Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 140 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGC DUNG

HOàN THIệN PHáP LUậT Về QUảN Lý NHà NƯớC
ĐốI VớI DOANH NGHIệP KHOA HọC Và CÔNG NGHệ
QUA THựC TIễN TỉNH THANH HóA

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2020


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGC DUNG

HOàN THIệN PHáP LUậT Về QUảN Lý NHà NƯớC
ĐốI VớI DOANH NGHIệP KHOA HọC Và CÔNG NGHệ
QUA THựC TIễN TỉNH THANH HóA
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s nh nc v phỏp lut
Mó s: 8380101.01

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN HONG ANH

H NI - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Đỗ Ngọc Dung


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ ...................................................................................... 8
1.1.

Quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ......... 8


1.1.1. Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ - khái niệm và đặc điểm.............. 8
1.1.2. Quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ khái niệm, đặc điểm ............................................................................. 13
1.2.

Pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa
học và Công nghệ .............................................................................. 18

1.2.1. Khái niệm, vai trò của pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với
doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ............................................... 18
1.2.2. Nội dung, đặc điểm của pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với
Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ .............................................. 21
1.3.

Tiêu chí và nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà
nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ...................... 25

1.3.1. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh
nghiệp Khoa học và Công nghệ .......................................................... 25
1.3.2. Nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với
doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ............................................... 28


1.4.

Pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa
học và Công nghệ ở một số quốc gia trên thế giới và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam ............................................................... 29

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 37
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ - QUA THỰC TIỄN TỈNH
THANH HÓA ....................................................................................................39
2.1.

Quá trình phát triển và thực trạng pháp luật về quản lý nhà
nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ..................... 39

2.1.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối
với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ......................................... 39
2.1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về quản lý nhà nƣớc đối với
doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ............................................... 43
2.2.

Thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh
nghiệp Khoa học và Công nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ............. 81

2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc trong thực hiện pháp luật về quản lý nhà
nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa .................................................................................... 81
2.2.2. Những hạn chế và kinh nghiệm rút ra từ thực hiện pháp luật về
quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ................................................................ 86
2.3.

Đánh giá thực trạng pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với
doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ............................................ 91

2.3.1. Những ƣu điểm.................................................................................... 91
2.3.2. Những nhƣợc điểm và nguyên nhân ................................................... 92

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 98


CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP KHOA
HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..........................100
3.1.

Quan điểm hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với
doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ .......................................... 100

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp
Khoa học và Công nghệ đảm bảo cho doanh nghiệp Khoa học và
Công nghệ phát triển mạnh mẽ hơn cả về số lƣợng và chất lƣợng.... 100
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp
Khoa học và Công nghệ đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả ........ 101
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp
Khoa học và Công nghệ đồng thời chú trọng hoàn thiện và phát
huy vai trò của các công cụ, phƣơng tiện quản lý khác .................... 101
3.2.

Một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà
nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ở Việt
Nam hiện nay ................................................................................... 102

3.2.1. Rà soát, đánh giá, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định về quản
lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ............. 102
3.2.2. Đảm bảo thực hiện nghiêm pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với
doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ............................................. 110
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3.............................................................................. 114

KẾT LUẬN .................................................................................................. 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 118
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 126


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DN KH&CN:

Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ

DN:

Doanh nghiệp

DNKN:

Doanh nghiệp khởi nghiệp

HĐND:

Hội đồng nhân dân

KHCN:

Khoa học và Công nghệ

QLNN:

Quản lý Nhà nƣớc


SXKD:

Sản xuất kinh doanh

TNDN:

Thu nhập doanh nghiệp

UBND:

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, Việt Nam đã có những thay đổi mạnh mẽ về cơ
chế quản lý cũng nhƣ xây dựng chính sách nhằm huy động mọi nguồn lực
phát triển KH&CN. Doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp KH&CN, đã đƣợc xác
định là trung tâm để đổi mới và ứng dụng KH&CN. Doanh nghiệp KH&CN
đƣợc thành lập từ các tổ chức, cá nhân có quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp
các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Doanh nghiệp
KH&CN không chỉ là cầu nối đƣa nhanh các tiến bộ KH&CN vào sản xuất,
đời sống mà còn đóng vai trò nhƣ một lực lƣợng sản xuất chủ lực, tạo ra
những sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Phát triển doanh nghiệp KH&CN là
một trong những nhiệm vụ quan trọng đƣợc Đảng và Nhà nƣớc đặt ra và
quyết tâm triển khai thực hiện. Xác định đƣợc tầm quan trọng của doanh
nghiệp KH&CN trong phát triển kinh tế xã hội, Thanh Hóa cũng sớm có chủ
trƣơng, định hƣớng phát triển doanh nghiệp KH&CN. Tuy nhiên so với doanh
nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh, tỷ lệ doanh nghiệp KH&CN còn ít,
một số doanh nghiệp KH&CN sau khi thành lập hoạt động còn khó khăn.

