Tải bản đầy đủ (.docx) (126 trang)

Quá trình thực hiện chính sách tôn giáo của đảng đối với công giáo ở huyện xuân trường ( tỉnh nam định ) từ năm 1997 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

VŨ THỊ PHƯƠNG ANH

QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG GIÁO Ở HUYỆN XUÂN TRƯỜNG
(TỈNH NAM ĐỊNH) TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

VŨ THỊ PHƯƠNG ANH

QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG GIÁO Ở HUYỆN XUÂN TRƯỜNG
(TỈNH NAM ĐỊNH) TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Quang Hưng

Hà Nội - 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình bản thân tôi tự nghiên cứu
dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS Đỗ Quang Hưng. Tất cả số liệu, kết
quả nêu trong luận văn đều đảm bảo tính trung thực. Những kết luận của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ luận văn nào khác.
Hà Nội, ngày…tháng…năm
Tác giả luận văn

Vũ Thị Phương Anh


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi đã nhận được sự quan tâm hướng dẫn,
giúp đỡ của nhiều cá nhân, tập thể trong và ngoài trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS Đỗ Quang Hưng đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình viết luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Huyện ủy, Uỷ ban nhân dân, Ban Dân vận,
Mặt trận Tổ quốc huyện Xuân Trường đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi
trong quá trình sưu tầm tài liệu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa Lịch sử, và
các thầy cô giáo một số chuyên ngành khác của trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân Văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức
cho tôi suốt 2 năm học qua.
Một lần nữa tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu này!


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 3

NỘI DUNG.............................................................................................................. 9
Chương 1. HUYỆN XUÂN TRƯỜNG (NAM ĐỊNH) VÀ ĐỜI SỐNG TÔN
GIÁO........................................................................................................................ 9
1.1.. .Khái quát chung về huyện Xuân Trường và Đảng bộ huyện Xuân Trường.

9
1.1.1. Điều kiện tự nhiên........................................................................................ 9
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội........................................................................... 12
1.1.3. Truyền thống yêu nước của nhân dân Xuân Trường..................................15
1.2.

Vài nét về cộng đồng Công giáo ở huyện Xuân Trường...........................19

1.2.1. Quá trình truyền bá Công giáo vào Xuân Trường.....................................19
1.2.2. Công giáo ở Xuân Trường hiện nay........................................................... 22
Tiểu kết chương 1................................................................................................ 26
Chương 2. ĐẢNG BỘ HUYỆN XUÂN TRƯỜNG (NAM ĐINH) VỚI VIỆC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỐI VỚI CÔNG GIÁO (1997 - 2010)

27
2.1. Quá trình đổi mới về đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước..................................................................................................................... 27
2.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mac – Lênin và Hồ Chí Minh về tôn giáo.......27
2.1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về vấn đề tôn giáo từ năm 1930 đến
năm 1997................................................................................................................. 31
2.1.3. Đổi mới đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta giai đoạn
1997 – 2010............................................................................................................. 35
2.2. Đảng bộ huyện Xuân Trường ( Nam Định) với công tác tôn giáo................45
2.2.1. Bước đầu thực hiện chính sách tôn giáo đối với Công giáo của Đảng bộ
huyện Xuân Trường (1997 - 2005).......................................................................... 45

2.2.2. Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đổi mới chính sách tôn giáo đối với
Công giáo của Đảng bộ huyện Xuân Trường (2006 - 2010)................................... 55

1


Tiểu kết chương 2................................................................................................ 74
Chương 3. NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU. .75
3.1. Ưu điểm........................................................................................................ 75
3.2. Hạn chế......................................................................................................... 82
3.3. Những bài học kinh nghiệm......................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 93
PHẦN PHỤ LỤC................................................................................................... 97

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn
năm nay. Quá trình tồn tại và phát triển của tôn giáo đã ảnh hưởng khá sâu sắc đến
đời sống chính trị, văn hoá, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục, tập
quán của nhiều dân tộc. Chính vì vậy, vấn đề tôn giáo và chính sách đối với tôn giáo
đã và đang là một trong những vấn đề phức tạp và là mối quan tâm hàng đầu của
nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo do điều
kiện địa lý thuận lợi nằm trên trục giao lưu Bắc - Nam, Đông - Tây, có ba mặt giáp
biển thuận tiện cho giao lưu kinh tế, văn hoá rất dễ cho việc truyền bá các luồng tư
tưởng, các tôn giáo trên thế giới. Ngoài ra, do bản tính dung hoà về mặt văn hoá của
người Viêt nên các hệ tư tưởng thế giới được truyền vào Việt Nam không sớm thì

muộn, không trước thì sau đều được người Việt đón nhận.
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, ý thức được vai trò của tôn giáo trong
đời sống xã hội nên các triều đại đã có những chính sách nhất định với vấn đề tôn
giáo. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt nhân thức cũng như về mặt lịch sử mà các chính
sách ấy chưa giải quyết hết những hạn chế của tôn giáo và chưa phù hợp với tình
hình cụ thể. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (2 - 1930), Đảng đã nhận thấy
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tuy mỗi tôn giáo có một đặc điểm riêng, hệ tư
tưởng riêng nhưng đều có đặc điểm chung đều là một bộ phận của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Nhất là sau khi đất nước giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã
có những quan tâm tích cực đối với tôn giáo. Những quan điểm của Đảng về tôn
giáo được thể hiện nhất quán, xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đặc biệt trong thời đại ngày nay khi mà vấn đề tự do tín ngưỡng tôn giáo
đang bị một số tổ chức và cá nhân lợi dụng để chống phá Đảng và Nhà nước, nhằm
làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và toàn thể nhân dân ta đang ra sức
xây dựng thì Đảng, Chính phủ và Nhà nước Việt Nam ngày càng có nhiều chính

