Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của bộ đội biên phòng đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.43 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

LÊ NHƯ ĐỨC

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC
THIỂU SỐ CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG ĐÁP
ỨNG YÊU CẦU BẢO VỆ CHỦ QUYỀN AN NINH
BIÊN GIỚI NƯỚC TA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Văn Huyên

Hà nội - 2004


MỞ ĐẦ
Chương 1:

VAI TRÕ

PHÕNG T

GIỚI QU

1.1- Nội dun
gia.

1.2 - Yêu cầu


phòng đ

giới Quố
Chương 2:

THỰC TR

BIÊN PHÕ

NINH BIÊ

2.1 - Những

Biên ph

2.2 - Mặt hạn
dân tộc
Chương 3:

NHỮNG

TỘC THI
VỆ CHỦ

3.1 - Quán tr

Đội ngũ

3.2 - Mục tiêu


cán bộ d
Kết luận

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Bất cứ một quốc gia, dân tộc nào có độc lập, chủ quyền đều phải có
biên giới quốc gia. Biên giới quốc gia, là “vỏ bọc”, là “phên dậu” của mỗi
quốc gia, là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Cùng với quá trình dựng nước và giữ nước, biên giới quốc gia của dân tộc
Việt Nam được hình thành, củng cố và ngày càng được bảo vệ vững chắc. Trong
lịch sử vẻ vang hàng nghìn năm của dân tộc ta, một quy luật có tính đặc thù và
đã trở thành truyền thống mà nhân dân ta rút ra được, đó là dựng nước luôn đi
đôi với giữ nước. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hơn nửa thế kỷ qua của
Đảng và Nhà nước ta cũng cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp đổi mới, mở cửa giao lưu quốc tế,
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc càng trở nên bức thiết.
Biên giới nước ta là cửa ngõ, là đầu mối giao lưu quốc tế, có vị trí chiến
lược rất quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Vùng
biên giới chứa đựng nhiều tiềm năng kinh tế đã và đang được khai thác để thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Biên giới nước ta cũng là nơi bọn
tình báo, gián điệp nước ngoài thường xâm nhập, móc nối với bọn phản cách
mạng trong nước để nhen nhóm các tổ chức phản động, gây bạo loạn chống phá
cách mạng nước ta. (Như vụ bạo loạn ở Tây Nguyên tháng 02 năm 2001 và tháng
4 năm 2004). Nếu vấn đề biên giới không được giải quyết tốt cũng dễ nảy sinh
ngòi nổ hoặc nguyên cớ dẫn đến chiến tranh biên giới, chiến tranh xâm lược.
(Như chiến tranh biên giới phía Tây Nam năm 1976, chiến tranh biên giới phía

Bắc năm 1979). Vì vậy, nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn chủ quyền an ninh biên giới
quốc gia có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

2


Bộ đội Biên phòng được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho nhiệm vụ
là lực lượng nòng cốt chuyên trách bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới của Tổ
quốc. Biên giới đất liền nước ta dài 4667 km, địa hình rừng núi hiểm trở, Bộ đội
Biên phòng có đông bao nhiêu cũng không thể rải khắp để quản lý và giữ đất,
đường biên, cột mốc. Do đó, Bộ đội Biên phòng phải xây dựng và phát huy lực
lượng tại chỗ, đó là quần chúng nhân dân ở khu vực biên giới. Trong quần chúng
nhân dân ở khu vực biên giới, đồng bào các dân tộc thiểu số là chủ yếu (chiếm
90%). Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên
phòng làm lực lượng nòng cốt vận động quần chúng nhân dân bảo vệ chủ quyền
an ninh biên giới quốc gia, thực hiện quan điểm toàn dân đánh giặc, toàn dân giữ
nước, biên phòng toàn dân để xây dựng "Đồn là nhà, biên giới là quê hương,
đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt". Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan
trọng, vừa đáp ứng được yêu cầu xây dựng và bảo vệ biên giới trước mắt, vừa có
ý nghĩa chiến lược lâu dài.

Cán bộ Bộ đội Biên phòng là người dân tộc thiểu số tại chỗ, vừa
thông hiểu phong tục tập quán, vừa quen thuộc địa hình miền núi biên giới,
có cùng ngôn ngữ, dòng họ, có uy tín với già làng, trưởng bản, có tâm
huyết với quê hương, thực sự gắn bó với biên giới và đồng bào các dân tộc.
Hơn nữa, thực tế cho thấy, mỗi cán bộ của dân tộc thiểu số nào đều là niềm
vinh dự và tự hào của dân tộc thiểu số đó, họ chăm lo cho dân, quan tâm
đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, chính vì vậy nhân dân tin
yêu và gắn bó mật thiết với cán bộ. Do đó, việc nắm bắt tình hình nhanh,

quản lý địa bàn biên giới vững chắc, vận động, thuyết phục và tập hợp
đồng bào các dân tộc thiểu số để bảo vệ an ninh biên giới có hiệu quả, giải
quyết các vụ việc xảy ra kịp thời, nhất là đối với các điểm nóng. Đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc bảo vệ an
ninh biên giới, chăm lo xây dựng quê hương, làng bản, nâng cao dân trí,
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở khu vực miền núi biên giới nước ta.
3


Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng
hiện nay ở nước ta chưa đảm bảo về số lượng, cũng như chất lượng để đảm
nhiệm trọng trách bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới theo yêu cầu mới.
Hiện nay, trên toàn quốc số cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng
mới chỉ chiếm 8,9% tổng số cán bộ của Bộ đội Biên phòng. Đội ngũ quân
nhân chuyên nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ tỷ lệ còn thấp, chỉ có 5%.
Nhiều địa bàn chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, nhưng các đơn vị Bộ
đội Biên phòng không có cán bộ dân tộc thiểu số hoạt động trên các địa bàn
đó. Công tác tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số cũng
đang gặp nhiều khó khăn, nhất là do trình độ văn hoá của thanh niên các
dân tộc thiểu số ở vùng cao biên giới còn thấp, số đã tốt nghiệp trung học
phổ thông do tác động mặt tiêu cực của cơ chế thị trường và ảnh hưởng của
các phong tục, tập quán lạc hậu nên không muốn vào bộ đội.

