Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ của viêm não do virus Herpes Simplex

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019

Nghiên cứu Y học

ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ CỦA VIÊM NÃO
DO VIRUS HERPES SIMPLEX
Nguyễn Đình Nguyện*, Lê Văn Phước**, Đỗ Hải Thanh Anh***

TÓMTẮT
Đặt vấn đề: Viêm não do virus Herpes simplex (HSE) là một nhiễm trùng thần kinh cấp tính nặng, tỉ lệ tử
vong cao và để lại nhiều di chứng nặng nề. Cộng hưởng từ (CHT) có thể giúp chẩn đoán sớm HSE để điều trị
sớm, cải thiện tỉ lệ tử vong.
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm hình ảnh của HSE trên CHT sọ não và đánh giá vai trò của chuỗi xung khuếch
tán trong chẩn đoán HSE.
Đối tượng và phương pháp: 31 bệnh nhân HSE điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/1/2013 đến 31/3/2018
có chụp CHT sọ não. Phương pháp: Mô tả cắt ngang đặc điểm hình ảnh.
Kết quả: Tuổi trung bình 46,06 (25 – 82 tuổi), nam/nữ = 1,3/1. Cả 31 trường hợp (100%) có viêm thùy thái
dương, 21 trường hợp (71%) có viêm thùy đảo, 20 tường hợp (64,5%) có viêm thùy trán. Tín hiệu hình ảnh của
vùng viêm đơn thuần thấp trên T1W, cao trên T2W, FLAIR và DWI. Các chuỗi xung T2W, FLAIR và DWI đều
phát hiện được hầu hết các tổn thương, tuy nhiên chuỗi xung DWI phát hiện tổn thương ở mức tín hiệu “rất rõ”
với tỉ lệ cao (93,5%).
Kết luận: Thùy thái dựơng là vị trí thựờng gặp trong HSE. Chuỗi xung DWI có giá trị nhất trong chẩn
đóan HSE.
Từ khoá: viêm não do virus Herpes simplex (HSE)

ABSTRACT
MAGNETIC RESONANCE IMAGING CHARACTERIZATION OF ENCEPHALITIS BY HERPES
SIMPLEX VIRUS
Nguyen Dinh Nguyen, Le Van Phuoc, Đo Hai Thanh Anh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 1- 2019: 09-16
Background: Herpes simplex virus encephalitis (HSE) is a severe acute neurological infection, high


mortality and severe sequelae. Magnetic resonance imaging can help diagnose early HSE for early treatment,
improving mortality.
Objective: Describe the image characteristics of HSE on MRI and evaluate the role of diffuse sequence
in HSE diagnostics.
Subjects and methods: 31 patients with HSE, diagnosed and treated at Cho Ray hospital, between
1/1/2013 and 31/03/2018, were included in this study. This study is a retrospective analysis, Cross-sectional
description of image characteristics.
Results: Average age 46.06 (25 - 82 years), male / female = 1.3 / 1. In all 31 cases (100%) with temporal
lobe disease, 21 cases (71%) had insula lobe, 20 cases (64.5%) had frontal lobe disease. Visual signal of the
low-level inflammatory region on T1W, high on T2-weighted, FLAIR and DWI. T2W, FLAIR and DWI
pulse sequences detect most of the lesions, but the DWI pulse series detects lesions at a "very clear" signal
*Khoa Chẩn đoán Hình Ảnh, Bệnh viện Đa khoa Thiên Hạnh
**Khoa Chẩn đoán Hình Ảnh, Bệnh viện Chợ Rẫy
***Bộ môn Chẩn đoán Hình Ảnh, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Đình Nguyện ĐT: 03668485667
Email:

Chuyên Đề Ngoại Khoa

9


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019

level (93.5%).
Conclusions: Temporal lobe is a common occurrence in HSE. DWI sequence is most valuable in HSE
diagnostics.
Keyword: herpes simplex virus encephalitis (HSE)


ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm não do virus Herpes simplex (HSE) là
bệnh lý nhiễm trùng thần kinh cấp tính, xảy ra
rải rác, gây tử vong ở người lớn. HSE chiếm
khoảng 10% đến 20% của tất cả các viêm não do
virus, với tỉ lệ mắc hàng năm là 1/250.000 đến
500.000.
Biểu hiện lâm sàng là hội chứng não cấp
gồm: sốt, đau đầu, cổ cứng, thay đổi tính cách,
suy giảm ý thức đột ngột, động kinh cục bộ hoặc
toàn thể, các dấu hiệu thần kinh khu trú như yếu
liệt, bất thường về cảm giác, mất ngôn ngữ,
khiếm khuyết thị giác hoặc liệt dây thần kinh sọ.
Viêm não do HSV (Herpes simplex virus) có tỉ
lệ tử vong khoảng 70% nếu không được điều trị,
trường hợp điều trị kịp thời thì tỉ lệ tử vong
cũng khoảng 19% và hơn 50% số trường hợp
sống sót có sự thiếu sót thần kinh mức độ vừa
đến nặng, tỉ lệ phục hồi hoàn toàn sau viêm não
không quá 3%(2,3,14).
Xét nghiệm Polymerase Chain Reaction
(PCR) dịch não tủy có độ nhạy là 98%, độ đặc
hiệu là 94%, giá trị tiên đoán dương là 95%,
giá trị tiên đoán âm là 98% và được xem là tiêu
chuẩn vàng thay thế cho sinh thiết não trước
đây để chẩn đoán xác định HSE(1,3). Tuy nhiên
kết quả có được thường chậm, sau vài ngày (27 ngày)(19) và chỉ có ít trung tâm lớn mới thực
hiện được.
X quang cắt lớp vi tính (XQCLVT) mặc dù

phổ biến, thời gian chụp nhanh, nhưng hình ảnh
XQCLVT sọ não có độ nhạy thấp và độ đặc hiệu
không cao. XQCLVT thường âm tính trong hơn
25% trường hợp nếu chụp trong tuần lễ thứ nhất
kể từ khi bệnh khởi phát. Hình ảnh cộng hưởng
từ (CHT) là một kỹ thuật có giá trị, được xem
như lựa chọn đầu tay trong chẩn đoán bệnh
viêm não do Herpes simplex. Kỹ thuật CHT, đặc
biệt khi kết hợp với CHT khuếch tán sẽ nhạy

10

hơn trong phát hiện các thay đổi sớm ở não, chỉ
trong vòng vài giờ kể từ lúc phát bệnh(2,4).
Vì vậy, để góp phần vào việc nghiên cứu vai
trò của hình ảnh CHT trong chẩn đoán viêm não
do virus Herpes simplex, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Đặc điểm hình ảnh cộng
hưởng từ của viêm não do virus Herpes simplex”
với hai mục tiêu cụ thể sau:
Mô tả đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ của
viêm não do virus Herpes simplex.
Đánh giá vai trò của chuỗi xung khuếch tán
trong chẩn đoán viêm não do virus Herpes
simplex.

ĐỐITƯỢNG -PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU
Đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang. Tiêu
chuẩn chọn mẫu là các bệnh nhân (BN) được
chẩn đoan ra viện HSE và có kết quả xét nghiệm

PCR dương tính với HSV và có chụp CHT sọ
não điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/1/2013
đến 31/3/2018. Loại trừ những BN chụp không
đủ các chuỗi xung T1W, T2W, FLAIR và DWI
hoặc hình bị xảo ảnh.
Phương pháp tiến hành
Từ danh sách BN chẩn đóan ra viện HSE,
đọc hồ sơ để lọc ra những bệnh nhân thỏa điều
kiện nghiên cứu.
Kỹ thuật chụp
Tất cả bệnh nhân được chụp bằng máy Máy
CHT 1.5 và 3.5 Tesla tại khoa Chẩn đoán hình
ảnh – bệnh viện Chợ Rẫy, có hoặc không tiêm
chất tương phản.
Các chuỗi xung thường quy trong khảo sát
sọ não với cuộn thu vùng đầu, bao gồm: T1W,
T2W, FLAIR, T2-GRE và T1W +G. Các thông số
chụp như sau:
T1W: TR: 500, TE: 11, độ dày lát cắt 5mm,
khoảng cách 1,5 mm, trường khảo sát (FOV):
173 x 230 mm và ma trận ảnh 144 x 322.