3


sách đúng đắn, sáng suốt và phù hợp với thực tế hơn để đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng cho nhân dân, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân – động lực
chính của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Nam Định là một tỉnh nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ, là tỉnh có nhiều
tôn giáo, đông chức sắc, nhà tu hành, tín đồ, nhiều cơ sở thờ tự. Đặc biệt, Nam Định
được coi là cái nôi của đạo Công giáo ở Viêt Nam và huyện Xuân Trường được xác
định là trọng điểm tôn giáo của cả tỉnh và của cả nước.
Từ ngày tái lập huyện (01/4/1997) đến năm 2010, đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân Xuân Trường, trong đó có đồng bào tôn giáo không ngừng được cải
thiện; chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo đã đáp ứng được

nguyện vọng chính đáng của các tín đồ tôn giáo và các nhà tu hành. Nhìn chung,
các chức sắc tôn giáo đều chấp hành tốt các quy định của pháp luật, tín đồ các tôn
giáo yên tâm, tin tưởng, hăng hái thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng, của Nhà nước, quy định của địa phương, tích cực tham gia xây dựng quê
hương, đất nước. Các hoạt động xã hội, từ thiện nhân đạo góp phần xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác quản lý nhà nước về tôn giáo từng bước được
tăng cường, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Tuy nhiên tình hình, hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện còn một số vấn
đề cần quan tâm như: lễ hội tôn giáo có chiều hướng gia tăng, nơi thờ tự được tôn
tạo, xây dựng, huy động quá lớn sức dân; mâu thuẫn trong nội bộ tôn giáo phát sinh
gây không ít khó khăn cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ chính trị
của cấp uỷ, chính quyền và các đoàn thể địa phương.
Vì vậy việc tìm hiểu tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng bộ
huyện Xuân Trường trong giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2010 nhằm tổng kết thực
tiễn, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và bài học kinh nghiệm là vấn đề không chỉ có
ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn quan trọng
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Quá trình thực hiện chính
sách tôn giáo của Đảng đối với Công giáo ở huyện Xuân Trường (tỉnh Nam Định)
từ năm 1997 đến năm 2010” làm luận văn tốt nghiệp của mình.

4


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển đất nước, vấn đề tôn giáo và
chính sách tôn giáo luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Qua các thời
kỳ lich sử, do điều kiện kinh tế xã hội và yêu cầu của nhiệm vụ chính trị khác nhau
mà Đảng đã đề ra rất nhiều chủ trương chính sách đối với tôn giáo để phù hợp với
từng giai đoạn phát triển. Chính vì vậy, vấn đề tôn giáo và chính sách đối với tôn
giáo được rất nhiều nhà lãnh đạo, nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách quan

tâm nghiên cứu và được trình bày trong nhiều văn kiện của Đảng, các tác phẩm của
các nhà lãnh đạo Đảng và các nhà nghiên cứu.
Nghiên cứu lý luận, nhận thức, chủ trương, chính sách về tôn giáo của Đảng
Cộng sản Việt Nam có các công trình như: Ban Tôn giáo Chính phủ, Tôn giáo và
chính sách tôn giáo ở Việt Nam (sách Trắng, 2006); Nguyễn Đức Lữ, Lý luận về tôn
giáo và chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam (Nxb Tôn giáo, 2007),
Tôn giáo - Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay (Nxb
Chính trị - Hành chính, 2009); Đặng Nghiêm Vạn, Những vấn đề lý luận và thực
tiễn tôn giáo ở Việt Nam hiện nay (Nxb Khoa học xã hội, 1998), Lý luận về tôn giáo
và tình hình tôn giáo ở Việt Nam (Nxb Chính trị quốc gia, 2001); Đỗ Quang Hưng,
Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam - Lý luận và thực tiễn (Nxb Lý luận
chính trị, 2008); Lê Hữu Nghĩa - Nguyễn Đức Lữ, Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn
giáo và công tác tôn giáo (Nxb Tôn giáo, 2003)...
Đặc biệt, bàn về đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong
có công trình Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam lý luận và thực tiễn của
GS. TS. Đỗ Quang Hưng (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2005), đặc biệt trong
thời gian gần đây cuốn sách Nhà nước – Tôn giáo – Luật pháp của GS. TS. Đỗ
Quang Hưng (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, 2014) là công trình nghiên
cứu một cách hệ thống về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Tuy nhiên tôn giáo và chính sách tôn giáo ở huyện Xuân Trường mới chỉ
được trình bày một cách sơ lược trong các Nghị quyết của Ban thường vụ huyện uỷ,
các báo cáo tổng kết tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo của huyện qua các
thời kỳ.

5


Các văn kiện của Đảng, báo cáo của huyện uỷ đã khái quát những quan điểm
chủ trương và đề ra những chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong
công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và trong công cuộc đổi mới ngày nay. Tuy

nhiên đến nay chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào đề cập một cách đầy đủ,
có hệ thống về vấn đề “Qúa trình thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng đối với
Công giáo ở huyện Xuân Trường (Nam Định) (1997 - 2010)”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3. 1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ quá trình thực hiện chính sách tôn giáo đối với Công giáo ở Đảng

bộ huyện Xuân Trường trong thời gian từ năm 1997 đến năm 2010
- Chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và bài học kinh nghiệm trong quá trình thực

hiện chính sách tôn giáo đối với Công giáo ở Đảng bộ huyện Xuân Trường.
3. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về việc giải

quyết vấn đề tôn giáo và việc thực hiện các chính sách tôn giáo.
- Tìm hiểu các chủ trương, chính sách của Đảng bộ huyện Xuân Trường

trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo đối với công giáo trên địa bàn huyện
từ năm 1997 đến năm 2010.
- Đánh giá khách quan toàn diện quá trình tổ chức thực hiện chính sách tôn

giáo đối với công giáo của Đảng bộ huyện Xuân Trường từ năm 1997 đến năm
2010.
- Rút ra những thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm trong quá trình

thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện Xuân Trường từ năm 1997 đến năm 2010.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo.