Xuất phát từ yêu cầu và thực trạng nêu trên, việc xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền
an ninh biên giới quốc gia hiện nay là yêu cầu khách quan có tính cấp thiết,
vừa trước mắt và lâu dài cả về phương diện lý luận và thực tiễn, thôi thúc tôi
lựa chọn vấn đề: "Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên
phòng đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới của nước ta hiện
nay" làm đề tài luận văn của mình.


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ Đại hội Đảng lần thứ IV đến nay, Đảng ta luôn xác định 2 nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 3
(khoá VII) chuyên đề về quốc phòng và an ninh, đã đặt ra các yêu cầu nhiệm vụ
và chủ trương lớn của sự nghiệp bảo vệ vững chắc chủ nghĩa xã hội
ở nước ta, định hướng chiến lược cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc nói chung và
bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới nói riêng. Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết

4


11 "Về việc xây dựng Bộ đội Biên phòng trong tình hình mới". Đây là nghị
quyết rất cơ bản và toàn diện xác định nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh
biên giới và xây dựng Bộ đội Biên phòng trong tình hình mới. Nghị quyết
xác định rõ: “Nhiệm vụ biên phòng trong tình hình mới rất toàn diện và
phức tạp, bao gồm: Bảo vệ biên giới trên bộ, trên biển, bảo vệ chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội,
chống xâm nhập trái phép và chống buôn lậu qua biên giới, bảo vệ tài
nguyên của đất nước, xây dựng biên giới hoà bình hữu nghị, hợp tác phát
triển với các nước láng giềng. Đó là nhiệm vụ rất to lớn, nặng nề và lâu dài
nhằm góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của nhân dân ta là xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Đồng thời nghị quyết cũng chỉ rõ : “Trong Bộ đội Biên phòng nói chung,
trước hết là trong đội ngũ sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp cần nâng
cao tỷ lệ các đồng chí thuộc dân tộc ít người hoặc là người cư trú tại địa
phương"[18]; Quyết định 72 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về
một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi.
Ngoài những nghị quyết và chỉ thị nói trên, trong những năm gần đây còn
có nhiều bài viết của các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quân đội và

nhiều công trình khoa học của các tập thể và các nhà nghiên cứu đề cập đến vấn
đề chủ quyền an ninh biên giới quốc gia và xây dựng đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số, trong đó phải kể đến các công trình tiêu biểu:

-

Mai Chí Thọ: Mấy vấn đề cấp bách về công tác bảo vệ an ninh trật

tự và xây dựng lực lượng công an nhân dân, Tạp chí Công an Nhân dân, số
4/1989..
-

Đặng Đình Trại: Mấy vấn đề tạo nguồn cán bộ dân tộc ít người đối

với sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng ở quân khu I, Tạp
chí Quốc phòng toàn dân số 4/1999.

5


-

Phạm Hữu Bồng: Bộ đội Biên phòng tham gia xây dựng cơ sở

chính trị, phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng an ninh các xã,
phường biên giới, hải đảo, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 9/1998..
-

Đặng Vũ Liêm: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc trong Bộ đội Biên


phòng đáp ứng tình hình nhiệm vụ thời kỳ mới, Tạp chí Xây dựng Đảng, số
3/1999..
-

Trần Danh Bích: Xây dựng cơ cấu hợp lý đội ngũ cán bộ quân đội

nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, Luận án Phó tiến sĩ
khoa học Quân sự, Hà Nội, 1996..
-

Mạch Quang Thắng: Xây dựng đội ngũ cán bộ ở vùng núi theo tư

tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6/1996..
-

Nguyễn Đức Châu - Nguyễn Tuấn Chung: Ông cha ta bảo vệ biên

giới, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội, 1994.
-

Nguyễn Quang Dự: Xây dựng hợp lý đội ngũ cán bộ dân tộc trong

Bộ đội Biên phòng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh
biên giới, Tạp chí Công an Nhân dân, số 6/1993.
-

Nguyễn Kim Khanh: Tham gia xây dựng cơ sở chính trị phường, xã

biên giới trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ trọng yếu của Bộ đội Biên
phòng, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 1/1999.

-

Nguyễn Khắc Lãn: Phát triển kinh tế xã hội các dân tộc, gắn với an

ninh quốc phòng và chủ quyền biên giới quốc gia , Thông tin Khoa học kỹ
thuật Quốc phòng, số 3/1998.
-

Lê Xuân Giang: Nguồn đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số ở đơn vị cơ

sở Bộ đội Biên phòng thực trạng và giải pháp, Thông tin Giáo dục lý luận
chính trị Quân sự, số 1/1997.
Với những công trình khoa học nêu trên, từ các góc độ nghiên cứu và đối
tượng tiếp cận khác nhau, các tác giả đã phân tích làm rõ cơ sở lý luận và

6


thực tiễn của vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Nhưng cho đến
nay chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện và hệ
thống vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng
trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới nước ta hiện nay, nhất là
chưa đi sâu nghiên cứu vào vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở cấp đồn, cấp
đội của Bộ đội Biên phòng. Đây là lỗ hổng lớn trong nghiên cứu lĩnh vực cán bộ
và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng, vấn đề này
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ quan
trọng mà Đảng, Nhà nước ta đã đề ra cho công tác biên phòng. Với luận văn này,
tôi hy vọng sẽ góp tiếng nói riêng, dù là nhỏ bé của mình vào việc lấp dần
khoảng trống nêu trên, góp phần cung cấp một số cơ sở lý luận, thực tiễn cho
việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng để bảo vệ

chủ quyền an ninh biên giới ở nước ta hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
+