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Hình T2W: TR: 3550, TE: 97, độ dày lát cắt
5mm, khoảng cách 2,5 mm, trường khảo sát
(FOV): 230x230 mm và ma trận ảnh 256x256.
Hình FLAIR: TI: 2500, TE: 98, TR: 8500

mm, độ dày lát cắt 5mm, khoảng cách 2.5 mm,
trường khảo sát (FOV): 173 x 230 mm và ma
trận ảnh 268 x 512.
Hình T2-GRE: TR: 800, TE: 26, độ dày lát cắt
5mm, khoảng cách 2.5 mm, trường khảo sát
(FOV): 173 x 230 mm và ma trận ảnh 144 x 256.
Các thông số khảo sát cộng hưởng từ
khuếch tán:
TR: 3000, TE: 94, độ dày lát cắt 5mm, khoảng
cách 2,5 mm, trường khảo sát (FOV): 173 x 230
mm và ma trận ảnh 154 x 192,
Dãi tần số 1294, độ chênh từ 22 mT, độ
chênh từ kéo dài 31 ms và khoảng cách chênh 42
ms ở ba hướng không gian,
Hình DWI thu được ở các giá trị b = 0, 500,
1000 bằng chuỗi xung EPI, kỹ thuật xóa mỡ đặt
trước các chuỗi xung khảo sát,
Hình ảnh bản đồ ADC được tính toán theo
phần mềm của máy và hiển thị đồng thời sau
khi nhận các hình DWI với giá trị b = 1000.
Những đặc điểm được mô tả bao gồm một
số đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
(tuổi, giới, lý do vào viện) và các đặc điểm trên
CHT bao gồm: vị trí, tín hiệu, mức độ tín hiệu
(không rõ, khá rõ và rất rõ), đặc điểm bắt
thuốc tương phản, xuất huyết, giá trị hệ số
khuếch tán biểu kiến.
Phân tích thống kê
Nhập và phân tích số liệu bằng excel 2010 và
phần mềm SPSS 20.

Các biến số định tính được mô tả bằng tần
số, tỉ lệ phần trăm. Tính trung bình và độ lệch
chuẩn cho biến định lượng có phân phối bình
thường, trung vị và khoảng tứ vị cho biến định
lượng phân phối không bình thường.
So sánh hai trung bình bằng phép kiểm t, xác
định mối liên quan giữa hai yếu tố sử dụng
phép kiểm chính xác Fisher. Các phép kiểm
được xem là có ý nghĩa thống kê khi P < 0,05.

Chuyên Đề Ngoại Khoa

Nghiên cứu Y học

KẾTQUẢ
Đặc điểm chung
Trong 31 BN của mẫu nghiên cứu, tuổi trung
bình là 46,06  2,83 (25 – 82 tuổi) với 18 (58,1%)
BN nam và 13 (41,9%) BN nữ. Hầu hết BN nhập
viện vì có suy giảm ý thức (93,6%)
Đặc điểm về vị trí
Tổn thương thùy thái dương gặp trong 100%
trường hợp (1 bên 38,7% và 2 bên 61,3%), thùy
đảo 71% (1 bên 40,9%, 2 bên 50,1%) và thùy trán
64,5% (1 bên 35% và 2 bên 65%), thùy chẩm
12,9% và các vị trí khác 16,1%.
Đặc điểm về tín hiệu
Trên chuỗi xung T1W tổn thương giảm tín
hiệu chiếm 77,4%, đồng tín hiệu là 22,6%.
Trên các chuỗi xung T2W, FLAIR và DWI:

các tổn thương đều tăng tín hiệu
Đặc điểm bắt thuốc tương phản
Nhu mô có bắt thuốc tương phản là 13/30
(43,3%) và 17/30 (56,7%) không bắt thuốc tương
phản. Trong đó bắ thuốc dạng đám 69,2%, dạng
lấm tấm 30,85.
Màng não có bắt thuốc tương phản 16/30
(53,3%) và 14/30 (46,7%) không bắt thuốc
tương phản.
Đặc điểm xuất huyết
Có 6/31 (19,4%) xuất huyết và 25/31 (80,6%)
không xuất huyết.
Mức độ phát hiện tổn thương trên các chuỗi xung
Trên chuỗi xung T1W thì: Tỉ lệ tổn thương
thấy không rõ là 35,5%, thấy khá rõ là 58% và rất
rõ là 6,5%.
Trên chuỗi xung T2W thì: Tỉ lệ thấy khá rõ là
74,2%, thấy rất rõ là 25,8%.
Trên chuỗi xung FLAIR thì: Tỉ lệ thấy tổn
thương khá rõ là 25,8%, thấy rất rõ là 74,2%.
Trên trên DWI thì: tỉ lệ thấy khá rõ tổn
thương là 6,5% và thấy rất rõ là 93,5%.
Hệ số khuếch tán biểu
Hệ số khuếch tán biểu kiến trung bình của
mô não viêm là 0,540 ± 0,110 x 103 mm2/s thấp

11


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019


Nghiên cứu Y học

hơn mô não bình thường 0,830 ± 0,080 x 103
mm2/s, khác biệt có ý nghĩa thống kê với hệ số
p<0,001.

BÀNLUẬN
Vị trí viêm não

Viêm thuỳ thái dương
Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi gặp
trong 100% trường hợp, tỉ lệ này tương đồng với
kết quả của các tác giả khác như Dagsdóttir HM
và cs(4) là 96%, của Sili U và cs(17) 100%, của
Granerod J và cs(7) 93%. Tỉ lệ này cao hơn không
nhiều các nghiên cứu khác của Domingues RB
và cs(6) tổn thương thuỳ thái dương là 77,78%, tỉ
lệ này cũng cao hơn tỉ lệ tổn thương thuỳ thái
dương trong một báo khá sớm về CHT là nghiên
cứu của Demaerel PH. và cộng sự năm 1992(5)
thì tổn thương thuỳ thái dương gặp trong 62,5%
(Bảng 1, Hình 1).
Viêm thuỳ thái dương hai bên (mũi tên),
tín hiệu cao trên các chuỗi xung FLAIR (A) và
DWI (D), bắt thuốc tượng phản dạng đám trên
hình T1W+Gd (B) ở thùy thái dương phải, giá
trị ADC thấp tương ứng vị trí tổn thương (mũi
tên hình C). Nguồn Bn Trần Văn B, SHS:
2160094273.

Tổn thương thùy thái dương một bên trong
nghiên cứu của chúng tôi là có 38,7% và tổn
thương ở cả hai bên là 61,3%. Trong khi đó
nghiên cứu của Dagsdóttir H.M. và cs thì tổn
thương một bên thuỳ thái dương là 79% và tổn
thương cả hai bên chỉ có 21%(4), sự khác biệt này
cũng có thể giải thích là do tình trạng nhập viện
muộn nên đã làm tổn thương lan rộng. Nghiên
cứu của Demaerel PH và cs(5), cũng ghi nhận tổn
thương thuỳ thái dương một bên gặp trong
62,5% và và tổn thương cả hai bên thuỳ thái
dương là 37,5%. Theo y văn tổn thương thuỳ
thái dương một bên là thường gặp hơn hai bên.
Hiện tượng này phù hợp với cơ chế lây lan nội
sọ dọc theo các nhánh màng não của dây thần
Bảng 1. So sánh viêm thuỳ thái dương
Tác giả
Thuỳ thái dương