Quá trình thực hiện chính sách tôn giáo đối với Công giáo của Đảng bộ
huyện Xuân Trường (Nam Định) trong thời gian từ 1997 đến 2010.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

6


- Về thời gian: từ năm 1997 đến năm 2010. Năm 1997 là năm tái lập huyện

Xuân Trường sau một thời gian hợp nhất với huyện Giao Thuỷ thành huyện Xuân
Thuỷ. Năm 2010 là năm tổ chức Đại hội Đảng bộ huyện Xuân Trường lần thứ XXII
(8 - 2010).
- Về không gian: nghiên cứu sự vận dụng, cụ thể hoá chính sách tôn giáo của

Đảng bộ huyện Xuân Trường trên toàn địa bàn huyện.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

5.1. Nguồn tư liệu
- Các văn kiện của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh về

vấn đề tôn giáo; quan điểm, chủ trương và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về vấn đề tôn giáo và các chính sách tôn giáo.
- Các văn kiện, chủ trương, chính sách trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo

của Đảng bộ tỉnh Nam Định.
- Các nguồn tư liệu thành văn có liên quan đến vấn đề tôn giáo và tư liệu

khảo sát điền dã tại huyện Xuân Trường.
5. 2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng hai phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử và


phương pháp logic.
- Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác đó là:

phương pháp điền dã, phương pháp thống kê, so sánh lịch sử, phân tích… để đối
chiếu, đảm bảo tính chính xác của luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ quá trình thực hiện chính sách tôn giáo đối với

Công giáo của Đảng bộ huyện Xuân Trường từ năm 1997 đến năm 2010.
- Luận văn cũng chỉ rõ những thành công, ưu điểm cũng như những thiếu sót

của Đảng bộ huyện Xuân Trường trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách tôn
giáo. Từ đó rút ra những kinh nghiệm góp phần hoàn thiện các giải pháp thực hiện
chính sách tôn giáo của Đảng bộ huyện Xuân Trường.

7


7. Bố cục nội dung
Ngoài các phần mở đầu, kết luân, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Huyện Xuân Trường (Nam Định) và đời sống tôn giáo
Chương 2. Đảng bộ huyện Xuân Trường (Nam Định) với việc thực hiện chính sách
tôn giáo đối với Công giáo (1997 - 2010)
Chương 3. Nhận xét chung và một số kinh nghiệm chủ yếu

8



NỘI DUNG
Chương 1. HUYỆN XUÂN TRƯỜNG (NAM ĐỊNH) VÀ ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO
1.1. Khái quát chung về huyện Xuân Trường và Đảng bộ huyện Xuân Trường.

1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Theo các nguồn thư tịch cổ thì Xuân Trường là vùng đất xưa kia thường ngập
nước theo chế độ nhật triều, lau sậy hoang vu. Vào thời kì nhà nước Vạn Xuân (năm
544) nơi đây đã có dấu chân người. Đến thời nhà Đinh (năm 968), Xuân Trường

vẫn chưa có tên riêng. Thời Lý, nước ta được chia thành 10 lộ, đất Xuân Trường lúc
đó thuộc lộ Hải Thanh.
Vào thế kỷ XV, vùng đất Xuân Trường đa phần vẫn còn là vùng bãi bồi, sình
lầy, lau sậy nối liền với rừng sú vẹt ven biển, nằm chắn sóng ngang biển Đông, dân
cư sinh sống thưa thớt. Đây là vị trí tiền tiêu quan trọng nên trong lịch sử, giặc
ngoại xâm thường cho quân tiến đánh nước ta ở khu vực này. Chính vì vậy, mảnh
đất này đã ghi lại nhiều dấu tích lịch sử quan trọng trong quá trình dựng nước và
giữ nước của dân tộc.
Thời Lý - Trần (1010 - 1400), chính quyền phong kiến rất chú trọng phát triển
kinh tế, đặc biệt công tác trị thuỷ để làm nông nghiệp rất được quan tâm. Các tuyến
đê của sông Hồng, sông Thái Bình được nối dài ra biển và tu bổ hàng năm, công
cuộc quai đê lấp thành (thời Lý), phủ Thiên Trường (thời Trần) đã trở thành nơi hội
tụ của các cư dân các nơi đến khai cơ lập nghiệp.
Thời hậu Lê, nhà nước phong kiến tiếp tục thực hiện chính sách khuyến nông
của thời Lý - Trần. Vua Lê Thái Tổ (1428 - 1433) đã xuống chiếu dụ cho dân phát
triển đinh điền. Năm 1483, vua Lê Thánh Tông ban hành bộ luật Hồng Đức, trong
đó có đề cập đến việc “mở rộng diện tích cấy cày, tăng cường thu nhập cho nhà
nước”. Năm 1486, triều đình lại ra lệnh cho các phủ, huyện có đất bồi ven biển và
chia cho người ít ruộng cày cấy để nộp thuế.
Nhờ những chính sách đó mà vùng sinh lầy ven biển Trấn Sơn Nam Hạ thực
sự là vùng đất hấp dẫn. Hàng năm, nông nô vừa được giải phóng khỏi các điền

trang, thái ấp của nhà Trần đã cùng những đoàn nông dân tự do vì chiến tranh phiêu
bạt đã đổ xô về Sơn Nam Hạ. Họ dừng lại ở dải đất ven sông Hồng và các con sông

9


khác định cư xây dựng một cuộc sống mới. Suốt mấy thế kỷ, công cuộc chinh phục
khai hoang đầy khó khăn, vất vả của con người đã tạo nên một loạt làng xã mới.
Đến thời Trịnh - Nguyễn, nhịp độ khai hoang lấn biển diễn ra nhanh hơn và
quy mô lớn hơn. Vùng đất Xuân Trường nhỏ bé xưa kia đã được mở rộng, dân cư
ngày càng đông đúc, ý thức cộng đồng trở nên sâu sắc.
Dưới triều nhà Nguyễn, chính quyền phong kiến đã tiến hành cuộc cải cách
hành chính để thuận lợi cho việc trị vì đất nước. Năm 1822 vua Minh Mệnh lập trấn
Nam Định. Năm 1831, lập tỉnh Nam Định gồm 4 phủ, Xuân Trường thuộc phủ
Thiên Trường.
Năm 1837, phủ Thiên Trường gồm năm huyện là Giao Thuỷ, Nam Chân, Chân
Ninh, Mỹ Lộc, được tách ra làm hai, một nửa hợp với phủ Tân Khai và tổng Quần
Phương thành lập huyện Hải Hậu.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, theo Sắc lệnh số 148 - SL của chủ tịch
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đồng loạt bãi bỏ các đơn vị hành
chính phủ, châu quận đổi thành huyện, phủ Xuân Trường đổi thành huyện Xuân
Trường, sát nhập một loạt xã, thôn thành 19 xã.
Sau gần 30 năm hợp nhất, đến ngày 01/4/1997, thực hiện Nghị định 19/CP của
Chính phủ huyện Xuân Trường được tái lập bao gồm 20 xã là: Xuân Châu, Xuân
Thượng, Xuân Hồng, Xuân Thủy, Xuân Thành, Xuân Phong, Xuân Đài, Xuân Tân,
Xuân Bắc, Xuân Ngọc, Xuân Phương, Xuân Trung, Xuân Phú, Thọ Nghiệp, Xuân
Vinh, Xuân Kiên, Xuân Hòa, Xuân Hùng, Xuân Ninh, Xuân Tiến.
Xuân Truờng là huyện nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Nam Định, thuộc đồng
bằng Bắc Bộ. Huyện có diện tích tự nhiên là 111,8 km 2, dân số trên 185000 người
(theo số liệu năm 2008), với 20 đơn vị hành chính (19 xã và một thị trấn). Xuân

