Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Các khái niệm về xác định giá trị tài sản trong kế toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.11 KB, 10 trang )

CÁC KHÁI NIỆM VỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ
TÀI SẢN TRONG KẾ TOÁN

N

ThS. Nguyễn Hồng Nga*

hằm mục tiêu đo lường và trình bày các thơng tin đối với tài sản trên Báo cáo tài chính
(BCTC), trong lịch sử kế tốn đã và đang tồn tại các quan điểm tính giá khác nhau. Mỗi
quan điểm tính giá đều cần phải xác định các cơ sở giá chủ yếu, áp dụng các cơ sở giá này
trong việc ghi nhận ban đầu, sau ghi nhận ban đầu và ghi nhận ảnh hưởng của việc tính
giá trên BCTC. Trong q trình sử dụng, các thuật ngữ như phương pháp tính giá, cơ sở đo lường, định giá,
thẩm định giá hay đánh giá lại rất hay bị nhầm lẫn trong cách tiếp cận. Để hiểu rõ vấn đề này, trong bài
viết sau tác giả sẽ đưa ra những nhận thức nhằm xác định ranh giới và bản chất của các khái niệm này.
Từ khóa: Phương pháp tính giá, mơ hình tính giá, cơ sở đo lường, định giá, đánh giá lại.
Concepts on determining asset value in accounting
Aiming at measuring and presenting information for assets on financial statements, in accounting
history, there have been different points of view. Each method of pricing needs to determine the key price
bases, apply these price bases in the initial recognition, after the initial recognition and its impact in the
financial statements. In the process of use, terms such as pricing methods, basis of measurement, valuation,
re-evaluation are often confused in the approach. In order to understand this issue, in the following article
the author would like to clarify them to define the boundaries and nature of these concepts.
Keywords: Pricing method, pricing model, basis of measurement, valuation and re-evaluation.
1. Cơ sở hình thành lý thuyết đo lường trong
kế tốn
Kế tốn là nghệ thuật đo lường và truyền đạt
thơng tin tài chính. Thơng tin dựa trên đo lường
mới dẫn đến thơng tin giúp đưa ra dự đốn về lợi
nhuận hoặc các dự định trong tương lai, dự báo

u cầu quan sát phải định lượng (nó có thể là định


tính), do đó nó khơng nhất thiết phải quan sát. Ví
dụ thu nhập khơng thể quan sát hay đo trực tiếp, nó
được xác định thơng qua đo lường tài sản, nợ phải
trả và xem xét sự vận động theo những quy tắc nhất
định (Heath , 1987, trang 2).

liên quan trong việc đánh giá rủi ro của cơng ty

Dữ liệu có thể đo lường thơng qua quan sát gián

(Bierman, 1963, trang 501). Mục đích của đo lường

tiếp, nó mang tính dự đốn. Dự đốn là một cách

là cung cấp thơng tin dưới dạng định lượng và sử

khái niệm khác để nói điều gì đó về những gì có

dụng thơng tin cho mục đích so sánh (Sterling,

thể xảy ra trong tương lai thơng qua thiết lập thực

1979, tr. 74). Đây là quan điểm hẹp về đo lường vì

nghiệm (Hornby et al., 1966, p. 760). Do đó, tính

đòi hỏi phải dựa trên cơ sở quan sát. Quan sát trực

năng phân biệt giữa dự báo và dự đốn khơng phải


tiếp đòi hỏi đối tượng phải có thể cảm nhận được,

là độ dài của khoảng thời gian có liên quan mà là

trong khi quan sát gián tiếp là một suy luận giả

mức độ chắc chắn liên quan. Dự báo và phân bổ

thuyết liên quan đến các dữ liệu quan sát (Bunge,

nên được loại trừ khỏi đo lường, bởi vì chúng thiếu

1967, trang 194). Theo quan điểm rộng thì khơng

một liên kết vững chắc để quan sát. Tuy nhiên, dự

* Khoa Kế tốn Kiểm tốn – Trường Đại học Thương mại
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN

Số 138 - tháng 4/2019

45


TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN

đốn có thể được bao gồm trong đo lường, bởi vì

hiện) hoặc tiềm năng. Trong trường hợp sau, chúng


các dự đốn về ngun tắc có thể quan sát được

có thể là trực tiếp (giá trị có thể thực hiện) hoặc

thơng qua quan sát gián tiếp.

khơng trực tiếp (giá trị được sử dụng). Giá trị thực

Ngày nay, thuật ngữ định giá cải tiến đã dần
được thay thế bằng thuật ngữ đo lường. Griffin
et al. (1971, p. 3) đã nêu: “Định giá giá trị thường
được sử dụng trong kế tốn liên quan đến q trình
áp dụng các phương pháp xác định dẫn đến việc
ký kết các con số để thể hiện các tính chất kinh
tế. Định giá có thể được định nghĩa là q trình
áp dụng các phương pháp xác định dẫn đến việc
gán các con số để đại diện cho các đặc tính kinh tế
(Griffin và cộng sự, 1971, trang 3).
Một kỹ thuật định giá được định nghĩa là bộ
máy có hệ thống bằng cách đánh giá việc thực hiện
một giá trị (Rescher, 1969, tr. 65 .6). Là tính chất
định tính, các giá trị có thể được phân loại theo
nhiều cách khác nhau. Một cách là phân loại chúng
theo nguồn gốc của chúng. Từ góc độ kinh tế, nó
được đặc trưng bởi sự hy sinh và lợi ích thu được.
Các giá trị sau đó là giá trị đầu vào (hy sinh) hoặc