12

Chúng tôi
100%

Dagsdóttir
96%

kinh sinh ba cùng bên. Tuy nhiên, theo thời gian
sau đó tổn thương có thể mở rộng ra các vùng
khác của não như thuỳ trán, thuỳ đảo, vùng

hạch nền(3,10). Tỉ lệ viêm thùy thái dương 2 bên
trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn 1 bên có
thể giải thích do các bệnh nhân trong mẫu
nghiên cứu của chúng tôi có thời gian vào viện
cũng như thời gian được chụp CHT kể từ khi
bệnh khởi phát là khá muộn, vì vậy đã làm tổn
thương lan rộng ra những vùng khác.

Viêm thuỳ trán
Viêm thuỳ trán nói chung trong nghiên cứu
của chúng tôi là 64,5%. Tỉ lệ này tương đồng với
kết quả nghiên cứu của Demaerel PH và cs(5) là
62,5%, nhưng thấp hơn nghiên cứu của
Granerod J và cs(7) viêm thuỳ trán gặp trong
100% trường hợp. Như vậy, viêm thuỳ trán
cũng là một dấu hiệu thường thấy trong HSE, nó
phù hợp với cơ chế bệnh sinh của HSE là virus
lây lan dọc theo dây thần kinh trán (một nhánh
của dây thần kinh sinh ba)(11) (Hình 2).
Viêm thuỳ trán 2 bên gặp nhiều hơn thuỳ
trán 1 bên, chiếm 65%, trong đó chủ yếu là viêm
thùy trán dưới (95%).
Viêm thuỳ đảo
Viêm thuỳ đảo trong nghiên cứu của chúng
tôi là 71%, trong đó 1 bên là 40,9% và 2 bên
chiếm 59,1%. Qua đó chúng tôi nhận thấy, tổn
thương thùy đảo cũng là một dấu hiệu thường
gặp trong viêm não do virus Herpes simplex
(Hình 3).
Viêm thùy chẩm

Viêm thùy chẩm trong nghiên cứu của
chúng tôi gặp 4/31 (12,9%). Mặc dù tổn viêm
thùy chẩm không thường gặp trong HSE, tuy
nhiên qua nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy
thùy chẩm cũng có thể bị tổn thương trong viêm
não do HSV (Hình 4).

Uluhan
100%

Granerod
93%

Domingues
77,7%

Demaerel
62,5%

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019

Nghiên cứu Y học

Hình 1: Viêm thùy thái dương 2 bên do HSV

Hình 2: Viêm thuỳ trán hai bên (mũi tên trắng) và thùy đảo hai bên (mũi tên đen), tín hiệu cao trên các hình
FLAIR (A) và DWI (C), không bắt tượng phản trên hình T1W+Gd (B), giá trị ADC thấp trên hình ADC (D) tại

vị trí tương ứng (mũi tên). Nguồn BN Trương Hương N, SHS: 2170097275.

Hình 3. Viêm thùy thái dương phải (đầu mũi tên), thùy trán hai bên (mũi tên đen), thùy đảo hai bên (mũi tên
trắng), thùy chẩm phải (mũi tên xanh) tín hiệu cao trên các hình FLAIR (A) và hình DWI (C), không bắt thuốc
tương phản trên hình T1W+Gd (B), giá trị ADC thấp đo ở thùy chẩm phải (mũi tên) trên hình ADC (D).
Nguồn BN Rơ ông Ha N, SHS: 2160057301.