Trường có vị trí địa lý rất thuận lợi. Phía Bắc giáp huyện Vũ Thư (tỉnh Thái Bình),
phía Đông Bắc giáp huyện Kiến Xương (tỉnh Thái Bình), phía Nam giáp huyện Hải
Hậu, phía Đông Nam giáp huyện Giao Thủy, phía Tây giáp huyện Trực Ninh. Với
địa hình tương đối bằng phẳng, đất đai phù sa do được bồi đắp bởi nhiều con sông
lớn đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Xuân Trường giao lưu và hội nhập phát
triển trong suốt quá trình lịch sử xây dựng và phát triển.

10


Xuân Truờng là một huyện có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, an
ninh quốc phòng, có hệ thống giao thông thuỷ, bộ khá thuận lợi, đồng ruộng màu
mỡ, làng mạc trù phú, dân cư đông đúc.
Xuân Trường được bao bọc bởi ba con sông lớn: sông Hồng ở phía Đông Bắc
phân định ranh giới giữa huyện Xuân Trường với tỉnh Thái Bình, phía Tây Bắc là
sông Ninh Cơ phân định ranh giới giữa huyện Xuân Trường và huyện Trực Ninh,
phía Đông Nam là sông Sò phân định ranh giới với huyện Giao Thuỷ. Ngoài ra
huyện Xuân Trường còn có hàng trăm hecta bãi bồi ven sông Hồng, sông Ninh Cơ
hàng năm không những đem phù sa, nước ngọt về bồi đắp, tưới tiêu cho đồng ruộng
mà còn tạo điều kiện cho giao thông đường thuỷ phát triển.
Sông Hồng (người Xuân Trường thường gọi là sông Cái để phân biệt với sông
Ninh Cơ) là ranh giới của hai tỉnh Nam Định và Thái Bình, đồng thời cũng là ranh
giới của hai địa phận Bùi Chu và Thái Bình. Khi xuống tới Nam Định sông này
chảy xế theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và đổ ra biển bằng cửa Ba Lạt. Theo
truyền thuyết, thời xưa cửa sông này rất nhỏ, nhưng về sau, cửa Ba Lạt trở thành
cửa sông lớn và rất sâu. Những thuyền buôn lớn thường vào cửa biển này để lên
kinh thành, nơi đây thường có các thương thuyền lớn của ngoại quốc như Bồ Đào
Nha, Hà Lan, Anh, Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản...tấp nập tới lui trong nhiều thế kỷ.
Sông Ninh Cơ là một chi nhánh hữu ngạn của sông Hồng. Tả ngạn ở phía
Đông là các huyện Xuân Trường, Hải Hậu và Giao Thủy. Hữu ngạn ở phía Tây là

các huyện Nam Trực, Trực Ninh và Nghĩa Hưng. Đây là con sông ngăn cách tỉnh
Nam Định nên từ xưa đã có rất nhiều bến đò, tàu thuyền đi lại tấp nập nhộn nhịp.
Hệ thống giao thông đường thuỷ thuận lợi không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho
nhân dân huyện Xuân Trường nguồn nước tưới tiêu cho phát triển kinh tế nông
nghiệp trồng lúa nước, giao lưu buôn bán mà còn tác động không nhỏ đến quá trình
truyền bá đạo Thiên Chúa. Hệ thống sông ngòi chằng chịt với những con sông lớn
đổ ra biển đã tạo điều kiện thuận lợi cho con thuyền chở những nhà truyền giáo
phương Tây vào đây truyền giáo từ những năm đầu của thề kỷ XVI.
Hệ thống giao thông đường bộ của huyện khá thuận lợi, quốc lộ 21 từ Lạc
Quần lên thành phố Nam Định nối liền quốc lộ 1 và quốc lộ 10 là mạch máu giao

11


thông của Xuân Trường với các tỉnh ven biển phía Bắc và cả nước. Tỉnh lộ 51A từ
dốc Xuân Bảng đến phà Sa Cao sang Thái Bình, đường 498 từ Lạc Quần qua huyện
Xuân Trường xuống Giao Thuỷ, tạo điều kiện thuận lợi cho Xuân Trường hội nhập
và phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Quá trình hình thành vùng đất Xuân Trường cũng là quá trình người dân nơi
đây phải vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt, biển dữ. Để chống thiên tai, bảo vệ sản
xuất, người dân đã đoàn kết trong lao động để tạo dựng được những cánh đồng phù
sa màu mỡ, những làng mạc trù phú thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và phát
triển kinh tế, xã hội. Chính sức mạnh đoàn kết của nhân dân trong lao động đã tạo
thành thế và lực để họ chống lại thiên nhiên khắc nghiệt dữ dội, chống cường quyền
áp bức, chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước.
Ngay từ buổi đầu sinh cơ lập nghiệp, cùng với nghề chài lưới đánh bắt tôm cá
dựa vào sông ngòi, nông nghiệp được coi là ngành kinh tế chủ yếu của người Xuân
Trường. Tuy là vùng đất phù sa màu mỡ nhưng chưa hợp với nghề trồng lúa nước.
Bằng sức lao động cần cù, sáng tạo, nhân dân Xuân Trường đã đắp đê, đào mương,

khơi ngòi, xây kè cống, đưa nước ngọt về thau chua rửa mặn, cải tạo đồng ruộng.
Từ quá trình sản xuất nông nghiệp đầy khó khăn thử thách, người dân Xuân Trường
đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý báu trong thâm canh cây lúa và hoa màu.
Từ các loại lúa tép dong, tép bầu, nếp trằn, hom râu, trải qua những tháng năm sản
xuất, nhân dân đã chọn lọc được những giống lúa đặc sản nổi tiếng, trở thành những
sản phẩm nổi tiếng như lúa tám xoan, tám ấp bẹ, dự hương, nếp cái hoa vàng, nếp
hương... Với bề dày kinh nghiệm, 20 năm trở lại đây, Xuân Trường đã trở thành
vùng trọng điểm lúa của tỉnh và luôn là một trong những huyện có năng suất lúa cao
của tỉnh và vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Là nơi hội tụ dân cư của nhiều vùng miền khác nhau trong cả nước, các dòng
họ ở Xuân Trường có những nét văn hoá độc đáo và những nghề thủ công đa dạng.
Những nghề thủ công ban đầu chỉ mang tính tự cấp, tự túc, phục vụ cho sinh hoạt
của từng gia đình như đan lát, dệt chiếu, đóng thuyền, làm gạch, nề, mộc, rèn, cơ