46

tế và tiềm năng khác biệt đáng kể với nhau. Giá trị

đầu vào và đầu ra thực tế có thể quan sát trực tiếp.
Chúng là giá thực hiện và giá trị của chúng có thể
được đo lường theo nghĩa cổ điển bằng cách quan
sát các trao đổi thị trường thực tế. Do đó, chỉ có
một số giá trị tiềm năng là các phép đo theo nghĩa
cổ điển đòi hỏi các hiện tượng cơ bản phải có thể
quan sát được, trực tiếp hoặc gián tiếp. Do đó, phải
có khả năng dự đốn, khơng chỉ dự báo, kết quả
thực tế của giá trị tiềm năng. Ví dụ, giá trị có thể
thực hiện trực tiếp của sản phẩm thường có thể dự
đốn được và đáp ứng u cầu này. Tuy nhiên, giá
trị sử dụng của máy là một giá trị gián tiếp đòi hỏi
phải dự báo. Việc dự báo như vậy mất nhiều thời
gian, trong đó diễn ra sản xuất và bán thực tế, và
việc chuyển đổi giá trị sử dụng thành tiền có thể
quan sát được thường khơng dựa trên bất kỳ luật
thực nghiệm nào được thiết lập.

giá trị đầu ra (lợi ích). Giá trị đầu vào có thể là thực

Trong báo cáo tài chính, một tài sản có giá trị là

tế (chi phí lịch sử) hoặc tiềm năng (chi phí hiện tại,

kết quả của kỹ thuật định giá được chọn. Kỹ thuật

nghĩa là chi phí tái sản xuất hoặc chi phí thay thế).

định giá khác nhau. Có nhiều kỹ thuật định giá


Giá trị đầu ra cũng có thể là thực tế (giá bán thực

như có nhiều cách để gán giá trị cho một đối tượng.

Số 138 - tháng 4/2019

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN


Đối với báo cáo tài chính, các công nghệ này được

dùng đã được thay thế bằng thuật ngữ đo lường.

chia thành hai nhóm: dựa trên đo lường và dựa

Một cách để làm điều này là về vai trò của đầu ra

trên dự báo. Ở giai đoạn nhận biết, đo lường được

đóng vai trò trong việc định giá một tài sản. Đầu ra

thực hiện theo cả nghĩa hiện đại và cổ điển, bởi vì
giao dịch mua thực tế thường được quan sát. Ở giai
đoạn sau, khấu hao chỉ là đo lường theo nghĩa hiện
đại, còn theo quan điểm cổ điển, thì khấu hao chỉ là
khái niệm, không phải là một hoạt động đo lường
theo kinh nghiệm.
Petri Vehmanen (2013) đã mở rộng phân loại ba

có thể được dự báo bằng tiền và các khoản tương

đương tiền (nghĩa là bằng đơn vị tiền tệ) và được
báo cáo là một tài sản, hoặc đầu ra có thể được dự
báo theo đơn vị phi tiền tệ (ví dụ: mét khối) để tạo
điều kiện phù hợp với đầu vào cho các đầu ra, hoặc
đầu ra cuối cùng chỉ có thể được dự báo về mặt
tuổi thọ hữu ích (ví dụ: tháng hoặc năm) để tạo
điều kiện cho việc phân bổ tùy ý đầu vào. Điều này

loại tài sản (đo lường thực tế, đo lường tiềm năng và

có nghĩa là, bên cạnh hai loại tài sản dựa trên đo

dự báo) và cho rằng thuật ngữ định giá của người

lường, sẽ có ba loại dựa trên dự báo.

(Nguồn: Petri Vehmanen (2013), Measurement of assets and the classical measurement theory, LTA 2/13,
pp 130-161)
Các phép đo thực tế về mặt quan sát: Kỹ thuật

những ví dụ về tài sản mà khả năng dự đoán đòi

định giá đầu tiên dẫn đến các tài sản mà tài sản

hỏi phải đo lường tiềm năng có thể được thỏa mãn.

được chọn có thể được đo trực tiếp bằng quan sát

Do đó, giá trị hợp lý (GTHL) có thể được thỏa mãn


định lượng. Tài sản duy nhất mà tài sản này có thể

nếu các kỹ thuật định giá được sử dụng và các đầu

được quan sát trực tiếp là tiền và các khoản tương

vào có liên quan đến các kỹ thuật đó đều có thể

đương tiền.

quan sát được (cấp độ 1 và cấp độ 2).