Trong những yếu tố ảnh hƣởng đến sự hình thành và phát triển của các doanh
nghiệp KH&CN thì pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN là yếu
tố đặc biệt quan trọng.
Pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN, bên cạnh ƣu điểm
cơ bản là đã quy định đƣợc những vấn đề chủ yếu nhằm đạt đƣợc mục tiêu
phát triển nhanh và mạnh mẽ đội ngũ doanh nghiệp KH&CN, vẫn đang còn
một số hạn chế. Những hạn chế có thể dễ dàng nhận thấy là: một số văn bản
quy phạm pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN còn chồng
chéo, thiếu sự thống nhất; pháp luật QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN
còn chƣa kịp điều chỉnh một số nội dung trong thực tiễn QLNN đối với doanh
nghiệp KH&CN; tính rõ ràng, minh bạch của một số quy định của pháp luật

1


về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN còn hạn chế; tính khả khi của một
số quy định của pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN còn thấp.
Chính vì thế, việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với
doanh nghiệp KH&CN là vấn đề hết sức cần thiết. Do vậy, tôi đã chọn đề tài
"Hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN qua thực tiễn
tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành lý luận và lịch sử
nhà nƣớc và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về
QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN:
- Công trình “Doanh nghiệp KH&CN Việt Nam – thực trạng và giải pháp
phát triển” (2014) của Nguyễn Vân Anh, Nguyễn Hồng Hà, Lê Vũ Toàn. Tại
công trình này các tác giả đã chỉ ra hai vấn đề: Một là, pháp luật liên quan đến
doanh nghiệp KH&CN tại Việt Nam chƣa đồng bộ với các Luật trong một số
lĩnh vực có liên quan (ví dụ nhƣ Luật Đất đai), dẫn tới việc doanh nghiệp

KH&CN chƣa đƣợc hƣởng ƣu đãi theo quy định. Hai là, thiếu các văn bản
hƣớng dẫn triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách trong ngành, khiến các
nội dung ƣu đãi cũng chƣa thể triển khai trong thực tiễn [1].
- Công trình “Doanh nghiệp KH&CN theo pháp luật Việt Nam” (2017)
của Nguyễn Văn Lâm. Tại công trình này, tác giả cho rằng những bất cập của
pháp luật về doanh nghiệp KH&CN hiện nay là: Thứ nhất, thiếu văn bản hƣớng
dẫn Luật KH&CN năm 2013. Thứ hai, pháp luật về doanh nghiệp KH&CN tại
Việt Nam chƣa đồng bộ với các luật trong một số lĩnh vực có liên quan (ví dụ
nhƣ Luật Đất đai), dẫn tới doanh nghiệp KH&CN chƣa đƣợc hƣởng các ƣu đãi
về quyền sử dụng đất. Thứ ba, các quy định về chính sách ƣu đãi đối với
doanh nghiệp KH&CN chƣa đồng bộ, thiếu thống nhất với quy định của Luật
KH&CN năm 2013, dẫn đến việc khó thực thi. Thứ tƣ, thủ tục đăng ký doanh

2


nghiệp KH&CN rƣờm rà, phức tạp gây khó khăn cho doanh nghiệp, khiến
doanh nghiệp e ngại không muốn đăng ký. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền,
phổ biến thông tin về ƣu đãi tới doanh nghiệp chƣa kịp thời, nên dẫn đến tình
trạng các doanh nghiệp chƣa thực sự hiểu đƣợc quyền lợi khi trở thành doanh
nghiệp KH&CN [41].
- Trong bài viết “Khó khăn trong tiếp cận chính sách ưu đãi dành cho
doanh nghiệp KH&CN” (2019), Hà Linh cho rằng: Bộ KH&CN cần có văn
bản hƣớng dẫn thực hiện đối với các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN
đầu tƣ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, ƣu tiên xác lập quyền sở
hữu trí tuệ, sử dụng miễn phí máy móc, trang thiết bị tại các phòng thí nghiệm
trọng điểm quốc gia, cơ sở ƣơm tạo công nghệ... Nếu quy định chung chung
nhƣ tại Nghị định 13/2019/NÐ-CP, không có mức hỗ trợ bao nhiêu, thủ tục
thực hiện, quy trình, hồ sơ nhƣ thế nào thì địa phƣơng không thể triển khai
đƣợc. Một số chính sách khác hấp dẫn doanh nghiệp hơn cũng khiến doanh

nghiệp không mặn mà trở thành doanh nghiệp KH&CN (nhƣ chính sách hỗ
trợ về thuế, đất đai theo Nghị định 210/2013/NÐ-CP về khuyến khích doanh
nghiệp đầu tƣ vào nông nghiệp, nông thôn...) [58].
- Trong bài viết “Quá ít doanh nghiệp KH&CN - vì sao?” (2019), tác giả
Quang Vũ nêu ra thực trạng: Bà Rịa - Vũng Tàu hiện có khoảng 500 doanh
nghiệp đủ khả năng đáp ứng các tiêu chí để đƣợc công nhận là doanh nghiệp
khoa học - công nghệ (DN KHCN). Trong khi, hiện chỉ có 4 DN đƣợc công
nhận. Đây là con số quá khiêm tốn. Nguyên nhân DN chƣa mặn mà thành lập
DN KHCN là do một số DN hiện vẫn chƣa thực sự quan tâm đến các chính
sách của hoạt động KHCN, cũng nhƣ đăng ký thành lập DN KHCN. Phản ánh
từ một số DN thì việc thành lập DN KHCN trên lý thuyết rất nhiều ƣu đãi hấp
dẫn, tuy nhiên trên thực tế để đạt DN KHCN thì vô cùng khó khăn. Đặc biệt,
khi đã vào vƣờn ƣơm hay đăng ký độc quyền sáng chế, DN phải khai báo chi
tiết về công nghệ, mô tả sáng kiến của mình nên rất dễ bị mất thông tin, bí