Mục đích:

Luận văn làm rõ vị trí, vai trò và thực trạng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số của Bộ đội Biên phòng, từ đó nêu lên giải pháp xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng nhằm đáp ứng tốt yêu cầu
và nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn chủ quyền an ninh biên giới của Tổ quốc.
+

Nhiệm vụ:

Để thực hiện mục đích trên, luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ
chủ yếu sau đây:
Làm rõ vị trí, vai trò đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên
phòng trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia.

7


Phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên
phòng, chỉ ra những mặt mạnh, những hạn chế và những vấn đề đặt ra đối
với việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng.
Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng để bảo vệ chủ quyền
an ninh biên giới nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn:

Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng về
bảo vệ Tổ quốc nói chung và bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới nói riêng, về
vấn đề dân tộc, về công tác cán bộ. Luận văn bám sát các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng và Nhà nước về vấn đề biên giới và kế thừa tư tưởng các tài liệu nghiên
cứu về cán bộ dân tộc thiểu số của những người đi trước.

Đi sâu nghiên cứu thực tiễn các dân tộc thiểu số trên các tuyến biên
giới Việt-Trung, Việt-Lào, Việt-Cămpuchia và việc xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng nhằm phân tích, khái quát, rút ra
những vấn đề chủ yếu phục vụ cho mục đích đã đề ra.
Luận văn sử dụng các phương pháp: lôgíc-lịch sử, phân tích, tổng
hợp, kết hợp chặt chẽ các phương pháp điều tra khảo sát thực tế, đặc biệt
coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn:
Luận văn đã góp phần làm rõ vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an
ninh biên giới quốc gia.
Hệ thống hoá và cụ thể hoá một bước về tiêu chuẩn chức danh cán bộ
người dân tộc thiểu số ở cấp cơ sở của Bộ đội Biên phòng
8


Vạch ra những nội dung, biện pháp để tuyển chọn, đào tạo, sử dụng
và phát huy đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng trong
sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với kết quả bước đầu đạt được, luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý
luận khoa học và thực tiễn để giúp cho cấp uỷ, chỉ huy các cấp nhận thức
sâu sắc hơn nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội

Biên phòng, từ đó vận dụng thực hiện tốt công tác tuyển chọn, đào tạo, sử
dụng và thực hiện các chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số của Bộ đội Biên phòng.
Luận văn được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác
nghiên cứu, học tập, giảng dạy môn công tác biên phòng, môn công tác
đảng, công tác chính trị trong Học viện Biên phòng và các trường Trung
học Biên phòng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương 6 tiết.
Chương 1: Vai trò đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên
phòng trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia.
Chương 2: Thực trạng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội
Biên phòng trước yêu cầu bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới hiện nay.
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ Quyền an
ninh biên giới nước ta hiện nay.

9


10


Chƣơng 1
VAI TRÕ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ
CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÕNG TRONG SỰ NGHIỆP BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN AN NINH BIÊN GIỚI QUỐC GIA
1.1. Nội dung nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia
1.1.1. Khái niệm về chủ quyền an ninh biên giới quốc gia

Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
đường và mặt phẳng đứng, theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền,
các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa,
vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Biên giới quốc gia, là giới hạn xác định lãnh thổ của một quốc gia. Vì vậy, biên
giới là vấn đề thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia. Bất kể dân tộc
nào cũng vậy, muốn bảo vệ độc lập chủ quyền của Tổ quốc, trước hết phải bảo vệ
vững chắc biên giới quốc gia. Chính vì thế, các nước có chung biên giới thường
có các hiệp định, hiệp ước, qui chế về biên giới và tổ chức các lực lượng nòng
cốt chuyên trách bảo vệ biên giới.

Lãnh thổ quốc gia là một phần của quả đất, bao gồm vùng đất, vùng
nước, vùng trời, giới hạn bởi biên giới quốc gia và thuộc chủ quyền của
một quốc gia. Do đó, chủ quyền lãnh thổ là quyền lực tối cao tuyệt đối và
toàn diện của Nhà nước đối với lãnh thổ quốc gia về chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội, tài nguyên, môi trường, sinh thái; nó vừa thể hiện quyền uy,
vừa là lợi ích của quốc gia được pháp luật và công ước quốc tế thừa nhận.
Nhà nước là chủ sở hữu quản lý và bảo vệ lãnh thổ.
An ninh biên giới quốc gia gồm: An ninh chính trị, an ninh văn hoá tư
tưởng, an ninh xã hội và an ninh kinh tế ở khu vực biên giới, trong đó chỉ sự yên
ổn, vững chắc của một chế độ chính trị-xã hội, sự nhất trí về chính trị tinh thần
của nhân dân, trật tự an toàn xã hội, ý thức về quốc gia-dân tộc, biên giới-lãnh
thổ mang ý nghĩa quan trọng. Sự toàn vẹn lãnh thổ, sự an toàn của