Các phép đo tiềm năng về mặt dự đoán: Kỹ thuật

Dự báo dựa trên mô hình và dựa trên kinh

định giá thứ hai dẫn đến các tài sản mà tài sản nói

nghiệm về sản lượng cuối cùng: Kỹ thuật định giá

trên chỉ có thể được đo lường một cách gián tiếp,

thứ ba dẫn đến các tài sản được định giá bằng tiềm

nghĩa là chỉ bằng dự đoán, không phải bằng quan

năng dài hạn của chúng để đóng góp, trực tiếp hoặc

sát định lượng trực tiếp. Những tài sản này có giá trị


gián tiếp, vào dòng tiền và các khoản tương đương

lợi ích kinh tế tiềm năng, đóng góp trực tiếp hoặc

tiền cho đơn vị. Giá trị hiện tại không phải là cơ sở

gián tiếp vào dòng tiền và các khoản tương đương

đo lường, nhưng đúng hơn là một kỹ thuật có thể

tiền, từ đó tạo giá trị cho thực thể. Các khoản phải

được áp dụng để ước tính một số phép đo ở trên

thu, đầu tư tài chính và danh mục hàng tồn kho là

trong một số trường hợp nhất định. Số tiền có thể
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN

Số 138 - tháng 4/2019

47


TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN

thu hồi của một tài sản cao hơn giá trị hợp lý của

phục vụ q trình thu nhận, xử lý, hệ thống hóa và


nó, chi phí bán ra thấp hơn và giá trị sử dụng của

cung cấp thơng tin về tình hình tài chính kinh tế và

nó, trong đó giá trị sử dụng là giá trị hiện tại của

kết quả hoạt động của đơn vị cho các đối tượng sử

các dòng tiền trong tương lai được lấy từ tài sản.

dụng thơng tin.

Theo đó, giá trị hợp lý cũng có thể dựa trên các kỹ
thuật định giá bằng cách sử dụng các đầu vào quan
trọng khơng thể quan sát được và sau đó chúng sẽ
phải được phân loại là dự báo (cấp độ 3).

được giá trị thực tế của các đối tượng kế tốn, giúp
doanh nghiệp phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh vào chứng từ, sổ sách và tổng hợp trên báo cáo

Phân bổ dựa trên đầu ra mong đợi của đầu vào

kế tốn. Phương pháp tính giá được thể hiện qua

thực tế hoặc tiềm năng: Kỹ thuật định giá thứ tư

thẻ, sổ, bảng tính, phiếu tính giá và trình tự tính

dẫn đến một giá trị bằng với chi phí chưa hết hạn


giá. Do đó, phương pháp tính giá phải đảm bảo

của tài sản. Nó có được bằng cách kế tốn khấu

tính thích hợp và tính nhất qn trong việc tính

hao dựa trên sản lượng dự báo theo đơn vị sản xuất

tốn và đo lường. So với quan điểm (mơ hình) tính

hoặc doanh thu kiếm được. Đầu ra được khớp với

giá, phương pháp tính giá được biểu hiện trong quy

giá trị đầu vào thực tế (nghĩa là chi phí lịch sử hoặc

trình kế tốn bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau

chi phí mua lại) hoặc với giá trị đầu vào tiềm năng

nhằm đo lường giá trị của các đối tượng kế tốn

(nghĩa là chi phí th, thường có nghĩa là chi phí tái

trong những điều kiện nhất định, dựa trên những

sản xuất hoặc chi phí thay thế).
Phân bổ dựa trên tuổi thọ hữu ích của đầu vào
thực tế hoặc tiềm năng: Kỹ thuật định giá này dẫn

đến giá trị tài sản bằng với chi phí chưa hết hạn của
tài sản. Thay vì dự báo sản lượng thực tế của tài sản,
người ta chỉ cần phân bổ cơ sở khấu hao trong vòng
đời hữu ích của tài sản theo một số phương pháp
hợp lý và có hệ thống.
2. Phân biệt các khái niệm xác định giá trị tài
sản trong kế tốn
* Về phương pháp tính giá trong kế tốn

48

Phương pháp tính giá giúp kế tốn xác định

ngun tắc và quy định cụ thể do nhà nước ban
hành. Phương pháp tính giá ln gắn liền với việc
ghi nhận các yếu tố của báo cáo tài chính thơng
qua việc xác định các đối tượng cần được tính giá
và thời điểm tính giá. Tuy nhiên, quan điểm (mơ
hình) tính giá khơng chỉ đơn thuần tính giá của đối
tượng kế tốn tại những thời điểm nhất định mà
còn xem xét ghi nhận ảnh hưởng của việc tính giá
đến các yếu tố của báo cáo tài chính.
* Về cơ sở giá (cơ sở đo lường) trong kế tốn
Việc tính giá của các đối tượng kế tốn phải
được thực hiện dựa trên các ngun tắc kế tốn

Q trình thu thập, xử lý và cung cấp thơng tin

được thừa nhận, trong đó chủ yếu là ngun tắc giá


trên BCTC đã đặt ra u cầu đối với cơng tác kế

gốc và ngun tắc giá thị trường (hoặc sự kết hợp

tốn là phải đo lường được các đối tượng kế tốn.