3


quyết quy trình công nghệ. Bên cạnh đó, DN chƣa thấy đƣợc nhiều lợi ích khi
đƣợc công nhận là DN KHCN, kể cả việc miễn giảm thuế [64].
- Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và Quản lý “Giải pháp phát triển Doanh
nghiệp KH&CN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa” (2019) của Cao Thị Ngọc Hà.
Tác giả đã đề ra một số giải pháp phát triển doanh nghiệp khoa học và công
nghệ: Khuyến khích đầu tƣ và phát triển nghiên cứu KH&CN trong doanh
nghiệp bằng vốn trong và ngoài ngân sách; Khuyến khích chuyển giao, ứng
dụng các thành tựu KH&CN; Hoàn thiện nhóm các quy định về điều kiện để
đƣợc chứng nhận là doanh nghiệp KH&CN; Hoàn thiện nhóm các quy định
về thủ tục công nhận doanh nghiệp KH&CN; Hoàn thiện nhóm các quy định
về chính sách ƣu đãi, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN; Hoàn thiện
nhóm các quy định về tài chính cho hoạt động nghiên cứu và phát triển

KH&CN; Hoàn thiện nhóm các quy định về hoạt động ƣơm tạo công nghệ,
ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN; Xây dựng chính sách khuyến khích liên kết
viện, trƣờng - doanh nghiệp - nhà khoa học nhằm thúc đẩy hình thành các
doanh nghiệp KH&CN [38].
- Trong bài viết “Thanh Hóa: Giải pháp phát triển doanh nghiệp
KH&CN” (2019), tác giả Nguyễn Ngọc Túy cho rằng giải pháp để các doanh
nghiệp KH&CN Thanh Hóa phát triển bền vững gồm: Thứ nhất, phải có sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và chính quyền các cấp từ tỉnh đến cơ
sở. Thứ hai, thực hiện cơ chế khuyến khích thông qua triển khai thực hiện các
chƣơng trình, dự án cụ thể; tổ chức các hoạt động xúc tiến chính sách để các
doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận, nắm bắt đƣợc các cơ chế, chính sách của
Nhà nƣớc. Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phƣơng tiện
thông tin đại chúng phong phú, phù hợp với từng đối tƣợng một cách hiệu
quả. Thứ tƣ, bố trí đội ngũ cán bộ có năng lực và tâm huyết để theo dõi và
trực tiếp tổ chức thực hiện chính sách; đồng hành cùng với các doanh nghiệp,
hỗ trợ, giúp đỡ, tƣ vấn cho các doanh nghiệp. Và phải đƣợc hoạt động theo

4


phƣơng châm “Chủ động tìm đến doanh nghiệp” chứ không thụ động chờ các
doanh nghiệp tìm đến... [63].
Nhƣ vậy, các công trình nêu trên dù đã có những thành công trong việc
chỉ ra thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển doanh nghiệp KH&CN ở nƣớc
ta nhƣng mới dừng lại ở mức độ đề cập giải quyết một số khía cạnh của vấn đề,
những hiện tƣợng đơn lẻ của thực tiễn phát triển doanh nghiệp KH&CN. Đặc
biệt từ góc độ pháp luật, chƣa có một công trình nghiên cứu sâu, đầy đủ, có
trọng tâm, trọng điểm và toàn diện về vấn đề pháp luật về QLNN đối với doanh
nghiệp KH&CN.
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu: làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
của pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN, từ đó đề xuất những
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN
ở Việt Nam hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu: Các văn bản quy phạm pháp luật có các quy
định về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN đƣợc ban hành ở Việt Nam.
Thực trạng thực hiện pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN ở
Thanh Hóa. Các tài liệu nghiên cứu chủ yếu là các văn bản quy phạm pháp
luật có liên quan đến hoạt động QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN trên
địa bàn tỉnh từ khi có Nghị định 80/2007/NĐ-CP (năm 2007) đến nay; các
văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản khác do Tỉnh Thanh Hóa ban
hành trong giai đoạn 2011 - 2019 có liên quan đến KH&CN; các báo cáo tổng
kết công tác hằng năm của ngành KH&CN Thanh Hóa.
- Phạm vi nghiên cứu: Đối với các văn bản quy phạm pháp luật: đƣợc
ban hành từ năm 2007 (năm ban hành Nghị định 80/2007/NĐ-CP, Nghị định
đầu tiên về doanh nghiệp KH&CN) đến hết năm 2019; đối với thực trạng thực