Hình 4. Viêm thuỳ đảo phải

Chuyên Đề Ngoại Khoa

13


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019

Các vị trí khác
Chúng tôi gặp 5 trường hợp (16,1%) có tổn
thương các vị trí khác ngoài các vị trí đã mô tả
ở trên, cụ thể là: 2 trường hợp có tổn thương
nhân bèo, 2 trường hợp tổn thương đồi thị và 1
trường hợp tổn thương thể chai. Như vậy, tổn
thương não trong HSE ngoài vị trí hay gặp là ở
thuỳ thái dương và thuỳ trán và thuỳ đảo thì
cũng có thể gặp tại các vị trí khác như vùng
nhân xám, thể chai, … với tỉ lệ thấp hơn.
Viêm thuỳ đảo phải (mũi tên dài) và nhân
bèo phải (mũi tên ngắn), tín hiệu cao trên hình

FLAIR (A), DWI (C), không bắt tương phản
trên T1W + Gd (B), giá trị ADC thấp đo trên
hình ADC (D) tại vị trí tổn thương nhân bèo
phải (mũi tên). Nguồn BN Phạm Văn L, SHS:
2170005928.
Trên thế giới cũng có nhiều báo cáo trường
hợp tổn thương HSE ngoài thuỳ thái dương
(không kèm tổn thương thuỳ thái dương), ví
dụ báo cáo của Tsuboguchi S và cs(18), HSE vỏ
não thuỳ đỉnh trái và được chẩn đoán nhầm là
nhồi máu não hay báo cáo của Haggiag S và
cs(8) HSE thuỳ đỉnh bên phải. Theo đó, các tác
giả này lưu ý rằng trên những bệnh nhân suy
giảm miễn dịch cần được cảnh giác ở mức cao
với HSE nếu có sốt và có tổn thương não ngoài
thuỳ thái dương.
Tuy nhiên, trong mẫu nghiên cứu của
chúng tôi không có trường hợp nào tổn thương
ngoài thuỳ thái dương đơn độc, nên tất cả đều
được chẩn đoán HSE ngay trong lần chụp CHT
đầu tiên.
Về đặc điểm tín hiệu
Đa số vùng viêm giảm tín hiệu trên T1W,
tăng trên T2W, FLAIR và DWI. Đặc điểm này
phù hợp với hiện tượng phù viêm, gây độc tế
bào làm tích tụ nước tại khu vực tổn thương.
Tuy nhiên, đặc điểm hình ảnh này không
đặc hiệu cho viêm não do HSV vì cũng có thể
gặp trong bất kỳ tình huống nào có hiện tượng
viêm phù hoặc tích tụ nước. Ví dụ trong một số

loại viêm não do các nguyên nhân khác như

14

viêm não hệ viền, viêm não do virus EpsteinBarr, viêm não do virus Varicella-Zoster, bệnh
viêm não Herpesvirus 6 ở người, nhồi máu
não, u não hay chấn thương, … do đó các chẩn
đóan phân biệt nên luôn được đặt ra.
Đặc điểm bắt thuốc tương phản
Bắt thuốc nhu mô gặp 13/30 (43,3%) trường
hợp và 16/30 (53,3%) trường hợp có bắt thuốc
màng não. Như vậy tổn thương bắt thuốc
tựơng phản có thể có hoặc không tùy thuộc vào
mức độ tổn thương phá hủy hàng rào mạch
máu não(12). Nghiên cứu của Demaerel PH và
cs(5) là 50%. Tuy nhiên nghiên cứu của các tác
giả này không đề cập thời gian từ khi khởi phát
đến lúc được chụp cộng hưởng từ là bao nhiêu
ngày nên chúng tôi không có dữ kiện cụ thể về
thời gian để so sánh. Thời gian trung bình kể từ
lúc khởi phát đến khi được chụp cộng hưởng
từ trong nghiên cứu của chúng tôi là 9,68 ± 3,98
ngày, đây là thời gian có thể có hiện tượng hoại
tử xuất huyết xảy ra(3,12).
Mức độ phát hiện tổn thương trên các chuỗi xung
Hơn 2/3 số tổn thương giảm tín hiệu có thể
được nhìn thấy trên T1W và 1/3 số tổn thương
không được nhìn thấy trên T1W hoặc thấy
không rõ ràng. Trong khi đó các chuỗi xung
T2W, FlAIR và DWI đều phát hiện được hầu