của hai ngun tắc giá này). Tuy nhiên, xét về cơ

Việc lượng hóa các đối tượng kế tốn có thể được

sở giá, kế tốn có thể sử dụng nhiều cơ sở giá khác

thực hiện thơng qua những thước đo phù hợp như

nhau. Cơ sở xác định giá trị hiện nay khá phong

thước đo hiện vật, thước đo lao động và thước đo

phú. Có hai nhóm cơ bản: Giá trị thị trường (phản

tiền tệ. Trong đó, thước đo tiền tệ là thước đo bắt

ánh số tiền mà tài sản/nợ phải trả được thanh tốn

buộc và chủ yếu của kế tốn. Để thực hiện lượng

giữa các bên có đầy đủ hiểu biết trong giao dịch

hóa các đối tượng kế tốn dưới dạng tiền tệ, kế


ngang giá) như giá trị hợp lý, giá hiện hành, giá đầu

tốn phải sử dụng phương pháp tính giá. Như vậy,

ra; giá trị phi thị trường (phản ánh số tiền mà tài

phương pháp tính giá là phương pháp kế tốn sử

sản/nợ phải trả được xác định dựa trên các đánh

dụng thước đo tiền tệ để xác định giá trị của các đối

giá các yếu tố mang tính chủ quan, cá biệt khơng

tượng kế tốn theo những ngun tắc nhất định

phản ánh mặt bằng chung của thị trường) như giá

Số 138 - tháng 4/2019

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN


trị đang sử dụng, giá trị thuần có thể thực hiện

điểm (mô hình) tính giá hiện nay áp dụng giá gốc

được, giá trị thay thế, giá trị thanh lý. Có thể khái

để ghi nhận ban đầu, còn sau ghi nhận ban đầu thì


quát cơ sở giá chính là việc quy định (xác định)

sử dụng các cơ sở tính giá khác như giá gốc, giá

những yếu tố nào được tính vào cấu thành giá trị

hiện hành, giá hợp lý... Vì vậy, các hệ thống định

của đối tượng kế toán, còn để xác định giá trị của

giá như mô hình giá gốc, mô hình giá hiện hành,

đối tượng kế toán tại những thời điểm nhất định

mô hình giá hợp lý chỉ được coi như là yếu tố cơ

sẽ tùy thuộc vào các quan điểm (mô hình) tính giá

bản của quan điểm (mô hình) tính giá sau ghi nhận

được áp dụng.

ban đầu.

* Về các quan điểm (mô hình) tính giá

Ví dụ cụ thể:

Việc lựa chọn các cơ sở giá nhằm đáp ứng mục


Theo quan điểm giá gốc, dựa trên giả định DN

tiêu và yêu cầu cơ bản của thông tin tài chính phải

hoạt động liên tục và đơn vị tiền tệ ổn định, đơn vị

đảm bảo thông tin mang tính tin cậy, tính thích

sẽ tiến hành ghi nhận ban đầu, sau ban đầu và trình

hợp, tính có thể so sánh được. Trong việc áp dụng

bày trên BCTC của các đối tượng kế toán theo

các cơ sở giá này để đo lường giá trị của đối tượng

nguyên tắc giá gốc, để phản ánh được các thông

tính giá khi ghi nhận ban đầu và sau ghi nhận ban

tin kế toán tại các thời điểm tính giá thì cần phải sử

đầu, cần có các kỹ thuật tính giá một cách phù hợp
theo quy trình nhằm tính toán xác định giá của các
đối tượng trong các trường hợp khác nhau. Các kỹ
thuật tính giá gồm kỹ thuật phân bổ, tổng hợp, xác
suất thống kê, chiết khấu dòng tiền. Nếu chi phí để
áp dụng các kỹ thuật tính toán cơ sở giá này là quá
cao, sẽ được coi là rào cản cho việc áp dụng trong

thực tế. So với quan điểm (mô hình) tính giá, các
cơ sở giá chỉ giúp DN xác định những yếu tố nào
được tính vào cấu thành giá trị của đối tượng kế
toán chứ chưa phản ánh được quy trình ghi chép
tổng thể của kế toán, nhất là trong giai đoạn ghi
nhận ban đầu, sau ghi nhận ban đầu và ghi nhận
ảnh hưởng của việc tính giá trên các BCTC. Do đó,
trong quá trình vận hành các DN cần phải có sự kết
hợp đan xen các cơ sở giá này nhằm giúp ích cho
quá trình ghi nhận, đo lường và trình bày thông
tin của các đối tượng kế toán, tuy nhiên phải được
đặt trong những giả định kế toán là điều kiện tối
ưu để mô hình tính giá có thể được áp dụng. Ví
dụ, mô hình giá gốc dựa trên các giả định cơ bản

dụng các phương pháp và kỹ thuật tính giá nhằm
biểu hiện thước đo tiền tệ trên các thông tin được
trình bày.
Giả dụ, đối với tài sản cố định (TSCĐ), nếu áp
dụng theo quan điểm giá gốc, chúng ta cần phải xác
định đối tượng kế toán là TSCĐ, cần được ghi nhận
ban đầu theo giá gốc, sau ban đầu và trình bày trên
BCTC theo giá gốc. Nhưng để xác định được giá
gốc thì cần các kỹ thuật và phương pháp để tổng
hợp và đo lường.
Theo đó, giá gốc đối với TSCĐ khi hình thành
do mua vào bao gồm tất cả các chi phí mà đơn vị
bỏ ra để có quyền sở hữu, nắm giữ tài sản và sẵn
sàng để cho tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng.
Do đó, nguyên giá TSCĐ được xác định tùy theo

nguồn hình thành của tài sản, với TSCĐ được mua
thì nguyên giá được xác định như sau:
NG = Giá mua + Các khoản thuế không được
hoàn lại, ko được khấu trừ + Chi phí phát sinh để
có thể đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng

là giả định hoạt động liên tục, giả định đơn vị tiền

Như vậy, có thể phân định nguyên tắc tính giá là

tệ ổn định... Như vậy, có thể hiểu quan điểm (mô

dựa trên các quy định ngầm định để thực hiện tính

hình) tính giá dựa trên các giả định kế toán nhằm

giá cho bất cứ mỗi đối tượng kế toán nào (nguyên

xác định các loại giá được sử dụng trong mô hình,

tắc giá phí, nguyên tắc khách quan, nguyên tắc

áp dụng các loại giá để ghi nhận ban đầu, sau ghi

thận trọng, nguyên tắc nhất quán), lựa chọn cơ sở

nhận ban đầu và ghi nhận ảnh hưởng của việc tính

giá là để thực hiện các nguyên tắc đã đặt ra, còn


giá trên các BCTC. Xét theo các yếu tố này, quan

việc xác định giá trị của nó là bao nhiêu dựa trên sự
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN

Số 138 - tháng 4/2019

49


TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN

tổng hợp và kỹ thuật đo lường tính tốn. Việc tính

trên ngun tắc giá gốc nhằm mục tiêu bảo tồn

tốn dữ liệu ngun giá TSCĐ khi mua là chính là

vốn tài chính cho doanh nghiệp.

phương pháp tính giá được sử dụng trong việc xác
định giá trị của TSCĐ được ghi nhận ban đầu (tăng
do mua).
Trong q trình hoạt động, TSCĐ được tính
khấu hao trong q trình sử dụng, doanh nghiệp
cần thực hiện các phương pháp tính khấu hao gồm
phương pháp khấu hao theo đường thẳng, phương
pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh,
phương pháp khấu hao theo sản lượng... Về mặt
bản chất, đây vẫn dựa trên ngun tắc giá gốc.

Khấu hao khơng phải là đối tượng kế tốn được đo
lường, nó chỉ được tính tốn trong kỳ nhằm phân
bổ một cách có hệ thống giá trị của TSCĐ do sự
hao mòn sau một thời gian sử dụng.
Tại thời điểm lập BCTC, nếu áp dụng theo mơ
hình giá gốc, giá trị còn lại của TSCĐ bằng ngun
giá trừ khấu hao và suy giảm (nếu có). Để xác định
suy giảm cần căn cứ xác định xem giá trị còn lại của
tài sản có đang bị giảm sút so với giá trị có thể thu
hồi, đó là việc so sánh giữa giá gốc, giá trị có thể
thu hồi (thơng qua việc so sánh giá trị hợp lý và giá

Nếu theo mơ hình đánh giá lại, thì cần có sự kết
hợp so sánh giữa cơ sở giá gốc và cơ sở giá trị hợp lý
để tiến hành ghi nhận sau ban đầu, theo đó TSCĐ
sẽ được phản ánh theo GTHL tại ngày lập BCTC
và đồng thời có sự điều chỉnh về chênh lệch giá trị
trên bảng cân đối kế tốn, báo cáo thu nhập tồn
diện và các xử lý chênh lệch tạm thời khi quyết tốn
thuế. Cụ thể, giá trị còn lại của TSCĐ trên BCTC
bằng ngun giá trừ khấu hao theo giá gốc; đồng
thời phải phản ánh những chênh lệch khi so sánh
với GTHL. Sang các năm tiếp theo, TSCĐ được
khấu hao theo GTHL của năm trước, giá trị còn lại
bằng GTHL của năm trước trừ khấu hao năm nay
(tính khấu hao dựa theo GTHL của năm trước),
đồng thời xử lý chênh lệch giữa GTHL của năm
nay với giá trị còn lại của năm nay.
Thí dụ: Ngày 1/1/X1 DN mua TSCĐ hữu hình
có ngun giá 1800 (đơn vị tiền tệ), giá trị thanh

lý ước tính bằng 0, DN dự tính khấu hao trong 6
năm. Theo quy định của luật Thuế tài sản này được

trị sử dụng). Việc thực hiện tính tốn lại được biểu

khấu hao trong thời gian 6 năm. Cuối năm X1 DN

hiện thơng qua kỹ thuật tính tốn, tổng hợp và ghi

đánh giá lại, GTHL là 1600. Cuối năm X2 GTHL là

chép. Theo mơ hình này vẫn sử dụng các cơ sở giá

1500. Cuối năm X3 GTHL là 720, X4: GTHL 600,

thị trường (GTHL) để đo lường, so sánh, đối chiếu

X5 GTHL: 500 u cầu tính tốn và ghi nhận các

và tổng hợp; nhưng xét về bản chất đây vẫn dựa

bút tốn cho các năm X1, X2, X3.

Các bút tốn liên quan đến TSCĐHH theo mơ hình giá gốc
Năm

Giá trị ghi sổ

Khấu hao


Tổn thất

Bút tốn điều chỉnh

X1

1800

300

Khơng xảy ra
[1600 > 1500]

Khơng điều chỉnh

X2

1500

300

Khơng xảy ra
[1500 > 1200]

Khơng điều chỉnh
Bút tốn ghi nhận tổn thất
Nợ Lỗ do tổn thất: 180

X3


1200

300

Tổn thất: 180
[720 – 900]

Có Hao mòn lũy kế: 180
Bút tốn điều chỉnh thuế liên quan đến tổn thất
Nợ Tài sản thuế hỗn lại: 36
Có Chi phí thuế hỗn lại: 36

