Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

THỰC TRẠNG TRONG QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.1 KB, 22 trang )

THỰC TRẠNG TRONG QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
2.1 Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội
Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học công nghệ
của cả nước. Hà Nội nằm ở lưu vực đồng bằng sông Hồng, gồm có 9 quận, 5
huyện với diện tích 927.39 km
2
, dân số hơn 3.5 triệu người.
Thủ đô Hà Nội có hệ thống giao thông thuận lợi, là nơi giao lưu hàng hóa
với quốc tế. Tình hình KT - XH của Thành phố Hà Nội liên tục tăng, bình quân
đạt 11.16%/năm; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định, hệ thống chính
trị được củng cố và tăng cường.
Hà Nội là trung tâm văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ của Việt Nam.
Với mạng lưới các viện nghiên cứu khoa học hàng đầu với hàng nghìn học sinh,
sinh viên các cấp. Đồng thời đây cũng là nơi tập trung đông đảo đội ngũ các
chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, công nhân kỹ thuật có trình độ cao thuộc
mọi ngành nghề.
Với sự phát triển của các ngành khác, giáo dục Hà Nội cũng chịu ảnh trực
tiếp từ các điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội của thủ đô, do đó tạo ra
những thuận lợi cũng như khó khăn tác động đến sự phát triển của hoạt động
giáo dục trên địa bàn Thành phố, được là GDPT.
2.2 Thực trạng giáo dục phổ thông ở Thành phố Hà Nội
Trải qua hơn 15 năm đổi mới và phát triển, nền giáo dục thủ đô đã thu
được nhiều thành tựu quan trọng về mở rộng quy mô, đa dạng hóa các loại hình
giáo dục, nâng cấp cơ sở vật chất trường học…
2.2.1 Quy mô, mạng lưới phát triển hệ thống giáo dục phổ thông ở Thành phố Hà
Nội
Để đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng, trong những năm gần đây
Thành phố Hà Nội đã xây dựng và mở rộng thêm rất nhiều trường, lớp ở tất cả
các bậc học GDPT.


Bảng 2.1 – Quy mô GDPT Hà Nội qua các năm
Đơn vị: trường, học sinh
Bậc học Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Tiểu học
Trường
Học sinh
250
206.417
252
199.369
250
194.954
253
193.012
257
136.879
THCS
Trường
Học sinh
208
174.514
212
177.957
214
171.715
214
167.455
214
165.038
THPT

Trường
Học sinh
40
53.643
41
55.137
41
55.029
43
60.157
44
66.122
Nguồn: Sở GD - ĐT Hà Nội
Theo bảng số liệu trên ta thấy, số lượng trường học phổ thông không ngừng
tăng lên qua các năm. Cụ thể: ở bậc tiểu học trong năm 2007 có 257 trường,
tăng 2,8% so với năm 2003. Trong khi đó ở bậc THCS là 214 trường, tăng 2,9%
so với năm 2003; bậc THPT là 44 trường, tăng 10% so với năm 2003.
Tính đến ngày 31/8/2007 toàn Thành phố Hà Nội có 137 trường đạt chuẩn
quốc gia, đạt tỷ lệ 14,2%, trong đó có 68 trường tiểu học (chiếm 30% của cấp
học), 34 trường THCS (chiếm 15,6% của cấp học) và 6 trường THPT (chiếm
5,9% của cấp học).
Trong khi đó số lượng học sinh bậc tiểu học và THCS đang giảm dần qua
các năm được thể hiện qua bảng số liệu thống kê. Cụ thể: ở bậc tiểu học trong
năm 2007 số học sinh giảm 69.538 học sinh, giảm 50,8% so với năm 2003; ở
bậc THCS số học sinh giảm 9.431 học sinh, giảm 5,7% so với năm 2003.
Số lượng học sinh tiểu học và THCS giảm chủ yếu là do hệ thống giáo dục
ngoài công lập đang phát triển mạnh, các phụ huynh có xu hướng chuyển con
em họ sang học tại các trường dân lập, bán công hoặc tư thục với điều kiện tốt
hơn.
Tuy nhiên, số lượng học sinh THPT lại có chiều hướng tăng lên, năm 2007