hết các tổn thương với tỉ lệ cao.
Sự khác nhau về tỉ lệ phát hiện tổn
thương giữa T1W với các chuỗi xung khác có
ý nghĩa thống kê với p < 0,01; sự khác nhau
về tỉ lệ phát hiện tổn thương giữa các chuỗi
xung T2W và FLAIR, T2W và DWI có ý nghĩa
thống kê, với p < 0,01. Nhưng sự khác nhau
về tỉ lệ phát hiện tổn thương giữa FLAIR và
DWI không có ý nghĩa thống kê, với
p=0,081>0,05.
Tỉ lệ này không khác nhiều so với nghiên
cứu của Granerod J và cs(7), của Misra UK. và
cs(13) và của Hatipoğlu HG và cs(9), theo đó tỉ
lệ phát hiện tổn thương vỏ não thuỳ thái
dương và thuỳ trán trên các chuỗi xung T2W,
FlAIR và DWI là hơn 90%.

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019

Nghiên cứu Y học

Hình 5: Viêm, xuất huyết thái dương trái (mũi tên) tín hiệu cao nhẹ trên T1W, thấp và cao trên T2W và thấp
đen trên GRE trái qua: hình T1W, T2W và GRE. Nguồn Bn Nguyễn Lê Duy H, SHS:2180003207.

Hình 6: Viêm thuỳ đảo trái (mũi tên), hầu như không rõ trên hình T1W(A); thấy khá rõ trên hình T2W (B) và
rất rõ trên FLAIR (C) và DWI (D). Nguồn Bn Trần Thị H. SHS: 2160049373.
Giá trị hệ số khuếch tán biểu kiến

Hệ số khuếch tán biểu kiến trung bình của
mô não viêm trong nghiên cứu của chúng tôi
là 0,540 ± 0,110 x 103 mm2/s.
Giá trị này tương đương với kết quả
nghiên cứu của tác giả Sawlani V(15). Trong
nghiên cứu này, tác giả xác định được giá trị
ADC của nhóm bệnh nhân HSE chụp cộng
hưởng từ từ ngày thứ 6 đến ngày thứ 10 của
bệnh là 0,490±0,063 x 103 mm2/s. Đây cũng là
thời gian tương đương thời gian được chụp
cộng hưởng từ trong mẫu nghiên cứu của
chúng tôi. Giá trị ADC của chúng tôi cũng cao
hơn không không nhiều so với nghiên cứu của
Sener RN(16) là 0,410 ±0,150 x 103 mm2/s. Sự
khác biệt này không lớn và có thể giải thích do
sai số trong kỹ thuật tính toán và có thể khác
nhau về chủng tộc.

Chuyên Đề Ngoại Khoa

Bảng 2. So sánh giá trị ADC
Tác giả
3
ADC (x10
2
mm /s)

Chúng tôi

Sawlani V.


Sener R.N.

0,540 ±0,110 0,490 ±0,063 0,410 ±0,150

KẾTLUẬN
Thùy thái dương là vị trí thường gặp trong
viêm não do virus Herpes simplex, tiếp theo là
thùy đảo và thùy trán cũng là vị trí có thể gặp,
hai bên thựờng gặp hơn một bên.
Các tổn thương viêm đa số có tín hiệu thấp
trên T1W, cao trên T2W, FLAIR và DWI. Các tổn
thựơng xuất huyết và bắt thuốc tương phản từ là
không thường thấy, gặp trong ít hơn 50%.
Các chuỗi xung T2W, FLAIR và DWI đều có
thể phát hiện được hầu hết các tổn thựơng, tuy
nhiên chuỗi xung DWI tỏ ra vượt trội hơn các
chuỗi xung còn lại về mức độ phát hiện tổn thựơng.
Hệ số khuếch tán biểu kiến mô não viêm là
là 0,540 ±0,110 x103 mm2/s thấp hơn mô não lành.