50

Số 138 - tháng 4/2019

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN


Các bút toán liên quan đến TSCĐHH theo mô hình giá gốc
Năm

Khấu hao

Giá trị
Chênh lệch
GTHL
còn lại
đánh giá lại


Bút toán điều chỉnh
Ghi tăng nguyên giá:
Nợ Nguyên giá 100

1

300
[1800:6]

1500

1600

100

Có Chênh lệch đánh giá lại: 100
Thuế hoãn lại liên quan đến đánh giá lại:
Nợ Chênh lệch đánh giá lại: 20 [100x20%]
Có Thuế hoãn lại phải trả: 20

2

3

320
[1600:5]

375
[1500:4]


1280

1125

1500

720

220

-405

Như vậy, có thể hiểu quan điểm (mô hình) tính
giá bao gồm cả việc xác định các cơ sở giá dựa trên
các giả định đặt ra, tổ chức để tiến hành tính giá, sử
dụng phương pháp tính giá nhằm biểu hiện giá trị
đo lường bằng tiền tệ của đối tượng kế toán từ khi
ghi nhận ban đầu, sau ghi nhận ban đầu, và phản
ánh ảnh hưởng thông tin của chính đối tượng kế
toán đó trên báo cáo tài chính.
Nếu như việc xác định cơ sở giá phi thị trường
(giá trị đang sử dụng, giá trị thuần có thể thực hiện

Ghi tăng nguyên giá
Nợ Nguyên giá 220
Có Chênh lệch đánh giá lại: 220
Thuế hoãn lại liên quan đến đánh giá lại
Nợ Chênh lệch đánh giá lại: 44
Có Thuế hoãn lại phải trả: 44 [220x20%]
Thuế hoãn lại phải trả liên quan đến khấu hao

trong kỳ
Nợ Thuế hoãn lại phải trả: 4 [(320-300x20%]
Có CP thuế hoãn lại: 4
Ghi tăng nguyên giá
Nợ Chênh lệch đánh giá lại: 320
Nợ Lỗ do đánh giá lại: 85
Có Nguyên giá: 405
Thuế hoãn lại liên quan đến đánh giá lại
Nợ Thuế hoãn lại phải trả: 81 [405 x 20%]
Có Chi phí thuế hoãn lại: 17 [85 x 20%]
Có Chênh lệnh đánh giá lại: 64[320 x 20%]
Thuế hoãn lại liên quan đến phần thực hiện trong
kỳ
Nợ Thuế hoãn lại phải trả: 15
Có CP thuế hoãn lại: 15 [(375-300) x20%]
được, giá trị thanh lý) đều dựa trên các đánh giá
mang tính chủ quan, thì việc xác định giá trị thị
trường (giá trị hợp lý) dựa trên thị trường hoạt động
(hay dựa trên cơ sở là các bên tham gia trao đổi
hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc) liệu rằng
có mang tính chất khách quan hay không. Theo ý
kiến của tác giả, nó sẽ mang tính khách quan nếu
có thị trường hoạt động và có giá tham chiếu cụ thể
(GTHL với đầu vào quan sát được ở cấp độ 1, hoặc
cấp độ 2), còn nếu dữ liệu đầu vào không quan sát
được thì cần phải xác định những ước tính kế toán.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN

Số 138 - tháng 4/2019


51


TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN

Theo đó, việc xác định các loại giá này có mối quan
hệ rất chặt chẽ với cơng tác định giá tài sản trong
doanh nghiệp (kỹ thuật định giá tài sản trong DN).
Tuy nhiên, trong thực tế hay có sự nhầm lẫn giữa
các khái niệm định giá tài sản, đánh giá tài sản và
thẩm định giá tài sản. Để làm rõ vấn đề này, sau đây
tác giả sẽ đưa ra các khái niệm về định giá tài sản
và thẩm định giá tài sản trong sự so sánh với quan
điểm (mơ hình) tính giá vừa nêu trên.
* Về định giá tài sản và thẩm định giá tài sản
Về định giá “Định giá có thể được hiểu là việc
đánh giá giá trị của tài sản phù hợp với thị trường
tại một địa điểm, thời điểm nhất định”.
Định giá tài sản là việc xác định các mức giá cụ
thể cho từng loại tài sản làm căn cứ cho các hoạt
động giao dịch mua, bán tài sản, hàng hóa, dịch vụ
đó trên thị trường. Đối với các loại tài sản, hàng
hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá (các cơ quan có
thẩm quyền quy định) thì các mức giá cụ thể của
từng loại tài sản, hàng hóa mang tính bắt buộc mọi
đối tượng tham gia hoạt động giao dịch, mua bán
phải thực hiện. Đối với các tài sản, hàng hóa, dịch
vụ khơng thuộc danh mục Nhà nước định giá thì
do các tổ chức, cá nhân tự định giá theo quy luật thị
trường làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch mua

bán, trao đổi.
Về thẩm định giá, giới nghiên cứu học thuật
trên thế giới đó đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau:
- Theo từ điển Oxford: “Thẩm định giá là sự ước
tính giá trị bằng tiền của một vật, của một tài sản”;
“là sự ước tính giá trị hiện hành của tài sản trong
kinh doanh”.
- Theo giáo sư W.Seabrooke - Viện Đại học
Portsmouth, Vương quốc Anh: “Thẩm định giá
là sự ước tính giá trị của các quyền sở hữu tài sản
cụ thể bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích đó
được xác định”.
- Theo Ơng Fred Peter Marrone - Giám đốc
Marketing của AVO, Úc “Thẩm định giá là việc xác
định giá trị của bất động sản tại một thời điểm có
tính đến bản chất của bất động sản và mục đích của
thẩm định giá. Do vậy, thẩm định giá là áp dụng
các dữ liệu của thị trường so sánh mà các thẩm
52

