm toán dễ hiểu hơn, đáp ứng hợp lý tình hình thực tế tại từng đơn vị khách hàng.
Hiện tại Chương trình kiểm toán mà AASC thiết kế chưa bao hàm các cơ sở dẫn
liệu bị ảnh hưởng bởi các sai sót tương ứng với từng rủi ro đã xác định. Việc này gây
khó khăn cho kiểm toán viên khi thực hiện các thủ tục kiểm toán cơ bản. Do đó, để
chương trình kiểm toán được hoàn thiện và dễ hiểu hơn, kiểm toán viên nên đưa thêm
Nguyễn Thị Thu Hương - 9 - Kiểm toán 44

×