5


hiện pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN ở Thanh Hóa: từ năm
2014 (năm công nhận doanh nghiệp KH&CN đầu tiên) đến hết năm 2019.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn này có các nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của pháp luật về QLNN đối với doanh
nghiệp KH&CN.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp
KH&CN và thực trạng thực hiện pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp
KH&CN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
- Nghiên cứu các giải pháp hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với

doanh nghiệp KH&CN.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận duy vật lịch sử và
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
Nhà nƣớc và Pháp luật, quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền, về chính sách, phƣơng hƣớng, nhiệm vụ cải cách tƣ pháp…
Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu, trong Luận văn sử dụng kết hợp
các phƣơng pháp: phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu; phƣơng pháp phân tích,
tổng hợp; phƣơng pháp so sánh; phƣơng pháp thống kê; phƣơng pháp
chuyên gia…
6. Điểm mới của luận văn
Luận văn đã làm rõ đƣợc những vấn đề chung của pháp luật về QLNN
đối với doanh nghiệp KH&CN: khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về
QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN.
Luận văn đã làm rõ đƣợc thực trạng pháp luật về QLNN đối với doanh
nghiệp KH&CN; đánh giá đƣợc tình hình thực hiện pháp luật về QLNN đối

6


với doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, chỉ ra những yếu
kém, tồn tại và nguyên nhân.
Luận văn đã đề xuất đƣợc quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, Luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận của pháp luật về quản lý Nhà nƣớc đối với
doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về quản lý Nhà

nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ - qua thực tiễn ở tỉnh
Thanh Hóa
Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý Nhà
nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ ở Việt Nam hiện nay.

7


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Ở nƣớc ta, pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN là một
bộ phận quan trọng của pháp luật hành chính và hệ thống pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, khái niệm pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN
vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống. Đến nay
trong khoa học pháp lý ở Việt Nam, vẫn chƣa có đƣợc một quan niệm thống
nhất, hoàn chỉnh về pháp luật trong QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN.
Để làm sáng tỏ quan niệm pháp luật về quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp KH&CN thì trƣớc hết cần làm rõ 2 vấn đề: (i) khái niệm và đặc điểm
của “doanh nghiệp KH&CN”; (ii) khái niệm và đặc điểm của "QLNN đối với
doanh nghiệp KH&CN".
1.1. Quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ
1.1.1. Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ - khái niệm và đặc điểm
1.1.1.1. Khái niệm
Doanh nghiệp KH&CN xuất hiện trên thế giới từ khoảng giữa thế kỷ
XX, xuất phát từ mô hình spin-off (doanh nghiệp khởi nguồn) và start-up
(doanh nghiệp khởi nghiệp) đƣợc hình thành ở các nƣớc công nghiệp phát
triển. Spin-off đƣợc khởi nguồn từ Trƣờng đại học (tách ra hoạt động độc lập
từ các Trƣờng đại học), do các cá nhân tạo ra các tài sản KH&CN tham gia
vào quá trình quản lý của doanh nghiệp. Start - up chỉ sự khởi nghiệp của một

doanh nghiệp mới hình thành trên nền tảng kết quả KH&CN [65]. Mặc dù có
sự khác nhau giữa spin-off và start-up, nhƣng giữa chúng đều có đặc điểm
chung là: (1) Khởi đầu một doanh nghiệp mới dựa trên kết quả KH&CN; (2)
Doanh nghiệp có khả năng thực hiện đổi mới và thƣơng mại hóa các kết quả
KH&CN để sản xuất các loại sản phẩm mà ngƣời tiêu dùng có nhu cầu.

8


Tại Việt Nam, thuật ngữ doanh nghiệp KH&CN đƣợc đề cập lần đầu
tiên vào năm 1980, trong kết luận của Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành
Trung ƣơng Đảng khóa IX: “Từng bƣớc chuyển các tổ chức KH&CN thực
hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang cơ chế tự
trang trải kinh phí, hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp” [3].
Theo Luật KH&CN năm 2013, doanh nghiệp KH&CN là doanh nghiệp
thực hiện sản xuất, kinh doanh, dịch vụ KH&CN để tạo ra sản phẩm, hàng
hoá từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ [50].
1.1.1.2. Đặc điểm
Doanh nghiệp KH&CN có các đặc điểm: Là doanh nghiệp đƣợc thành
lập, đăng ký kinh doanh, tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật
doanh nghiệp; Có năng lực thực hiện nhiệm vụ KH&CN; Doanh thu từ việc
sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá hình thành từ kết quả nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ đạt tỷ lệ theo quy định. Để hiểu rõ đặc điểm
của doanh nghiệp KH&CN, cần phân biệt nó với một số đối tƣợng sau:
a) Phân biệt doanh nghiệp KH&CN với doanh nghiệp (nói chung)
Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch,
đƣợc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh
doanh [52].
Điểm giống nhau dễ nhận thấy đó là mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động
của doanh nghiệp và doanh nghiệp KH&CN đều theo mô hình tổ chức, cơ chế

của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp và doanh nghiệp KH&CN khác nhau ở một số điểm.
Điểm khác biệt đầu tiên là về năng lực thực hiện nhiệm vụ KHCN. Doanh
nghiệp KH&CN phải có năng lực thực hiện nhiệm vu KH&CN; còn doanh
nghiệp thì không bắt buộc phải có năng lực này. Thứ hai, doanh nghiệp
KH&CN phải có tỷ lệ doanh thu sản xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ

9


kết quả nghiên cứu đạt từ 30% trở lên; còn doanh nghiệp không bắt buộc phải
đạt tỷ lệ 30% này.
b) Phân biệt doanh nghiệp KH&CN với tổ chức KH&CN
Tổ chức KH&CN là tổ chức có chức năng chủ yếu là nghiên cứu khoa
học, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ KH&CN,
đƣợc thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật [33].
Hai loại hình này giống nhau ở chỗ: năng lực thực hiện nhiệm vụ KHCN
đều là yếu tố bắt buộc phải có đối với doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN.
Điểm khác nhau đầu tiên là về tỷ lệ doanh thu sản xuất, kinh doanh sản
phẩm hình thành từ kết quả nghiên cứu. Doanh nghiệp KH&CN phải có tỷ lệ
doanh thu sản xuất, kinh doanh sản phẩm từ kết quả nghiên cứu đạt từ 30%
trở lên; còn tổ chức KH&CN thì không bắt buộc phải đạt tỷ lệ 30% này.
Điểm khác nhau thứ hai là doanh nghiệp KH&CN có mô hình tổ chức
và cơ chế hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp; nhƣng tổ chức KH&CN thì
không bắt buộc thực hiện theo cơ chế này.
c) Phân biệt doanh nghiệp KH&CN với doanh nghiệp công nghệ cao
Căn cứ Điều 18 Luật Công nghệ cao năm 2008; Điều 75 Luật Đầu tƣ
năm 2014 và Điều 1 Quyết định số 19/2015/QĐ-TTg thì doanh nghiệp công
nghệ cao là doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chí: (i) Doanh nghiệp sản xuất sản
phẩm công nghệ cao thuộc Danh mục sản phẩm công nghệ cao đƣợc khuyến

khích phát triển; (ii) Doanh nghiệp phải áp dụng các biện pháp thân thiện môi
trƣờng, tiết kiệm năng lƣợng trong sản xuất và quản lý chất lƣợng sản phẩm
đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam; trƣờng hợp chƣa có tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam thì áp dụng tiêu chuẩn của tổ chức
quốc tế chuyên ngành; (iii) Doanh thu từ sản phẩm công nghệ cao của doanh
nghiệp phải đạt ít nhất 70% trong tổng doanh thu thuần hàng năm; (iv) Tổng
chi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển đƣợc thực hiện tại Việt Nam trên

10


tổng doanh thu thuần hàng năm đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ phải đạt ít
nhất 1%. Đối với các doanh nghiệp có tổng nguồn vốn trên 100 tỷ đồng và
tổng số lao động trên 300 ngƣời tỷ lệ này phải đạt ít nhất 0,5%; (v) doanh
nghiệp vừa và nhỏ phải đạt ít nhất 5% số lƣợng lao động có trình độ chuyên
môn từ đại học trở lên trực tiếp thực hiện nghiên cứu và phát triển trên tổng số
lao động của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp có nguồn vốn trên 100
tỷ đông và tổng số lao động trên 300 ngƣời tỷ lệ này phải đạt ít nhất 2,5%
nhƣng không thấp hơn 15 ngƣời [48], [51], [56].
Dễ dàng nhận thấy điểm giống nhau của doanh nghiệp KH&CN và
doanh nghiệp công nghệ cao là ở chỗ: hai loại hình đều là doanh nghiệp
Tuy vậy, doanh nghiệp KH&CN và doanh nghiệp công nghệ cao có hai
điểm khác nhau. Thứ nhất, doanh nghiệp KH&CN phải có năng lực thực hiện
nhiệm vụ KHCN; còn doanh nghiệp công nghệ cao thì không bắt buộc phải có
năng lực này. Thứ hai, doanh nghiệp KH&CN phải có tỷ lệ doanh thu sản
xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả nghiên cứu từ 30% trở lên;
còn doanh nghiệp công nghệ cao thì không bắt buộc phải đạt tỷ lệ 30% này.
d) Phân biệt doanh nghiệp KH&CN với doanh nghiệp nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao
Doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là doanh nghiệp

đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 19 Luật công
nghệ cao, cụ thể: (i) Ứng dụng công nghệ cao thuộc Danh mục công nghệ cao
đƣợc ƣu tiên đầu tƣ phát triển quy định tại Điều 5 của Luật công nghệ cao để
sản xuất sản phẩm nông nghiệp; (ii) Tạo ra sản phẩm nông nghiệp có chất
lƣợng, năng suất, giá trị và hiệu quả cao, doanh thu từ sản phẩm nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao của doanh nghiệp đạt ít nhất 60% trong tổng số doanh
thu thuần hàng năm; (iii) Có hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm ứng dụng công
nghệ cao, chuyển giao công nghệ để sản xuất sản phẩm nông nghiệp, tổng chi