Số 138 - tháng 4/2019

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN

định viên thu thập được và phân tích chúng, sau đó
so sánh với tài sản được u cầu thẩm định giá để
hình thành giá trị của chúng”.
- Theo Gs. Lim Lan Yuan - Singapore: Thẩm
định giá là một nghệ thuật hay khoa học về ước
tính giá trị cho một mục đích cụ thể của một tài

sản cụ thể tại một thời điểm, có cân nhắc đến tất
cả những đặc điểm của tài sản cũng như xem xét
tất cả các yếu tố kinh tế căn bản của thị trường bao
gồm các loại đầu tư lựa chọn.
- Theo Pháp lệnh Giá số 40/2002/PL-UBTVQH
10 năm 2002 của Việt Nam, trong thẩm định giá
được định nghĩa như sau: “Thẩm định giá là việc
đánh giá hoặc đánh giá lại giá trị của tài sản phù
hợp với thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất
định theo tiêu chuẩn của Việt Nam hoặc thơng lệ
quốc tế”.
- Theo Luật Giá số 11/2012/QH13 ngày 20/06/2012
của Việt Nam: “Thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức
có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền
của các loại tài sản theo quy định của Bộ Luật Dân
sự phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời
điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định theo
tiêu chuẩn thẩm định giá”.
Mặc dù có nhiều định nghĩa nhưng khi đề cập
về thẩm định đều có chung một số yếu tố nhất định
là: Thẩm định giá là cơng việc ước tính giá trị tài
sản tại thời điểm đánh giá; thẩm định giá đòi hỏi
tính chun mơn về nghiệp vụ thẩm định giá; giá
trị của tài sản được biểu hiện dưới hình thái tiền
tệ; thẩm định giá cho một u cầu, mục đích nhất
định; xác định tại một thời điểm, địa điểm cụ thể,
trong một thị trường nhất định với những điều
kiện nhất định; được thực hiện dựa trên cơ sở sử
dụng các dữ liệu, các yếu tố của thị trường.
Như vậy, có thể hiểu định giá là do chủ thể hoặc

khách thể quy định, còn thẩm định giá do khách
thể xem xét lại giá trị của tài sản đã được định giá.
Theo Luật Giá số 11/2012/QH13, định giá là việc
cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh quy định giá cho hàng
hóa, dịch vụ (tức DN có thể tự xác định giá trị tài
sản tại đơn vị mình). Nếu quy định khách thể xem
xét lại giá trị của tài sản của DN đã được định giá


cho các mục đích đầu tư, thanh lý tài sản hay sáp

việc đánh giá lại TSCĐ nhằm:

nhập doanh nghiệp, cổ phần hóa thì đó là quy định

- Để thấy tỷ lệ lợi nhuận thực sự trên vốn được
sử dụng.

bởi sự lựa chọn các chuyên gia thẩm định giá. Theo
đó, thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức
năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của
các loại tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự
phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời
điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định
theo tiêu chuẩn thẩm định giá. Báo cáo kết quả
thẩm định giá là văn bản do doanh nghiệp thẩm
định giá lập, trong đó nêu rõ quá trình thẩm định
giá, kết quả thẩm định giá và ý kiến của doanh
nghiệp thẩm định giá về giá trị của tài sản được

thẩm định để khách hàng và các bên liên quan có
căn cứ sử dụng cho mục đích ghi trong hợp đồng
thẩm định giá. Công việc này được thực hiện bởi
các nhà chuyên môn được đào tạo, có kiến thức,
kinh nghiệm, có tính trung thực và tuân theo các
tiêu chuẩn thẩm định giá do Nhà nước quy định.
Kết quả của việc xác định giá cả do các thẩm định
viên đưa ra là cơ sở để các tổ chức, cá nhân có tài
sản định ra mức giá phù hợp trong giao dịch.
* Về đánh giá lại TSCĐ
Về bản chất, đánh giá lại là công việc yêu cầu
DN phải xác định giá trị của tài sản sát với mức giá
thị trường tại thời điểm lập BCTC. Mục đích của

- Bảo toàn đủ số tiền trong kinh doanh để thay
thế tài sản cố định khi hết thời hạn sử dụng.
- Dự phòng khấu hao dựa trên chi phí lịch sử
sẽ cho thấy lợi nhuận tăng cao và dẫn đến việc trả
cổ tức quá mức.
- Để thấy được giá trị thị trường của tài sản đã
tăng giá cao đáng kể kể từ khi mua như đất và bất
động sản.
- Thương lượng giá hợp lý đối với tài sản của
công ty trước khi sáp nhập với hoặc mua lại bởi
một công ty khác.
- Phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu
(phát hành quyền hoặc chào bán tiếp theo).
- Để có được giá trị thị trường hợp lý của tài
sản, trong trường hợp giao dịch bán và cho thuê lại.
- Khi công ty có ý định vay vốn từ các ngân hàng