12


khí, nuôi tằm ươm tơ... Tục truyền thời Lê Hoàn đánh Tống, bình Chiêm, nhân dân
vùng Kiên Lao đã có công đóng thuyền giúp vua cứu nước.
Trải qua bao năm tháng, với khối óc thông minh sáng tạo, với bàn tay cần cù
tài hoa của nhân dân Xuân Trường, những ngành nghề thủ công ngày càng phát
triển, trở thành những ngành nghề truyền thống có uy tín khắp nơi như nghề đúc
đồng truyền thống ở xã Xuân Tiến, nghề nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải ở Hành Thiện,
Xuân Tiến, Xuân Hồng, Xuân Châu, Xuân Ninh, và nghề thêu ren ở Xuân Phong,
Xuân Khu, Xuân Tiến.
Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm cho kinh tế cả vùng
nông thôn biến đổi. Hàng hoá đã tràn vào làng quê Xuân Trường. Làng Hành Thiện
vốn được coi là một tiểu đô hội, là một thị trường lớn trong huyện lúc đó. Với ưu
thế “trên bến, dưới thuyền” và có các chợ lớn cùng với các phường buôn trong làng,
mà lớn nhất là phường buôn vải Thanh Hoá tạo ra một mạng lưới giao lưu hàng hóa

tấp nập thu hút các thương nhân từ Hà Nội, Hải Phòng, về buôn bán trao đổi hàng
hóa. Từ đây, sản vật Xuân Trường cũng được chuyển đi muôn nơi.
Đời sống văn hoá tinh thần của người Xuân Trường cũng rất đa dạng, tinh tế,
vừa phản ánh những nét văn hoá riêng của các miền quê theo hành trang của những
người tới đây mở đất, vừa mang đậm dấu ấn văn hoá của đồng bằng châu thổ sông
Hồng.
Sự gắn bó đoàn kết của con người để chống lại thiên tai, giặc dữ không những
tạo nên bản anh hùng ca trong lao động, chiến đấu mà còn tạo dựng được nét đẹp
truyền thống “trong họ, ngoài làng”. Những hương ước làng xã được ra đời mang
đậm tính nhân văn cao cả. Nhiều làng được vua Tự Đức ban tặng là “Mỹ tục khả
phong” như ở Hành Thiện, Trà Lũ.
Mang đậm dấu ấn, phong tục tập quán của cư dân nông nghiệp vùng đồng
bằng châu thổ sông Hồng, đời sống tâm linh của người Xuân Trường gắn liền với
tín ngưỡng tôn thờ trời đất và thờ cúng tổ tiên. Cùng với quá trình hình thành làng
xã, đạo Phật cũng hình thành và giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của
người dân. Hầu hết các làng xã đều xây dựng chùa thờ Phật, tiêu biểu như chùa Keo

13


- Hành Thiện, chùa Kiên Lao - Xuân Kiên, chùa Trung - Xuân Trung... Đây là

những công trình được xếp hạng trong quần thể di tích lịch sử văn hoá.
Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, nhiều đình, chùa, đền trong huyện
đã trở thành nơi hội họp của cán bộ, đảng viên, nơi che giấu cán bộ, tài liệu cách
mạng.
Cùng với sự phát triển của đạo Phật, từ năm 1533 đạo Thiên chúa được truyền
vào Xuân Trường. Vùng Trà Lũ, Bắc Câu là hai địa phương đầu tiên tiếp nhận sự du
nhập của tôn giáo này. Người đóng vai trò tích cực truyền đạo là giáo sỹ Inêkhu.
Sang thế kỷ XVII, với sự ráo riết truyền đạo của các giáo sỹ phương Tây từ Bắc

Câu, Trà Lũ và Ninh Cường (Trực Ninh), Quần Anh (Hải Hậu), đạo Thiên Chúa đã
phát triển nhanh chóng ở Xuân Trường và tỉnh Nam Định.
Xuân Trường cũng là vùng “địa linh nhân kiệt”, là vùng đất văn, đất học có tiếng
từ xưa, là vùng đất tiêu biểu của trấn Sơn Nam Hạ với làng học Hành Thiện nổi tiếng
cả nước với 7 vị đỗ đại khoa, 97 vị đỗ cử nhân, 248 tú tài. Vì vậy, từ xưa trong nhân
gian đã lưu truyền câu ca dao “xứ Đông Cổ Am, xứ Nam Hành Thiện” với niềm tự hào
sâu sắc. Ham học hỏi, tôn sư trọng đạo đã trở thành một nét đẹp truyền thống trong mỗi
con người nơi đây. Dưới thời phong kiến, nhiều gia đình, dòng họ đều chăm lo nuôi
chồng, con học hành thông tỏ chữ “Thánh hiền” để giúp ích cho đời. Thời Nguyễn, mỗi
lần triều đình mở khoa thi đều có nho sinh của huyện tham dự và nhiều người đã đỗ đạt
cao, trở thành những bậc hiền tài của đất nước. Các làng, xã đều dành một phần ruộng
(học điền) để khuyến khích sự học. Người mở đầu cho sự nghiệp vẻ vang của huyện
Xuân Trường là cụ Đào Minh Dương, đỗ tiến sỹ năm 1550 đời vua Mạc Phúc Nguyên.
Từ năm 1856 đến năm 1915, cả Bắc Kỳ đều thi hương ở Nam Định. Trong các kỳ thi,
cả 3 vị đỗ đầu đều là người Hành Thiện, đó là Đặng Xuân Bảng đỗ tiến sỹ năm 1856,
Nguyễn Ngọc Liên, Đỗ Hữu Dương đỗ tiến sỹ năm 1889. Rất nhiều các làng trong
huyện có các nhà nho đỗ cử nhân, tú tài. Đăng Xuân Bảng – ông nội của cố Tổng bí thư
Trường Chinh đỗ tiến sỹ năm 29 tuổi và làm việc ở nội các nhà vua. Tuy làm quan
nhưng ông sống liêm khiết, nhân hậu và yêu nước. Hầu hết những người đỗ cử nhân, tú
tài đều mở lớp dạy học tại quê hương, nhờ đó mà việc học hành được toàn dân coi
trọng.