11


cho hoạt động nghiên cứu và phát triển đƣợc thực hiện tại Việt Nam trên tổng
doanh thu thuần hàng năm đạt ít nhất 0,5%; số lao động có trình độ chuyên
môn từ đại học trở lên trực tiếp thực hiện nghiên cứu và phát triển trên tổng số
lao động của doanh nghiệp đạt ít nhất 2,5%; (iv) Áp dụng các biện pháp thân
thiện môi trƣờng, tiết kiệm năng lƣợng trong sản xuất và quản lý chất lƣợng
sản phẩm nông nghiệp đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam hoặc
tiêu chuẩn quốc tế [48].
Điểm giống nhau của Doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao và doanh nghiệp KH&CN là đều tổ chức và hoạt động theo mô hình tổ
chức và cơ chế doanh nghiệp; đều phải có năng lực thực hiện nhiệm vụ KHCN.
Điểm khác nhau giữa 2 loại hình này là: doanh nghiệp KH&CN có tỷ lệ
doanh thu sản xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả nghiên cứu
phải đạt tỷ lệ từ 30% trở lên; còn Doanh nghiệp công nghệ cao không bắt
buộc phải đạt tỷ lệ 30% này.
Nhƣ vậy, đặc trƣng của Doanh nghiệp KH&CN là tỷ lệ doanh thu sản
xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả nghiên cứu bắt buộc phải đạt
30% trở lên.
Qua nội dung nghiên cứu trên có thể thấy rằng doanh nghiệp KH&CN

là sự “hòa trộn” giữa doanh nghiệp và tổ chức KH&CN. Đây là điểm cần
đặc biệt lưu ý khi nghiên cứu về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN cũng
như nghiên cứu về pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN.
1.1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ
Vai trò của doanh nghiệp KH&CN đƣợc thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp KH&CN đƣợc coi là cầu nối giữa các kết quả
nghiên cứu, ứng dụng KH&CN đƣợc chuyển giao vào trong sản xuất sản
phẩm, hàng hóa. Các doanh nghiệp KH&CN chính là nơi trực tiếp ứng dụng
thành công các kết quả nghiên cứu KH&CN mà doanh nghiệp có quyền sở

12


hữu và sử dụng hợp pháp để sản xuất sản phẩm. Hay nói cách khác, vai trò
của doanh nghiệp KH&CN nhằm thƣơng mại hóa, ứng dụng kết quả nghiên
cứu KH&CN vào đời sống kinh tế - xã hội. Hơn nữa, doanh nghiệp KH&CN
cũng chính là nơi tiếp thu thành tựu KH&CN của thế giới để tạo ra, ứng dụng
có hiệu quả công nghệ mới, tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao.
Doanh nghiệp KH&CN góp phần phát triển nền KH&CN Việt Nam đạt trình
độ tiên tiến trong khu vực, tiếp cận với trình độ thế giới, làm cơ sở vững chắc
cho việc phát triển các ngành công nghiệp hiện đại, đẩy mạnh việc phổ biến
và ứng dụng thành tựu KH&CN vào sản xuất và đời sống.
Thứ hai, doanh nghiệp KH&CN đóng vai trò nhƣ một chủ thể kinh tế
sản xuất chủ lực, tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội. Đây là những doanh nghiệp có sự kết nối giữa các nhà
khoa học và thực tiễn thị trƣờng, đã góp phần đƣa ra thị trƣờng những sản
phẩm, dịch vụ tốt đáp ứng nhu cầu xã hội. Doanh nghiệp KH&CN sẽ là
phƣơng thức chuyển giao công nghệ nhanh nhất bởi sự ra đời và phát triển
của các doanh nghiệp KHCN sẽ tạo điều kiện để huy động tối đa và sử dụng
có hiệu quả nguồn lực KH&CN phục vụ cho sự phát triển của đất nƣớc, là

nguồn tạo công ăn việc làm ổn định, góp phần nâng cao đời sống địa phƣơng.
Thứ ba, doanh nghiệp KH&CN còn có vai trò tạo ra việc làm mới, thu
hút các lao động có trình độ, tay nghề, đƣợc đào tạo thành nguồn nhân lực
KH&CN cho chính doanh nghiệp và thị trƣờng lao động.
1.1.2. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ
- khái niệm, đặc điểm
1.1.2.1. Khái niệm
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý. Tuy nhiên, các quan niệm
về quản lý đều thể hiện 3 yếu tố: ai quản lý; quản lý cái gì; quản lý nhằm đạt
đƣợc cái gì? Tƣơng ứng với 3 yếu tố đó là: chủ thể quản lý; đối tƣợng quản
lý; mục tiêu quản lý. Quản lý đƣợc hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý

13


đến đối tƣợng quản lý nhằm đạt đƣợc mục tiêu quản lý. Có nhiều dạng quản
lý khác nhau. Nếu phân theo đối tƣợng quản lý thì quản lý gồm có các dạng
sau: (i) Quản lý giới vô sinh (hay quản lý kỹ thuật): đối tƣợng quản lý là các
vật vô tri, vô giác (nhƣ nhà xƣởng, thiết bị, máy móc...; (ii) Quản lý giới sinh
vật: đối tƣợng quản lý là các vật hữu sinh (nhƣ cây trồng, vật nuôi ...); (iii)
Quản lý xã hội con ngƣời: đối tƣợng quản lý là con ngƣời (trong các tổ chức,
đoàn thể, xã hội và trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, KH&CN). Trong quản
lý xã hội con ngƣời, nếu xét từ góc độ chủ thể quản lý thì sẽ có các dạng cụ
thể của quản lý xã hội nhƣ QLNN, quản lý doanh nghiệp. vv ...
QLNN một dạng của quản lý xã hội con ngƣời. Đây là dạng quản lý xã
hội mà nhà nƣớc là chủ thể quản lý.
QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN là QLNN mà đối tƣợng quản lý
là doanh nghiệp KH&CN.
Theo giáo trình về QLNN của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh (1996) thì:

Quản lý hành chính nhà nƣớc là dạng quản lý xã hội mang tính
quyền lực nhà nƣớc với chức năng chấp hành luật và tổ chức thực
hiện luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp và hành chính
nhà nƣớc (hệ thống Chính phủ và chính quyền địa phƣơng [39].
Trong sách Luật hành chính Việt Nam (2005), PGS.TS Đinh Văn Mậu
và PGS.TS Phạm Hồng Thái cho rằng:
QLNN là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà
nƣớc đối với quá trình xã hội và hành vi hoạt động của công dân do
các cơ quan hành pháp từ Trung ƣơng đến cơ sở tiến hành để thực
hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nƣớc, phát triển các
mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh, thỏa mãn những nhu cầu
hàng ngày của nhân dân [42].

14


Từ các quan niệm về QLNN nêu trên, chúng ta có thể hiểu: QLNN đối
với doanh nghiệp KH&CN cũng nhƣ bất kỳ một dạng quản lý xã hội nào
khác, là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ máy nhà nƣớc – là công việc
của bộ máy hành pháp. Nó là sự tác động có tổ chức và đƣợc điều chỉnh bằng
pháp luật, trên cơ sở quyền lực nhà nƣớc đối với các quá trình xã hội và hoạt
động của doanh nghiệp KH&CN do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ
thống hành pháp từ trung ƣơng đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và
nhiệm vụ của nhà nƣớc.
Với ý nghĩa hành chính là chấp hành (thực thi) pháp luật, Chính phủ và
các cơ quan hành chính đối với doanh nghiệp KH&CN có quyền (lập quy)
ban hành các quy tắc và các quyết định hành chính cho phép hoặc cấm đoán
một cách áp đặt và buộc đối tƣợng có liên quan phải chấp hành; có quyền
kiểm tra việc thực hiện pháp luật về doanh nghiệp KH&CN và các quyết định
mà nó ban hành; có quyền xử lý các tình huống quản lý bằng biện pháp cƣỡng

chế đối với các vi phạm hành chính kể cả trƣờng hợp các chủ thể từ chối thực
hiện nghĩa vụ pháp lý nhằm phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm pháp luật đối với
doanh nghiệp KH&CN.
Tuy nhiên, để thực hiện đƣợc những quyền hạn trên cần có những quy
định chung về tổ chức bộ máy và nhân sự thực hiện những hoạt động hành
chính có hiệu lực, hiệu quả; đồng thời xác lập một trật tự chuẩn mực trong việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong từng quan hệ pháp luật về
QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN. Với tính "vƣợt trội" của thiết chế hành
chính, chính phủ nắm giữ công quyền hành pháp theo nghĩa cƣỡng chế của tổ
chức luôn có xu hƣớng tự định trong ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
- ƣu tiên mở rộng và tăng cƣờng quyền lực không hạn chế nhằm cai quản nhiều
hơn là thực hiện nghĩa vụ xã hội. Do vậy, cần đặt bộ máy hành pháp nói chung,
các cơ quan hành chính quản lý doanh nghiệp KH&CN nói riêng trong sự kiểm

15


soát của các quyền lập pháp, hành pháp và sự tham gia của các tổ chức xã hội,
công dân để tránh xu hƣớng lạm dụng quyền lực.
Những hoạt động có tính công quyền của hành chính nhà nƣớc phải
đƣợc kiểm soát, chịu sự ràng buộc bởi pháp luật do quyền lực chung - quyền
lực nhà nƣớc ban hành. Hành chính nói chung, hành chính đối với doanh
nghiệp KH&CN nói riêng đƣợc toàn quyền hành động quản lý và phục vụ
nhƣng phải đặt mình trong khuôn khổ pháp luật, tuân thủ pháp luật. Những
quyết định hành chính làm tổn hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp KH&CH phải bị hủy bỏ và bị truy cứu trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại.
Hành chính nhà nƣớc đối với doanh nghiệp KH&CN là một bộ phận
của nền hành chính nhà nƣớc, theo đúng nghĩa là sự QLNN đối với doanh
nghiệp KH&CN. Nó xuất hiện cùng với thiết chế hành chính nhà nƣớc, quản
lý công vụ quốc gia, cụ thể là công việc của bộ máy hành pháp thực hiện chức