tăng 12.479 học sinh, tăng 23% so với năm 2003. Điều này tạo điều kiện thuận
lợi cho việc phát triển nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao phục vụ cho
nền kinh tế thủ đô.
2.2.2 Chất lượng giáo dục phổ thông ở Thành phố Hà Nội
Chất lượng giáo dục đạo đức và văn hóa ở bậc tiểu học và THCS đã được
củng cố và có nhiều tiến bộ vượt bậc.
Bảng 2.2 – Chất lượng GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Đơn vị: %
Xếp loại học lực Xếp loại đạo đức
Khá Giỏi Khá Giỏi
Tiểu học
28,93% 44,75% 1,8% 98,2%
THCS
38,13% 28,66% 21,87% 75,33%
THPT
38,5% 10,2% 32,8% 58,1%
Nguồn: Sở GD - ĐT Hà Nội
Từ bảng số liệu trên ta thấy tỷ lệ học sinh khá giỏi cao, tỷ lệ học sinh trung
bình yếu thấp và đang có xu hướng giảm dần. Ngoài ra tỷ lệ giáo dục đạo đức
khá tốt ở học sinh phổ thông chiếm đa số, tỷ lệ trung bình hạn chế. Như vậy
chất lượng GDPT thủ đô ngày càng tăng cả về học tập và đạo đức.
Bậc tiểu học:
• Hầu hết trẻ 6 tuổi vào học lớp 1 đạt 41.380 học sinh năm 2007. Số học sinh
khuyết tật huy động đến lớp tham gia giáo dục hòa nhập được 1.754 học sinh.
Số học sinh học 2 buổi/ngày năm 2007 có 188.259 học sinh, đạt tỷ lệ 93,5%
tăng 2.5 lần so với năm trước.
• Duy trì thực hiện kết quả xóa mũ chữ và phổ cập tiểu học (1990) đúng độ tuổi.
Trong những năm gần đây hiệu quả đào tạo ở bậc tiểu học ở Hà Nội đã tăng
đều, hạn chế mức học sinh lưu ban, bỏ học. Ngoài ra còn quan tâm và duy trì
những hoạt động giáo dục tổ chức kỷ luật, rèn luyện nếp sống, thi đua vở sạch –

chữ đẹp… góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
• Đưa Tin học vào giảng dạy trong nhà trường: mới triển khai ở một số trường nội
thành có điều kiện.
Bậc THCS:
• Năm 2007 huy động được 43.415 học sinh hoàn thành chương trình tiểu học
vào học lớp 6 vượt kế hoạch 1,6%. Huy động được 405 học sinh khuyết tật đến
lớp học tập trung và hòa nhập. Số học sinh học 2 buổi/ngày có 61.919 học sinh
đạt tỷ lệ 39%, tăng 3,1% so với năm trước.
• Giữ vững kết quả phổ cập THCS và chất lượng toàn diện. Thành phố Hà Nội đã
hoàn thành phổ cập giáo dục THCS đạt 100% vào năm 2002.
• Đưa Tin học vào giảng dạy trong các nhà trường: đạt 64% số trường
Bậc THPT:
• Triển khai tốt đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông phân ban lớp 11.
Số học sinh dự thi học sinh giỏi quốc gia năm 2007 có 66 em tham dự 11 môn,
kết quả đạt 50 giải trong đó có 4 giải nhất, 17 giải nhì, 17 giải ba và 12 giải
khuyến khích. Hà Nội có 2 học sinh dự thi học sinh giỏi quốc tế đều đạt huy
chương bạc.
• Số học sinh được công nhận tốt nghiệp THPT đạt tỷ lệ 94.8% vào năm 2007.
• Đưa Tin học vào giảng dạy trong các nhà trường: đạt 100% số trường.
Chất lượng GDPT Hà Nội còn được thể hiện qua tỷ lệ số học sinh/lớp, tỷ lệ
học sinh/giáo viên. Cụ thể: tỷ lệ này càng ít thì chất lượng học tập càng cao do ít
học sinh nên giáo viên dễ kèm cặp hơn, và ngược lại.
Bảng 2.3 – Tỷ lệ học sinh/lớp, học sinh/giáo viên của GDPT ở Hà Nội
Đơn vị: học sinh/lớp, học sinh/giáo viên
Cấp học Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Tiểu học
Học sinh/lớp 35,44 34,31 33,33
Học sinh/giáo viên 24,17 24,17 23,83
THCS
Học sinh/lớp 40,41 40,33 40,23