14


1.1.3. Truyền thống yêu nước của nhân dân Xuân Trường
Không chỉ là vùng đất văn hiến, Xuân Trường còn là quê hương của nhiều hoạt
động cách mạng xuất sắc như Nguyễn Thế Rục, Đặng Xuân Thiều và đặc biệt là Cố
Tổng bí thư đồng chí Trường Chinh.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay, Xuân Trường có những nhà khoa học

nổi tiếng như Đặng Vũ Khiêu, ông được Nhà nước trao giải thưởng Hồ Chí Minh
đợt I năm 1996 và nhiều người giữ những cương vị quan trọng của Đảng, Nhà nước
như Đặng Quốc Bảo, Đặng Xuân Kỳ, Đặng Quân Thuỵ, Đặng Hồi Xuân,...
Người Xuân Trường có cội nguồn yêu nước thiết tha. Truyền thống đó đã thấm
sâu vào đời sống tâm linh qua việc tôn thờ những danh tướng, danh nhân có công đánh
giặc giữ nước, có công mở đất, dựng làng như đền thờ Nguyễn Công Hai (vùng đất
Xuân Tân ngày nay), là người có công giúp Lý Thường Kiệt đánh giặc Chiêm Thành
xâm lược nước ta. Đánh tan giặc Chiêm Thành, vua Lý Nhân Tông luận công ban tặng
cho ông danh hiệu là “Đệ nhị long vương thượng đẳng thần”. Đền Xuân Hy (Xuân
Thuỷ), Xuân Bảng (Xuân Hùng) thờ tướng công Ngô Miễn là người đã có công đưa
dân 10 họ về đây lập “ Tân ấp” từ năm 1392 và nhiều đền thờ khác.
Thế kỷ XIX, triều đình nhà Nguyễn với chế độ áp bức bóc lột nhân dân hết sức
nặng nề, khiến cho mâu thuẫn giữa nhân dân với phong kiến càng thêm sâu sắc hơn.
Những cuộc nổi dậy liên tiếp nổ ra mà vang dội nhất là khởi nghĩa của Phan Bá Vành
được nhân dân dốc lòng hưởng ứng, ủng hộ. Mặc dù thất bại nhưng cuộc khởi nghĩa
của Phan Bá Vành ở Xuân Trường đã góp phần làm lung lay chế độ phong kiến.

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cho cuộc xâm
lược Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn chống cự yếu ớt rồi từng bước ký kết các
hàng ước với thực dân Pháp. Năm 1860, nhiều người dân Xuân Trường tình nguyện
tham gia đội quân nghĩa dũng của cụ đốc học Phạm Văn Nghị vào Nam đánh Pháp.
Khi Pháp đánh ra miền Bắc, nhân dân Xuân Trường hưởng ứng phong trào Cần
Vương cứu nước.
Tinh thần đoàn kết yêu thương, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất được hun
đúc trong truyền thống đánh giặc ngoại xâm, chính là mảnh đất tốt để gieo mầm
cách mạng vô sản sau này.

15



Những năm đầu thế kỷ XX, khi phong trào yêu nước theo xu hướng cách
mạng mới bùng lên như phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng đã có
nhiều nhà nho ở Xuân Trường cổ vũ hưởng ứng. Nhiều thanh niên tiến bộ trong
huyện đã vượt biển sang Nhật Bản, Trung Quốc hoặc gia nhập Duy Tân Hội, Việt
Nam Quang phục hội, tham gia thành lập Đông Kinh nghĩa thục. Một số nhà nho
yêu nước đã mở trường dạy học, khơi dậy lòng yêu nước căm thù giặc cho học sinh.
Là quê hương có truyền thống yêu nước sâu sắc, tiếp giáp với tỉnh Thái Bình
và ở cách thành phố Nam Định - một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của các
tỉnh phía nam đồng bằng Bắc Bộ không xa, lại có đường giao thông khá thuận lợi
nên những hoạt động yêu nước ở thành phố Nam Định đã có tác động và ảnh hưởng
sâu sắc tạo điều kiện cho nhân dân Xuân Trường sớm tiếp nhận được ánh sáng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, đi theo con đường cách mạng vô sản.
Sự ra đời và phát triển của tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
hội ở Nam Định (1927) là một sự kiện chính trị quan trọng trong đời sống và phong
trào yêu nước trong tỉnh đã ảnh hưởng sâu sắc, trực tiếp đến tình hình cách mạng ở
Xuân Trường. Là học sinh yêu nước của Xuân Trường học tại trường Thành Chung
(Nam Định) trong những năm 1925 - 1926, người thanh niên yêu nước Đặng Xuân
Khu (tức Trường Chinh) đã hăng hái tham gia các phong trào yêu nước của học sinh
ở Nam Định.
Cách mạng Tháng Tám ở Xuân Trường thắng lợi (20 - 8 - 1945) đã góp phần
cùng với nhân dân trong tỉnh và cả nước lật đổ chế độ thống trị của bọn đế quốc
ngót một trăm năm cùng với chế độ phong kiến ngự trị suốt hàng nghìn năm. Từ
đây nhân dân Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do.
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Nhà
nước, Tỉnh uỷ, nhân dân huyện Xuân Trường tích cực tham gia xây dựng chính
quyền mới, xoá bỏ những tàn dư của chế độ cũ.
Ngày 23 - 9 - 1945, quân Pháp nổ súng tái chiếm Nam Bộ, bắt đầu cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam. Cùng với cả nước, nhân dân Xuân Trường dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã tích cực tham gia xây dựng chính quyền mới và phong trào
quyên góp tiền, gạo thuốc men và vũ khí ủng hộ đồng bào Nam Bộ kháng chiến.