15


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019

TÀILIỆUTHAMKHẢO


12.

1.

13.

2.
3.

4.
5.
6.

7.

8.

9.

10.
11.

16

Baringer JR (2008). "Herpes Simplex Infections of the Nervous
System". Neurologic Clinics, 26(3):pp.657–674.
Bloch KC et al (2017). "Encephalitis and Myelitis". Mosby,
1:pp.189-199.
Bulakbasi NKM (2008). "Central Nervous System Infections of
Herpesvirus Family". Neuroimaging clinics of North America,

18(1):pp. 53 – 84.
Dagsdóttir HM et al (2014). "Herpes simplex encephalitis in
Iceland 1987-2011". Springer Plus, 3:pp. 524.
Demaerel PH et al (1992). "MRI of herpes simplex
encephalitis". Neuroradiology, 34(6):pp. 490-493.
Domingues RB et al (1998). "Diagnosis of herpes simplex
encephalitis by magnetic resonance imaging and polymerase
chain reaction assay of cerebrospinal fluid". Journal of the
Neurological Sciences, 157(2):pp.148-153.
Granerod J et al (2016). "Neuroimaging in encephalitis:
analysis of imaging findings and interobserver agreement".
Clinical radiology, 71(10):pp.1050-1058.
Haggiag S et al (2016). "Extratemporal herpes encephalitis
during natalizumab treatment: A case report". Multiple
Sclerosis and Related Disorders, 10:pp. 134-136.
Hatipoğlu HG et al (2008). "Magnetic resonance and
diffusion-weighted imaging findings of herpes simplex
encephalitis". The journal of the IHMF, 15(1):pp.13-17.
Kennedy PG et al (2002). "Herpes simplex encephalitis".
Journal of Neurology, Neurosurgery and Psychiatry, 73(3):pp. 237-238.
Lê Văn Cường (2006). Giải phẫu học tập 1. Nhà xuất bản Y học
TP. Hồ Chí Minh, tr.460-466.

14.

15.

16.

17.


18.

19.

Lê văn Phước (2011). Cộng hưởng từ sọ não. Nhà xuất bản Y
học TP. Hồ Chí Minh, tr. 7-55, 113-122.
Misra UK et al (2010). "Usefulness of various MRI sequences
in the diagnosis of viral encephalitis". Acta tropica,
116(3):pp.206-211.
Piquet AL, Cho TA (2016). "The Clinical Approach to
Encephalitis". Current Neurology and Neuroscience Reports,
16(5):pp.45.
Sawlani V (2009). "Diffusion-weighted imaging and apparent
diffusion coefficient evaluation of herpes simplex encephalitis
and Japanese encephalitis". Journal of the Neurological Sciences,
287(1-2):pp.221–226.
Sener RN (2001). "Herpes simplex encephalitis: diffusion MR
imaging findings". Computerized Medical Imaging and Graphics,
25(5):pp.391-397.
Sili U et al (2014). "Herpes simplex virus encephalitis: Clinical
manifestations, diagnosis and outcome in 106 adult patients".
Journal of Clinical Virology, 60(2):pp.112-118.
Tsuboguchi S et al (2017). "Herpes simplex encephalitis
presenting as stroke-like symptoms with atypical MRI
findings and lacking cerebrospinal fluid pleocytosis". Rinsho
shinkeigaku, 57(7):pp.387-390.
Vũ Anh Nhị (2015). "Điều trị bệnh thần kinh". Nhà xuất bản đại
học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr.616-620.


Ngày nhận bài báo:

08/11/2018

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

07/12/2018

Ngày bài báo được đăng:

10/03/2019

Chuyên Đề Ngoại Khoa



×