Học sinh/giáo viên 19,23 18,61 18,03
THPT
Học sinh/lớp 44,87 44,85 44,92
Học sinh/giáo viên 21,56 22,42 24,13
Nguồn: Sở GD - ĐT Hà Nội
Tuy nhiên qua bảng số liệu trên ta thấy: số học sinh/lớp, học sinh/giáo viên
ở bậc tiểu học và THCS có xu hướng giảm qua các năm thể hiện chất lượng
giáo dục ở hai bậc này đang được củng cố: phổ cập giáo dục 100% ở bậc tiểu
học và THCS. Trong khi đó con số này ở bậc THPT lại có xu hướng gia tăng do
số trường THPT còn ít, cơ sở vật chất chưa đủ đáp ứng yêu cầu, vì vậy chất
lượng giáo dục ở bậc này hiện còn chưa cao.
Ngày nay các gia đình đều rất quan tâm, tạo điều kiện cho con em mình
phát triển về mọi mặt vì đây chính là những chủ nhân tương lai của đất nước.
Do đó ngành giáo dục nói chung và GDPT nói riêng đang phát triển ổn định và
vững chắc, tạo cơ sở cho sự phát triển đất nước.
Chất lượng GDPT hiện nay nhìn chung vẫn còn nhiều tồn tại cần phải khắc
phục như tình trạng đối phó với thi cử còn nhiều phổ biến, chất lượng không
đồng đều giữa các môn học, đặc biệt là sự chênh lệch về chất lượng học tập
giữa nội thành và ngoại thành còn khá cao, tình trạng học chay, dạy chay còn
khá phổ biến ở một số trường…
2.2.3 Đội ngũ giáo viên phổ thông ở Thành phố Hà Nội
Trong những năm vừa qua, số lượng giáo viên phổ thông ở Thành phố Hà
Nội ngày càng tăng, được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.4 – Số lượng giáo viên GDPT ở Thành phố Hà Nội
Đơn vị: người
Bậc học 2003 2004 2005 2006 2007
Tiểu học 8.114 8.118 8.273 8.155 8.076
THCS 9.014 9.038 9.544 8.953 8.941
THPT 2.664 2.636 2.762 2.756 2.967
Nguồn: Sở GD - ĐT Hà Nội

Chất lượng của đội ngũ giáo viên phổ thông ngày càng cao, trong đó tỷ lệ
giáo viên có trình độ và năng lực chuyên môn trên chuẩn cao: giáo viên tiểu
học, THCS đạt 98%, giáo viên THPT đạt 100%. Đội ngũ nhà giáo có phẩm chất
đạo đức tốt và tận tụy với nghề nghiệp.
Chất lượng của đội ngũ giáo viên phụ thuộc vào tỷ lệ giáo viên/lớp, tỷ lệ
này càng ít thì chất lượng giáo dục càng cao, được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.5 – Tỷ lệ giáo viên/lớp của GDPT ở Hà Nội
Đơn vị: người/lớp
Cấp học 2006 2007 2008 2009
Tiểu học
1,47 1,42 1,40 1,35
THCS
2,10 2,17 2,23 1,97
THPT
2,08 2,00 1,86 2,09
Nguồn: Sở GD - ĐT Hà Nội
Các hoạt động bồi dưỡng giáo viên được tiến hành đúng kế hoạch, có chất
lượng và hiệu quả cao. Chú trọng công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ
công nghệ thông tin cho cán bộ giáo viên, trong năm 2007 Sở đã tổ chức cho
trên 350 giáo viên, các đơn vị cơ sở đã tự tổ chức bồi dưỡng Tin học cơ sở cho
4200 cán bộ và giáo viên. Ngoài ra ngành giáo dục Hà Nội còn cử hai đoàn cán
bộ quản lý và giáo viên đi dự các chương trình học tập ở nước ngoài.
2.3 Thực trạng công tác quản lý chi ngân sách nhà nước
2.3.1 Đầu tư ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục phổ thông ở
Thành phố Hà Nội
Cùng với sự quan tâm của các ngành, các cấp và sự phấn đấu của ngành
GD - ĐT, nền GDPT Hà Nội đã có những bước phát triển trong thời gian qua
theo đúng mục tiêu của Đảng, Nhà nước đề ra. Thành phố Hà Nội đã có nhiều
chủ trương, chính sách lớn đầu tư cho GD - ĐT, đặc biệt là GDPT như xây dựng
các chương trình mục tiêu hành động, triển khai thực hiện các đề án…