16


Là vùng đất phì nhiêu, dân cư đông, có nhiều đồng bào theo đạo Thiên Chúa
nên Xuân Trường trở thành mục tiêu lớn của thực dân Pháp trong cuộc đánh chiếm
đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Đây cũng là vùng đất giáp biển và có nhiều sông lớn
bao bọc thuận lợi cho thực dân Pháp dùng tổng lực thuỷ, bộ binh đổ bộ, dễ dàng vây
chặt và đánh chiếm hòng triệt phá hậu phương của ta. Vì thế, thực dân Pháp đã mở
những cuộc hành quân thăm dò vùng tự do của ta, tung gián điệp dò xét bắt liên lạc
với bọn phản động. Thực dân Pháp gấp rút tổ chức và luyện tập cho “Tự vệ công
giáo”, “Thanh niên công giáo” để phối hợp thực hiện đánh chiếm mở rộng vùng
kiểm soát của mình.
Bằng những hành động quân sự, kết hợp với những thủ đoạn thâm độc để lợi
dụng lòng tin của đồng bào theo đạo Thiên Chúa, thực dân Pháp tuyên truyền xuyên tạc
đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ. Mặt khác lại nêu chiêu bài “chống
cộng”, “giải phóng đất thánh”, “giành tự trị cho Công giáo” để lôi kéo giáo dân.

Cuối tháng 12 - 1949, quân Pháp ép vua bù nhìn Bảo Đại phải để cho bọn phản
động đội lốt Thiên Chúa thành lập “tỉnh Công giáo Bùi Chu tự trị” gồm các huyện
Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu, Trực Ninh và một phần phía Nam của hai
huyện Nam Trực và Nghĩa Hưng.
Trước những cuộc hành quân chiếm đóng của giặc Pháp, quân và dân trong
huyện đẩy mạnh phát triển chiến tranh du kích, củng cố, xây dựng lại cơ sở kháng
chiến trong vùng địch tạm chiến, tuyên truyền vạch trần âm mưu lợi dụng tôn giáo
của kẻ thù, vận động lương - giáo đoàn kết.
Tháng 9 - 1950, hưởng ứng phong trào “Thi đua giết giặc lập công”, quần
chúng nhân dân nổi dậy có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang phá thế kìm kẹp của
địch, vạch mặt bọn phản động, xây dựng cơ sở cách mạng ở vùng có đông đồng bào
theo đạo Thiên Chúa.

Ngoài ra, để đối phó với âm mưu chiếm đóng của địch, toàn dân tích cực tham
gia các phong trào như “rào làng kháng chiến”, “ngũ gia liên bảo”... Đồng bào
lương - giáo đã đoàn kết, xoá bỏ những hiềm khích cá nhân để hợp sức cùng nhau
đánh đuổi thực dân Pháp. Lực lượng quân sự huyện, nhất là quân du kích phát triển,

17


trong đó có nhiều đội du kích ở vùng đồng bào Công giáo đã trưởng thành cả về số
lượng, chất lượng và hiệu quả chiến đấu.
Trước sự chiến đấu anh dũng của nhân dân, 7 - 1954, quân địch đã rút bỏ toàn
bộ các vị trí còn lại ở huyện Xuân Trường và tỉnh Nam Định. Nam Định là tỉnh đầu
tiên ở vùng đồng bằng Bắc Bộ được giải phóng. Thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Pháp và tay sai trên địa bàn huyện Xuân Trường đã ghi nhận sự đóng góp to
lớn của đồng bào Công giáo.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), khi nhân dân miền Bắc đang tập trung
mọi cố gắng để hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân thì các
thế lực phản động lại lợi dụng tôn giáo, ngấm ngầm thực hiện âm mưu của đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam. Kẻ
thù tung ra các tin bịa đặt “ chính phủ Việt Minh cấm đạo”, “Chúa đã vào Nam”,
“Mỹ sẽ ném bom nguyên tử xuống miền Bắc’’... Trước tình hình đó, Đảng bộ tỉnh
Nam Định đã quán triệt chỉ thị của Trung ương Đảng tổ chức vận động tuyên truyền
tích cực nên đồng bào ở Nam Định đã nghe theo xin ở lại không di cư, góp phần
không nhỏ vào công cuộc khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội của huyện
Xuân Trường nói riêng và tỉnh Nam Định nói chung.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), nhân dân Xuân Trường vừa
tham gia xây dựng kinh tế, vừa tham gia chiến đấu đánh đuổi giặc Mỹ. Trên mặt
trận sản xuất, nhân dân Xuân Trường với tinh thần “chống Mỹ cứu nước, vượt
1000kg/mẫu/vụ”, “Nam Hà đoàn kết chống Mỹ cứu nước”. Trong cuộc tuyển quân
chi viện cho miền Nam năm 1965 của huyện có 300 thanh niên Công giáo (trong

tổng số 3000 thanh niên của tỉnh) tham gia, góp phần to lớn vào chiến thắng Mùa
Xuân năm 1975.
Trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ngày nay, đồng bào các tôn giáo
huyện Xuân Trường với tinh thần “sống phúc âm giữa lòng dân tộc”, “kính Chúa
yêu nước”, “tốt đời đẹp đạo”,… đã đoàn kết cùng nhân dân trong huyện xây dựng
cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.

18


1.1.