năng đối nội và đối ngoại của nhà nƣớc đối với doanh nghiệp KH&CN.
1.1.2.2. Đặc điểm
QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN mang các đặc điểm chung của
QLNN, đó là: tính tổ chức, điều chỉnh; tính quyền lực; tính khoa học, liên tục.
Tính tổ chức, điều chỉnh tác động QLNN rất phong phú, đa dạng, có
nhiều đặc trƣng và có ý nghĩa riêng. Khác với các hình thức tác động khác nhƣ
đào tạo, giáo dục, tác động QLNN là một hình thức tác động có tổ chức và mang
tính điều chỉnh. Điều đó có nghĩa là sự tác động này phải đặt con ngƣời vào các
mối quan hệ tổ chức nhất định, nhƣ quan hệ sản xuất, quan hệ công vụ...
Tổ chức có nghĩa là xây dựng các mối quan hệ giữa con ngƣời với con
ngƣời trong cộng đồng, xã hội, trong mọi lĩnh vực của cuộc sống con ngƣời.
Tổ chức là sự tập hợp mọi ngƣời để đạt đƣợc những mục đích nhất định. Tổ
chức không phải là những hoạt động mà tổ chức là tạo ra các điều kiện cho
các hoạt động thực tiễn.

16


Tính điều chỉnh của QLNN thể hiện sự tác động quản lý ấy nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong quá trình phát triển.
Đặc điểm tính quyền lực: QLNN không chỉ thuần tuý là ban hành văn
bản quy phạm pháp luật, ban hành các quyết định quản lý. Điều quan trọng là
những văn bản, quyết định đó đƣợc thực hiện nhƣ thế nào trong cuộc sống.
Để đảm bảo đƣợc điều này phải dựa vào quyền lực nhà nƣớc. Chỉ có quyền
lực nhà nƣớc mới đảm bảo cho các cơ quan quản lý thực hiện việc tổ chức,
điều chỉnh bằng các biện pháp cƣỡng chế khác nhau.
Quyền lực nhà nƣớc và QLNN là hai mặt của một vấn đề, không tách
rời nhau. Thực hiện quyền lực chính là quản lý. Trong quá trình thực hiện
quản lý, quyền lực đƣợc xem nhƣ là một trong các công cụ quan trọng nhất.
Quyền lực nhà nƣớc đƣợc thể hiện trƣớc hết trong các văn bản quy

phạm pháp luật. Do vậy, các văn bản quy phạm pháp luật trong quá trình thực
hiện đã đảm bảo cho QLNN. Về phần mình QLNN lại phải đảm bảo sao cho
các quy phạm pháp luật đƣợc thực hiện một cách đầy đủ trong cuộc sống. Bởi
vậy, không thể tách rời quyền lực nhà nƣớc với QLNN.
Về tính khoa học, tính liên tục, dễ thấy QLNN thể hiện khả năng tổ
chức, điều chỉnh xã hội một cách có ý thức. Để đạt đƣợc hiệu quả cao, QLNN
phải tuân theo các quy luật tự nhiên và xã hội. Bởi vậy có thể nói rằng, tác
động QLNN là một hình thức tác động có căn cứ khoa học.
Tính liên tục của QLNN đƣợc thể hiện rõ nét trong mối liên hệ giữa
quyền lực và quản lý. Tính liên tục của quản lý thể hiện ở chỗ: khi Quốc hội đã
thông qua một đạo luật nào đó, và để cho đạo luật này đƣợc thực hiện trong
cuộc sống, thì cần phải có sự tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nƣớc ở các
cấp, các ngành, thậm chí cả cƣ dân. Chính điều này tạo ra sự liên tục của
QLNN. Tính liên tục là một đặc điểm quan trọng của các quá trình quản lý.

17


QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN là sự “hòa nhập” giữa QLNN
đối với doanh nghiệp và QLNN về KH&CN
Sự “hòa nhập” này xuất phát từ chỗ: doanh nghiệp KH&CN (là đối
tƣợng của QLNN về doanh nghiệp KH&CN) chính là kết quả của sự “hòa
nhập” giữa doanh nghiệp với KH&CN.
Chính vì thế, QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN gồm: (i) QLNN
đối với doanh nghiệp; (ii) QLNN đối với KH&CN; (iii) QLNN đối với phần
“hòa nhập” giữa doanh nghiệp với KH&CN.
QLNN đối với phần “hòa nhập” giữa doanh nghiệp với KH&CN bao gồm:
QLNN đối với hoạt động liên quan đến ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN; QLNN
đối với hoạt động liên quan đến công nhận doanh nghiệp KH&CN; QLNN đối với
hoạt động liên quan đến ƣu đãi đối với doanh nghiệp KH&CN.

1.2. Pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp Khoa học
và Công nghệ
1.2.1. Khái niệm, vai trò của pháp luật về quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ
1.2.1.1. Khái niệm
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà
nƣớc đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nƣớc của giai cấp thống trị trên
cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, đƣợc đảm bảo thực hiện
bằng nhà nƣớc, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn
định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội.
Pháp luật về QLNN đối với doanh nghiệp KH&CN, hiểu theo nghĩa
rộng nhất, là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nƣớc
đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nƣớc của giai cấp thống trị trên cơ sở
ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, đƣợc đảm bảo thực hiện bằng
nhà nƣớc, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định

18


×