UBND Thành phố đã ban hành Chỉ thị số 26/2003/CT-UB ngày 31/7/2003
về việc thực hiện chương trình kiên cố hoá - hiện đại hoá trường lớp học ở Thủ
đô. Kết quả đạt được như sau:
• Xây dựng trường chuẩn quốc gia: tính đến nay 31/10/2007 toàn Thành phố có
138 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 14,2%. Tuy nhiên, việc xây dựng
trường đạt chuẩn quốc gia còn hạn chế do thiếu diện tích đất, các phòng học
chức năng, thực hành, thí nghiệm, thư viện, nhà thể chất theo quy định.
• Từ năm 2003 đến nay, Hà Nội đã xoá 1.500 phòng học cấp 4 và hoàn thành cơ
bản việc xoá phòng học cấp 4 của các trường phổ thông, riêng giáo dục mầm
non còn 475 phòng học cấp 4 tiếp tục xoá trong năm tới.
• Hoàn thành tách cấp được 6/16 điểm trường chung về cơ sở vật chất; đồng thời
kết hợp mở rộng diện tích đất và xây mới được 97 trường học, trong đó quận
huyện xây mới được 78 trường, trực thuộc xây mới được 19 trường.
• Từ năm 2003 đến nay, giáo dục và đào tạo Thủ đô được Thành phố quan tâm
đầu tư và cấp đất mở rộng diện tích trường học gần 400.000 m2. Riêng năm
2007, đã được cấp 194.000 m2 đất xây dựng và mở rộng diện tích trường học,
trong đó Giáo dục Tiểu học có 35.000 m2; Giáo dục THCS có 51.000 m2; Giáo
dục THPT có 8.000 m2.
• Di dời hộ dân ra khỏi khuôn viên trường học: tổng số có 377 hộ dân ở trong
khuôn viên đất do các trường học quản lý đến nay đã cơ bản hoàn thành di dời
được 73 hộ (trong đó 22 hộ trực thuộc Sở, 51 hộ thuộc quận huyện).
• Công tác tăng cường cải tạo chiếu sáng học đường đến nay cơ bản hoàn thành.
Số phòng học được cải tạo chiếu sáng học đường năm 2007 là 4.524 phòng học
với kinh phí 20,66 tỷ đồng. 100% các trường học đã xây dựng phòng Y tế để sơ
cấp cứu cho học sinh kịp thời.
• Thành phố đã quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống cung cấp nước sạch, xây
dựng nhà vệ sinh cho giáo viên và học sinh đáp ứng nhu cầu hoạt động của các
trường học.

Bên cạnh đó, còn xây dựng các bản quy hoạch phát triển, quy hoạch mạng

lưới trường lớp, xây dựng bổ sung phòng học phục vụ học sinh học 2 buổi/ngày
ở cấp Tiểu học và THCS, nhằm nâng cao chất lượng dạy học trong việc thực
hiện đổi mới chương trình GDPT theo Nghị quyết 40 của Quốc hội.

×