11


đường biên, cột mốc, sự tôn trọng luật pháp về biên giới và chủ quyền biên
giới quốc gia, không có sự vi phạm qui chế biên giới và tính vững chắc của
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. An ninh biên giới quốc gia gắn

liền với sự tồn tại và phát triển của Đảng, Nhà nước, chế độ và của cả dân
tộc trước mắt và lâu dài.
Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi
quốc gia, dân tộc, được pháp luật và tập quán quốc tế thừa nhận. Đó là
quyền lực tối cao của Nhà nước đối với mọi vấn đề trong phạm vi lãnh thổ
quốc gia và sự độc lập của quyền lực đó trong các quan hệ quốc tế. Tôn
trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế
hiện đại và các quan hệ quốc tế, được ghi nhận trong hiến chương của Liên
hợp quốc. Vì vậy, việc hoạch định biên giới quốc gia dựa trên cơ sở các
điều ước quốc tế về biên giới giữa các nước có chung đường biên giới,
hoặc được xác định bằng các văn bản pháp lý nội bộ của từng nước.
1.1.2. Khái lược về tình hình biên giới nước ta
Biên giới đất liền nước ta dài 4667 km, tiếp giáp với 3 nước đó là:
Cộng hoà nhân dân Trung Quốc, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào và
Vương quốc Cămpuchia. Địa hình khu vực biên giới hết sức đa dạng, phức
tạp, chủ yếu là rừng núi, khe suối hiểm trở, việc đi lại rất khó khăn và là địa
bàn tập trung nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống. Trong đó:
Biên giới Việt Nam - Trung Quốc dài 1463km được hoạch định cắm mốc
theo hiệp định năm 1887 giữa toàn quyền Pháp ở Đông Dương và triều đình
phong kiến Mãn Thanh. Trong kháng chiến chống Pháp, đây là vùng biên giới
hữu nghị. Từ giữa những năm 1960 và những năm 1970, tình trạng xâm canh,
xâm cư, qua lại biên giới trái phép, lấn chiếm, gây rối do phía Trung Quốc gây
nên ngày càng nhiều. Đến tháng 02/1979 Trung Quốc đã tiến hành cuộc chiến
tranh xâm lược ở 6 tỉnh biên giới phía bắc nước ta. Từ tháng

12


3/1979 quan hệ biên giới Việt Nam - Trung Quốc càng trở nên phức tạp, gay
gắt. Trong lịch sử của Trung Quốc từ trước đến nay, một quan điểm luôn luôn

nhất quán là sử dụng vấn đề biên giới vừa làm cớ, vừa làm phương tiện để mở
rộng lãnh thổ. Mặt khác, luôn tìm mọi thủ đoạn, dưới nhiều phương thức để
xê dịch cột mốc, thay đổi đường biên, lấn chiếm lãnh thổ của Việt Nam trên
thực địa cũng như trên bản đồ. So sánh đường biên giới thuộc chủ trương của
Trung Quốc với đường biên giới pháp lý (do Pháp-Thanh hoạch định), Trung
Quốc vẽ quá vào lãnh thổ nước ta 161 điểm, diện tích 19.649,8 ha = 197km 2,
trong đó có 73 điểm cũ, 88 điểm mới [32]. Những điểm mà Trung Quốc đã lấn
chiếm trên thực địa và mới thể hiện “Lấn” trên bản đồ đều là những điểm có
lợi cho kinh tế, hoặc là những điểm cao có lợi về quân sự. Hiện nay, lợi dụng
quan hệ bình thường giữa 2 nước và việc “Mở cửa hợp tác” của Nhà nước ta,
Trung Quốc đang thực hiện chiến lược biên giới "mềm" với ý đồ hàng hoá của
Trung Quốc đến đâu thì biên giới của Trung Quốc đến đó. Trung Quốc buôn
bán tiểu ngạch qua biên giới nhằm 2 mục tiêu: Một mặt biến nước ta thành thị
trường tiêu thụ hàng hoá của Trung Quốc, đồng thời thu hút tài nguyên, hàng
hoá có giá trị của ta, mặt khác tạo nên sự hỗn loạn trong việc qua lại biên giới,
làm rối ren trật tự kỷ cương nhằm trà trộn hoạt động, câu móc, nhen nhóm các
tổ chức phản cách mạng. Đặc biệt, những năm gần đây xuất hiện việc buôn
bán hàng lậu, buôn bán trẻ em, phụ nữ, vũ khí và ma tuý qua biên giới theo
chiều hướng gia tăng, gây nên những phức tạp mới. Cùng với những mưu đồ
của Trung Quốc và những nhân tố nội tại cho thấy: Biên giới Việt Nam Trung Quốc đang tiềm ẩn những yếu tố nguy hiểm cho an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội ở khu vực biên phòng phía Bắc nước ta.
Biên giới Việt Nam - Lào dài 2067 km trước đây mới được vạch ra trên
bản đồ, chưa có hệ thống mốc giới. Do địa hình hai bên biên giới là núi cao, rừng
rậm, bọn đế quốc và phản động nước ngoài thường sử dụng nơi đây làm

13


căn cứ gây phỉ, huấn luyện biệt kích, gián điệp để phá hoại biên giới và
cách mạng hai nước. Cuối năm 1975 cách mạng Lào thành công, nước

Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào ra đời. Ngày 18/7/1977 hiệp ước hoạch
định biên giới giữa hai nước Việt - Lào được ký kết. Chính phủ và nhân dân
hai nước cùng nhau xây dựng đường biên giới hữu nghị đặc biệt. Đến năm
1984 đã hoàn thành phân giới cắm mốc trên thực địa. Toàn tuyến được cắm
214 mốc bằng chất liệu tốt, kích thước, quy cách phù hợp, đó là đường biên
giới mang tính pháp lý quốc tế. Nhưng do quan hệ dân tộc, thân tộc lâu đời,
nhân dân hai bên biên giới qua lại tự do nên việc thực hiện quy chế biên
giới còn nhiều khó khăn. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch đang ráo riết thực hiện chính sách “Hai mặt” đối với Lào nhằm từng
bước chuyển hoá chế độ chính trị, hòng dần dần đưa Lào đi vào quỹ đạo
của chủ nghĩa tư bản, tách Lào ra khỏi ảnh hưởng của Việt Nam, đồng thời
chúng ra sức nuôi dưỡng, giúp đỡ bọn phản động lưu vong, lực lượng phỉ,
bọn phản động trong dân tộc ít người, phối hợp hoạt động dọc biên giới,
tuyên truyền vận động dân tộc Mông di cư tự do và truyền đạo trái phép,
kích động tư tưởng ly khai trong cán bộ dân tộc Lào, thành lập các khu tự
trị, xưng vua, gây bạo loạn. Những vấn đề trên đang ảnh hưởng đến quan
hệ đoàn kết hữu nghị giữa hai nước, trở thành yếu tố tiềm tàng gây mất ổn
định, đe dọa an ninh khu vực biên giới của hai nước.
Biên giới Việt Nam-Cămpuchia phần đất liền dài 1137 km được hình
thành theo Hiệp ước năm 1873 giữa toàn quyền Pháp ở Đông Dương và vua
Cămpuchia. Hệ thống cột mốc hầu hết bị hư hỏng, nhiều đoạn biên giới không rõ
ràng. Trong lịch sử, từ những năm 1960 - 1975 đây là tuyến biên giới bị tranh
chấp liên tục. Sau 1975 Pôn pốt đòi lãnh thổ ở 39 điểm, lấy cớ gây ra cuộc chiến
tranh xâm lược trên toàn bộ tuyến biên giới Tây Nam. Tháng 01/1979, nhân dân
Cămpuchia được giải phóng khỏi họa diệt chủng, nước Cộng hoà nhân dân
Cămpuchia ra đời. Ngày 20/7/1983 hai nước ký hiệp

14



ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới. Ngày 20/12/1985 ký hiệp ước
hoạch định biên giới và đã cắm mốc trên thực địa được 72/322 cột mốc. Gần đây,
Chính phủ Cămpuchia đơn phương không thừa nhận các hiệp ước đã ký, họ đòi
xét lại đường biên giới, xuyên tạc, vu khống Việt Nam về biên giới lãnh thổ, gây
hận thù và chia rẽ 2 dân tộc. Từ cuối năm 1993 đến nay, trên toàn tuyến biên
giới, các phe phái Cămpuchia đã gây ra nhiều vụ, nhiều điểm tranh chấp. Nhà
nước Cămpuchia, bằng việc thông qua luật “Nhập cư” đã phân biệt đối sử với
Việt kiều. Trong khi đó, một số nước lớn tiếp tục tranh giành ảnh hưởng đối với
Cămpuchia, nội bộ Cămpuchia còn nhiều diễn b iến phức tạp. Vùng biên giới là
địa bàn mà các phe phái Cămpuchia sử dụng để chống phá lẫn nhau, kết hợp với
bọn lưu vong để chống phá cách mạng nước ta. Do vậy, tình hình tuyến biên giới
Việt Nam - Cămpuchia đã và đang có nhiều diễn biến phức tạp trên các lĩnh vực
an ninh, quốc phòng, chủ quyền, lãnh thổ và mối quan hệ dân tộc, thân tộc giữa
nhân dân 2 bên biên giới.

Tình hình nội tại của ba tuyến biên giới nói trên đang đòi hỏi phải
xây dựng lực lượng Bộ đội Biên phòng nói chung và lực lượng cán bộ dân
tộc thiểu số tại chỗ của Bộ đội Biên phòng nói riêng, am hiểu lịch sử biên
giới, am hiểu tình hình địa bàn, tình hình hoạt động của kẻ địch và các phần
tử phản cách mạng nhằm trực tiếp tổ chức, chỉ huy bảo vệ chủ quyền an
ninh biên giới, xây dựng biên giới hòa bình hữu nghị và tham gia phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội nơi biên giới ngày càng giàu đẹp. Đó là nhiệm vụ
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và cấp bách trong tình hình hiện nay.
1.1.3. Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia


nước ta, biên giới quốc gia đã được hình thành từ lâu đời. Quá trình

hình thành biên giới quốc gia gắn liền với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ
nước của các thế hệ người Việt Nam suốt mấy ngàn năm lịch sử. Kế thừa quy

luật đấu tranh để tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam, tổ tiên ta từ

15


thời Lý đã nỗ lực giữ gìn phía Bắc và Đông Bắc, nhà Trần tiếp tục công việc của
nhà Lý củng cố miền Tây Bắc và Tây Thanh - Nghệ, nhà Lê đề ra nguyên tắc
đanh thép “Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được, kẻ
nào dám đem một thước núi, một tấc đất của Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc thì
kẻ đó phải bị trừng trị nặng” [27]. Tư tưởng mang tính chiến lược về công tác
biên phòng đã được vua Lê Thái Tổ đúc kết trong hai câu thơ:

"Biên phòng hảo vị trù phương lược
Xã tắc ưng tu kế cửu an"
(Biên phòng cần có phương lược tốt
Đất nước nên lo kế lâu dài) [26]
Và đến lượt mình, Quang Trung cũng đã khẳng định: “Trong khoảng
vũ trụ trời nào sao ấy đều đã phân định rõ ràng, phương Nam, phương Bắc
chia nhau mà cai trị” [25]. Lê Lợi và Nguyễn Trãi trong kế sách bảo vệ đất
nước đã đặt các đạo phiên trấn là phên dậu quốc gia, nên một dải biên
cương phía bắc hơn nghìn năm qua đã được giữ vững.
Để bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, nhân dân ta
trong suốt chiều dài lịch sử đã có các kế sách biên phòng tối ưu, phù hợp với
điều kiện lịch sử-cụ thể của đất nước và con người Việt Nam. Kế sách biên
phòng luôn được coi là một vấn đề quốc sách, có ý nghĩa chiến lược cơ bản và
lâu dài, gắn liền với chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Là một dân tộc nhỏ
luôn bị kẻ thù lớn xâm lăng, nhưng lịch sử bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới
quốc gia của cha ông ta thật là vinh quang và hiệu quả.
Trong lịch sử biên phòng của đất nước ta, có rất nhiều kinh nghiệm quý
báu được tổng kết, được kiểm chứng qua các thời kỳ lịch sử, từng bước phát