/ tổ chức tài chính bằng cách thế chấp tài sản cố
định của mình. Đánh giá lại tài sản hợp lý sẽ giúp
công ty có được số tiền vay cao hơn.
- Trong các công ty tài chính, các khoản dự trữ
đánh giá lại được yêu cầu vì lý do pháp lý. Chúng
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN

Số 138 - tháng 4/2019

53


TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN

được bao gồm khi tính lượng tiền của một cơng ty
để cung cấp một cái nhìn cơng bằng hơn về nguồn
tài ngun hiện có. Chỉ một phần của tổng số tiền
của cơng ty (thường là khoảng 20%) có thể được
cho mượn hoặc nằm trong tay của bất kỳ một đối
tác khác tại một thời điểm nhất định.
- Để giảm tỷ lệ đòn bẩy (tỷ lệ nợ trên vốn chủ
sở hữu).
Trong sự phân biệt giữa định giá tài sản và thẩm
định giá với mơ hình tính giá trong kế tốn TSCĐ
(mơ hình đánh giá lại), có thể thấy mối liên kết
giữa đánh giá lại với định giá tài sản và thẩm định
giá. Để thực hiện được cơng việc đánh giá lại đòi
hỏi cần có kỹ thuật định giá tài sản trong DN.
Ví dụ cụ thể:
Doanh nghiệp có thể thực hiện kỹ thuật định

giá thơng qua việc thu thập các thơng số kỹ thuật
tương đồng về chất lượng và cơng năng còn lại (dựa
trên đặc điểm về ngày sản xuất, kích thước, cơng
suất, tuổi thọ hiện nay, tuổi thọ dự tính, tuổi thọ còn
lại, báo cáo về duy tu, bảo dưỡng, bảo hành, lắp ráp
thiết bị đi kèm...) từ đó điều chỉnh theo các mức giá
của máy móc thiết bị (MMTB) cùng tiêu chuẩn (đặc
trưng kỹ thuật của MMTB chuẩn). DN có thể xác
định giá trị hợp lý của tài sản bằng cách xác định
giá của TSCĐ thay thế (mới) trên thị trường nhân
với thời gian khấu hao còn lại và chia cho thời gian
sử dụng hữu ích của chính TSCĐ đó. Bởi lẽ, giá trị
hợp lý của một số tài sản cố định có thể khá biến
động, đòi hỏi phải đánh giá lại thường xun mỗi
năm một lần. Nếu một tài sản cố định có tính chất
chun biệt đến mức khơng thể có được giá trị hợp
lý dựa trên thị trường, thì nên sử dụng một phương
pháp thay thế để đạt đến giá trị hợp lý ước tính (ví
dụ như sử dụng phương pháp dòng tiền chiết khấu
trong tương lai hoặc ước tính chi phí thay thế của
một tài sản). Việc th các cơ quan thẩm định giá
nhằm xác định giá trị của tài sản dùng cho mục
đích cổ phần hóa, đầu tư hay sáp nhập DN thì cũng
mang lại cách xác định giá trị thị trường của tài sản
(dựa trên phương pháp chi phí, phương pháp thu
nhập), tuy nhiên đây là cơng việc của các cơ quan
thẩm định giá với kỹ năng nghiệp vụ chun mơn
chứ khơng phải cơng việc tính giá của DN.
54


Số 138 - tháng 4/2019

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN

Kết luận
Trên đây là những ý kiến trao đổi của tác giả
về cách hiểu mơ hình tính giá trong kế tốn. Dựa
trên cơ sở so sánh với các khái niệm như cơ sở tính
giá, phương pháp tính giá, định giá, thẩm định giá
và đánh giá lại, bài viết hy vọng sẽ giải quyết được
những vướng mắc trong q trình nhận thức và
xác định giá trị tài sản thực tiễn hiện nay nhằm
phục vụ cho q trình cung cấp thơng tin cho các
đối tượng sử dụng trong từng giai đoạn cụ thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bierman, H. (1963), Measurement and
Accounting, The Accounting Review, Vol.
38, July;
2. Bunge, M. (1967), Scientific Research II The
Search for Truth, Springer Verlag;
3. Griffin, C. H., Williams, T. H. and Larson,
K. D. (1971), Advanced Accounting,
Richard D. Irwin;
4.
Heath, L. C. (1987), Accounting,
Communication, and the Pygmalion
Syndrome, Accounting Horizons, Vol.1, No. 1;
5. Hornby, A. S., Gatenby, E.V. and Wakefield,
H. (1966), The Advanced Learner’s
Dictionary of Current English, Oxford

University Press;
6. Horngren, C. T., Foster, G. and Datar, S. M.
(1994), Cost Accounting – A Managerial
Emphasis, Prentice Hall;
7. Horneren, C. T. and Harrison, JR., W. T.
(1989), Accounting, Prentice Hall;
8.Ijiry, Y (1975), Theory of Accounting
Measurement,
American
Accounting
Association;
9.Petri Vehmanen (2013), Measurement
of assets and the classical measurement
theory, LTA 2/13, pp 130-161, http://pdfs.
semanticscholar.org/4407/0ba079ec926467a;
10. Rescher, N. (1969), Introduction to Value
Theory, Prentice-Hall;
11. Sterling, R. R. (1979), Toward a Science of
Accounting, Scholars Book;
12. Stevens, S. S. (1946), On the Theory of
Scales of Measurement, Science, Vol. 103,
January-June.



×