triển thành những phương lược biên phòng. Phương lược đó bao hàm những vấn
đề có ý nghĩa chiến lược cơ bản như: Quản lý chặt chẽ lãnh thổ và cư dân vùng
biên giới; tổ chức, sử dụng lực lượng vũ trang trấn giữ biên giới, kiểm soát biên
ải, kết hợp với việc động viên và tổ chức nhân dân các dân tộc vùng

16


biên giới tham gia bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia; xây dựng và
thực thi những chính sách, pháp luật, quy chế phù hợp để phục vụ công cuộc
biên phòng, thực hiện chính sách đối ngoại linh hoạt với các nước láng giềng để
giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Ngày nay, tình hình thế giới có nhiều biến động sâu sắc, nhất là sau khi
Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, đã có những tác động bất lợi cho cách mạng nước
ta. Tình hình an ninh khu vực, an ninh vùng biên giới, an ninh vùng dân tộc có
nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Song nhìn chung là đã có những chuyển
biến tích cực, mà rõ rệt nhất là chuyển từ đối đầu sang quan hệ hợp tác vì sự
nghiệp ổn định và phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi vùng biên giới.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong những năm qua nhân dân ta đã thu
được nhiều thành tựu quan trọng; giữ vững sự ổn định về chính trị, tổng sản
phẩm quốc dân (GDP) tăng trưởng đều, đời sống của nhân dân được nâng lên kể
cả vùng cao, vùng sâu biên giới.
Trong bối cảnh trên, những năm qua đối tượng đấu tranh để bảo vệ chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ta là: chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch, bọn
phản động lưu vong xâm nhập, bọn khủng bố, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, bọn
biệt kích, thám báo, thổ phỉ. Chúng ta phải xử lý đúng đắn mối quan hệ mở rộng
giao lưu hợp tác giữa nước ta với các nước trên thế giới, trên cơ sở nguyên tắc
tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Thực chất, đây là một cuộc
đấu tranh để bảo vệ Đảng, bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng
và chế độ xã hội chủ nghĩa nó diễn ra liên tục, giằng co, phức tạp, lâu dài, có lúc

quyết liệt ở trên địa bàn biên giới, nơi địa đầu của Tổ quốc. Vì vậy, công tác bảo
vệ chủ quyền an ninh biên giới của lực lượng Bộ đội Biên phòng trong những
năm qua đã kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ chế
độ chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hoá với yêu cầu giữ vững ổn định chính trị,
giữ gìn an ninh, trật tự và an toàn xã hội ở khu vực biên phòng. Chúng ta đã thực
hiện điều chỉnh lực lượng bố trí

17


chiến lược, đổi mới toàn diện chủ trương, đối sách và biện pháp công tác
biên phòng, nắm chắc tình hình, tích lũy được kinh nghiệm nên đã đấu
tranh có hiệu quả với các loại đối tượng trong và ngoài nước, hạn chế và
ngăn chặn được sự phá hoại trên nhiều mặt chính trị, an ninh, quân sự, kinh
tế, văn hoá, tư tưởng với nhiều hình thức và thủ đoạn có vũ trang và không
có vũ trang, công khai và bí mật, đẩy lùi các hoạt động lấn chiếm, ngăn
chặn một cách có hiệu quả các hoạt động xâm nhập, hoạt động tình báo phá
hoại, tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc. Bên cạnh đó chúng ta đã tiến hành khảo sát, chuẩn bị hồ sơ, tài liệu,
tranh thủ thời cơ, từng bước giải quyết những tồn tại do lịch sử để lại, cũng
như những vấn đề mới nảy sinh trong quan hệ biên giới bằng việc đàm
phán thương lượng, trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, giữ vững độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Do đó, mặc dù tình hình các khu vực biên
phòng có những diễn biến hết sức phức tạp, song về cơ bản vẫn không để
sảy ra căng thẳng xung đột, giữ vững ổn định, tạo môi trường và điều kiện
thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy vậy, công tác biên phòng là công tác chiến lược và sách lược; là vấn
đề lâu dài, đồng thời là vấn đề bức xúc thường ngày. Về điều này, thông báo số
109/TBTW (tháng 4/1995) của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã nhấn mạnh:
“Nhiệm vụ biên phòng trong tình hình mới rất toàn diện và phức tạp, bao gồm

bảo vệ biên giới trên bờ, trên biển; bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội, chống xâm nhập trái phép và chống
buôn lậu qua biên giới, bảo vệ tài nguyên đất nước ở vùng biên giới; xây dựng
biên giới hoà bình hữu nghị với các nước láng giềng, góp phần cùng nhân dân cả
nước thực hiện thắng lợi chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, mở rộng
quan hệ đối ngoại, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, ngăn chặn và làm thất bại
mọi âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa

18


bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [31].
Bộ đội Biên phòng là một lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng và
Nhà nước, là một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, có chức
năng quản lý nhà nước về biên giới quốc gia, làm nòng cốt chuyên trách
quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới trên đất liền, hải đảo , vùng
biên giới và tại các cửa khẩu, đồng thời là một lực lượng thành viên trong
khu vực phòng thủ tỉnh, huyện biên giới. Từ chức năng, nhiệm vụ của Bộ
đội Biên phòng nói chung và tình hình trên các tuyến biên giới, công tác
bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia của ta hiện nay nổi lên một số
nhiệm vụ chính sau đây:
1- Tổ chức quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc
ở khu vực biên giới trên bộ và trên biển, bảo vệ an ninh biên giới quốc gia,
bảo vệ lợi ích và tài nguyên quốc gia trên khu vực này, ngăn chặn mọi hành
động xâm phạm và làm thay đổi đường biên giới quốc gia.
2- Tổ chức kiểm tra thực hiện pháp luật về biên giới quốc gia trên bộ
và trên biển thuộc chủ quyền của Nhà nước Việt Nam, kiểm soát việc xuất
nhập cảnh qua các cửa khẩu biên giới và các đường qua lại biên giới, ngăn
chặn và xử lý các hành động vi phạm pháp luật về biên giới trên vùng biển,

Bộ đội Biên phòng làm nhiệm vụ biên phòng trong phạm vi ranh giới được
Nhà nước phân công.
3- Tổ chức thực hiện quan hệ phối hợp với lực lượng biên phòng nước
láng giềng để thi hành các điều ước quốc tế, các hiệp ước, hiệp định với từng
nước láng giềng trong quan hệ biên giới, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị,
hợp tác phát triển góp phần xây dựng quan hệ giữa các nước láng giềng thân
thiện và giữa nhân dân hai bên biên giới, đấu tranh ngăn chặn mọi hành động
làm phương hại đến quan hệ biên giới giữa hai nước, giữa các nước và xâm
phạm chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nước ta.

19


4- Đấu tranh chống âm mưu và hành động của các thế lực thù địch, các
bọn phản cách mạng phá hoại biên giới quốc gia, giữ gìn vững chắc an ninh ở
khu vực biên giới Tổ quốc; chiến đấu chống các bọn tội phạm có vũ trang, bọn
thổ phỉ, hải phỉ, biệt kích phá rối an ninh gây bạo loạn ở vùng biên giới.
5- Trực tiếp và phối hợp với các lực lượng, các ngành có chức năng của
Nhà nước đấu tranh chống bọn buôn lậu qua lại biên giới và các bọn tội phạm
khác, bảo vệ lợi ích quốc gia và lợi ích của nhân dân, bảo vệ tài nguyên môi
trường sinh thái, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên khu vực biên giới.

6- Liên hệ chặt chẽ với quần chúng, dựa vào quần chúng để thực hiện
nhiệm vụ, đồng thời tuyên truyền, vận động nhân dân vùng biên giới tăng
cường đoàn kết dân tộc thực hiện các chủ trương và chương trình kinh tế
-xã hội của Đảng và Nhà nước, tích cực xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng
nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh gắn với
thế trận an ninh nhân dân trên vùng biên giới.
7- Phối hợp với các đơn vị vũ trang khác và nhân dân chiến đấu
chống quân xâm lược gây xung đột và tiến hành chiến tranh.

1.2. Yêu cầu đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng đối
với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia
Để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ công tác biên phòng trong tình
hình mới rất toàn diện và phức tạp như trên, Bộ đội Biên phòng cần phải
chủ động chăm lo xây dựng được đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ dân
tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng nói riêng, bảo đảm đầy đủ các yêu cầu
về tổ chức biên chế, về số lượng và chất lượng ngày càng cao.
1.2.1. Yêu cầu về tổ chức, biên chế
Hơn 45 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Bộ đội Biên phòng đã
thu được những kết quả tốt trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số. Vị trí, vai trò to lớn của đội ngũ cán bộ này được phát huy mạnh mẽ

20


trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia. Tuy nhiên, trước
yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng, của nhiệm vụ quân đội và nhiệm vụ công
tác biên phòng hiện nay, Đảng ta đã chỉ rõ: “Trong Bộ đội Biên phòng nói chung
trước hết là trong đội ngũ sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp cần nâng cao tỷ lệ
các đồng chí thuộc dân tộc ít người”. Do đó yêu cầu về tổ chức biên chế cán bộ
dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng như sau:

Cấp Trung ương có Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng; trong Bộ Tư lệnh
Bộ đội Biên phòng có các Cục; trong các Cục có các Phòng. Yêu cầu tổ
chức biên chế là phải có cán bộ cấp Cục và một số cán bộ cấp Phòng của
Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng là cán bộ dân tộc thiểu số.
Cấp tỉnh thành có 43 tỉnh thành có Biên phòng, cơ quan Biên phòng tỉnh
gọi là Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh. Trong Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng
tỉnh có cấp phòng và cấp ban. Yêu cầu tổ chức biên chế là phải có cán bộ cấp Bộ
chỉ huy, cấp phòng và một số cấp ban là cán bộ dân tộc thiểu số.


Cấp đồn, trạm biên phòng đóng dọc theo biên giới trên phạm vi toàn
quốc. Yêu cầu tổ chức biên chế của đồn biên phòng là phải có cán bộ trong
Ban chỉ huy đồn, chỉ huy Trạm, các đội và nhân viên của các đội công tác
có cán bộ dân tộc thiểu số. Đối với những địa bàn có đồng bào dân tộc
thiểu số thì tổ chức biên chế của đồn phải có 30% cán bộ dân tộc thiểu số.
1.2.2. Yêu cầu về phẩm chất, năng lực
Xây dựng phẩm chất và năng lực cho đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ là
người dân tộc thiểu số nói riêng là yêu cầu cơ bản thường xuyên. Trong giai đoạn
hiện nay, vấn đề xây dựng phẩm chất, năng lực của người cán bộ càng trở nên
cấp thiết, do yêu cầu tình hình nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội, nhiệm
vụ của lực lượng Bộ đội Biên phòng. Nhất là trong bối cảnh tình hình chính trị
thế giới, khu vực diễn biến rất phức tạp, nhanh chóng, thời cơ và nguy cơ đan
xen, âm mưu thủ đoạn "Diễn biến hoà bình" và những tác

21


động tiêu cực của cơ chế thị trường. Từ đó đặt ra yêu cầu mới rất cao trong
việc bồi dưỡng, rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực
tốt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác biên phòng hiện nay.
Thứ nhất: Đội ngũ cán bộ Biên phòng trước hết phải bảo đảm các
tiêu chuẩn chung về cán bộ của Đảng. Đó là: “Cán bộ của thời kỳ mới phải
là những người có phẩm chất chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng
cách mạng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có trình
độ chuyên môn và năng lực thực tiễn, có ý thức tổ chức kỷ luật, gương mẫu
trong đạo đức và lối sống; tóm lại là phải đủ đức và tài, trong đó đức là
gốc”[11].
Người cán bộ phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tuỵ phục vụ nhân
dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện

có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước;

Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, không tham nhũng và kiên
quyết đấu tranh chống tham nhũng; có ý thức tổ chức kỷ luật; trung thực,
không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm;
Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hoá, chuyên
môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ được giao.
Thứ hai: Ngoài các tiêu chuẩn chung nói trên, cán bộ lãnh đạo lực
lượng vũ trang còn phải:
Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, sẵn s àng
hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo
vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa;
Có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, có ý thức tổ chức kỷ luật
nghiêm, giữ gìn bí mật quân sự, bí mật quốc gia;

22


Nắm vững và có khả năng vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng vào sự
nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; nắm được
những vấn đề cơ bản về quản lý kinh tế, xã hội.
Thứ ba: Ngoài các tiêu chuẩn nêu trên, Nghị quyết 11 của Bộ Chính
trị còn xác định rõ: “Cán bộ chiến sĩ Bộ đội Biên phòng phải được lựa chọn
kỹ, bảo đảm tin cậy về chính trị, được huấn luyện đào tạo chu đáo, có trình
độ quân sự và trình độ nghiệp vụ về công tác biên phòng tốt, nắm vững
pháp luật và quy chế biên giới, biết làm công tác vận động quần chúng để
đảm đương vai trò nòng cốt trong nền biên phòng toàn dân”[18].

Từ những yêu cầu chung nêu trên, có thể cụ thể hoá những nét cơ bản
thiết yếu của cán bộ Bộ đội Biên phòng như sau:
Về phẩm chất:
Có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có ý thức toàn tâm, toàn ý gắn bó với sự nghiệp bảo vệ
chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, gắn bó máu thịt với đồng bào các
dân tộc nơi biên giới.
Có đạo đức và lối sống trong sạch, lành mạnh, giản dị, gương mẫu
trong sinh hoạt và công tác, có tác phong gần gũi, sâu sát quần chúng, cụ
thể tỷ mỉ, nói đi đôi với làm, có uy tín với nhân dân các dân tộc thiểu số, có
tinh thần đoàn kết, quan hệ chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền địa phương.
Chấp hành nghiêm kỷ luật của quân đội và pháp luật của Nhà nước;
Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên, khi nhận bất cứ nhiệm vụ gì đều
tận tâm tận lực thi hành một cách nhanh chóng và chính xác.
Luôn mưu trí dũng cảm, sáng tạo trong công tác, tuyệt đối giữ bí mật
quân sự và bí mật quốc gia. Nếu bị quân địch bắt, dù phải chịu cực hình tàn
khốc thế nào cũng cương quyết một lòng trung thành với sự nghiệp cách
mạng của Đảng, không bao giờ phản bội xưng khai.
23


Không ngừng nâng cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, rèn
luyện ý chí chiến đấu kiên quyết và bền bỉ, dù gian lao khổ hạnh cũng
không sờn lòng, vào sống ra chết cũng không nản chí, nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Luôn tu dưỡng rèn luyện phấn đấu về mọi mặt, giữ vững phẩm chất
tốt đẹp và truyền thống quyết chiến quyết thắng của người quân nhân cách
mạng, không làm điều gì hại tới danh dự của Quân đội và quốc thể nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xứng đáng với phẩm chất cao đẹp
“Bộ đội Cụ Hồ”.

Về Năng lực:
Nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác-LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Có kiến thức toàn diện và trình độ nghiệp vụ chuyên sâu ở bậc Đại
học và Trung học biên phòng, nắm vững nhiệm vụ công tác biên phòng và
những yêu cầu liên quan đến công tác tổ chức chỉ huy bảo vệ biên giới.
Phải thông thạo tiếng nói, phong tục tập quán, tâm lý tình cảm của
các dân tộc thiểu số ở địa bàn biên phòng, có kiến thức về dân tộc học, tôn
giáo, văn hoá dân tộc thiểu số. Nắm chắc và vận dụng một cách đúng đắn
và sáng tạo quan điểm chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và
Nhà nước, có năng lực làm công tác dân vận.
Có hiểu biết về đất nước và con người Việt Nam cũng như đất nước
và con người nước láng giềng, biết làm công tác đối ngoại biên phòng để
xây dựng biên giới hòa bình hữu nghị.
Tóm lại, Biên giới quốc gia là “Vỏ bọc" là "Phên dậu" của mỗi quốc gia.
Biên giới nước ta là cửa ngõ, là đầu mối giao lưu quốc tế, có vị trí chiến lược rất
quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng và đối ngoại. Quá trình hình thành
biên giới quốc gia là quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Từ thời Lý,
thời Trần, thời Lê đến thời Quang Trung, Nguyễn Trãi và đặc

24


×