Vài nét về cộng đồng Công giáo ở huyện Xuân Trường

1.2.1. Quá trình truyền bá Công giáo vào Xuân Trường
Đạo Công giáo được hình thành từ thế kỷ I TCN ở đế quốc Rôma cổ đại. Sự
hình thành của Công giáo giáo gắn bó chặt chẽ với những điều kiện kinh tế - xã hội,
văn hoá - tư tưởng của chế độ La Mã thế kỷ I TCN và gắn với vai trò của nhân vật
lịch sử Chúa Kitô cùng các tông đồ của ông.
Giáo lý cơ bản của đạo Công giáo thể hiện trong Kinh Thánh của đạo gồm hai
phần: Cựu ước và Tân ước.
Cũng như các tôn giáo khác, đạo Công giáo xem việc truyền đạo là sứ mạng
thiêng liêng và thường trực. Ngay từ rất sớm, với lời thúc giục “ Hãy đi khắp trái
đất và giảng Phúc âm cho mọi người” (Mat 28,19) các giáo sĩ đã đi khắp nơi truyền
bá đạo Thiên Chúa.
Đạo Công giáo ngay từ khi mới ra đời giữ vai trò trong đời sống tâm linh của
người châu Âu. Vào các thế kỷ XVI - XVII, khi người phương Tây phát hiện ra con
đường đi vòng quanh thế giới, bắt đầu trao đổi buôn bán và chinh phục các vùng đất
thuộc châu lục khác thì Công giáo giáo cũng trở thành một phương tiện thâm nhập

hết sức quan trọng của họ. Các giáo sĩ Công giáo thuộc nhiều dòng tu khác nhau đã
theo thuyền buôn thâm nhập hầu hết các nước ngoài châu Âu, đến các nước ở bán
đảo Đông Dương khi mà ở đây chế độ phong kiến thống trị hàng ngàn năm đang ở
trong giai đoạn suy thoái. Trong đó, Việt Nam cũng là nơi được các giáo sĩ, thừa sai
chọn để mở rộng “nước Chúa”.
Tình hình Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII có nhiều xáo trộn và diễn
biến phức tạp. Nội bộ giai cấp thống trị hết sức lục đục vì sự tranh chấp quyền lực dẫn
đến sự chia cắt đất nước kéo dài trong nhiều năm. Cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều
(1530 - 1592) không chỉ gây ra bao đau thương, chết chóc, đẩy hàng chục vạn trai tráng
vào cảnh chém giết lẫn nhau mà còn tàn phá mùa màng, gây nên hàng loạt trận đói
khiến đời sống nhân dân hết sức cực khổ. Tình trang Nam - Bắc triều chấm dứt chưa
được bao lâu thì lại xảy ra sự phân chia Đàng Trong - Đàng Ngoài. Một cuộc chiến
tranh mới lại bùng nổ kéo dài gần nửa thế kỷ. Sau nhiều lần đánh nhau dữ dội mà
không có kết quả, quân sĩ hao tổn, chán nản, nhân dân cực khổ, hai họ

19


Trịnh - Nguyễn đành phải ngừng chiến, lấy sông Gianh làm ranh giới chia cắt. Sau
đó là cuộc nội chiến giữa Nguyễn Ánh với quân Tây Sơn và sự khôi phục của nhà
Nguyễn đầu thế kỷ XIX. Những điều đó đã làm cho kinh tế trì trệ gián đoạn, chính
trị hỗn độn, đời sống nhân dân đói khổ lầm than, nhân tâm dao động ly tán, tạo tình
thế thuận lợi cho viện thâm nhập truyền bá đạo Công giáo cũng như việc nhòm ngó
chinh phục của chủ nghĩa tư bản phương Tây.
Từ những thập niên đầu của thế kỷ XVI, ở Việt Nam đã có các giáo sĩ phương
Tây đến truyền giáo. Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” chép rằng:
“Gia tô, dã lục, Lê Trang Tông, Nguyên Hoà nguyên niên, tam nguyệt nhật, dương
nhân Inêkhu tiềm lai Nam Chân chi Ninh Cường, Quần Anh, Giao Thuỷ chi Trà Lũ
âm dĩ Gia tô tả đạo truyền giáo”. Dịch nghĩa là: “Đạo Gia tô, theo bút ký của tư
nhân, đời Lê Trang Tông, tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ nhất (1533), có người Tây

dương nên Inêkhu lén vào truyền bá đạo Gia tô ở làng Ninh Cường và Quần Anh
thuộc huyện Nam Chân và làng Trà Lũ thuộc huyện Giao Thuỷ”. Như vậy người
đóng vai trò tích cực truyền đạo trong thời gian đầu là giáo sĩ Inêkhu và năm 1533,
Xuân Trường là một trong những nơi đầu tiên tiếp nhận tôn giáo mới này. Năm
1550, linh mục Gaspar da Santa Cruz đến giảng đạo tại Hà Tiên; năm 1558, các linh
mục khác như Luis de Fonseca, Gregoice de la Motte truyền giáo ở miền Trung;
năm 1583, các linh mục Diego, Doropesa, Pedro Ortiz đến truyền giáo ở vùng ven
biển Quảng Ninh…Thời kỳ từ năm 1533 đến năm 1614 chủ yếu là các giáo sĩ dòng
Phan - xi - cô thuộc Bồ Đào Nha và dòng Đa Minh thuộc Tây Ban Nha đi theo
những thuyền buôn vào nước ta, nhưng do không quen thông thổ, chưa thạo ngôn
ngữ nên việc truyền giáo không mấy hiệu quả. Những hoạt động của các giáo sĩ trên
chỉ trong giai đoạn dò đường, phải đợi đến thế kỷ XVII việc truyền giáo mới được
dòng Tên tổ chức quy mô hơn.
Từ năm 1615 đến năm 1665 các giáo sĩ dòng Tên thuộc Bồ Đào Nha từ Ma Cao
(Trung Quốc) vào Việt Nam hoạt động ở cả Đàng Trong (Nam sông Gianh) và Đàng
Ngoài (Bắc sông Gianh). Ở Đàng Trong có các linh mục F.Buzomi, Diego Carvalho, F.
de Pina và đặc biệt là Alexandre de Rhodes. Ở Đàng Ngoài có linh mục Pedro Marque,
Gaspar d’ Amaral, Antonio Barbosa,… Trong khoảng 10 năm từ

20


năm 1615 đến năm 1625 đã có 21 giáo sĩ vào nước ta. Năm 1627, Alexandre de
Rhodes cùng một số giáo sĩ Bồ Đào Nha đến cửa Bạng (Thanh Hoá). Họ đã được
Trịnh Tráng đưa về Thăng Long giảng đạo. Nhờ đó Alexandre de Rhodes đã làm lễ
rửa tội cho hàng ngàn người. Vào năm 1645, sau khi bị trục xuất khỏi Việt Nam,
Alexandre de Rhodes trở về châu Âu báo cáo tình hình và kêu gọi các giáo sĩ sang
truyền giáo ở Việt Nam. Những giáo sĩ dòng Tên tỏ ra thông thạo tiếng Việt Nam lại
hoạt động khôn khéo nên mặc dù gặp nhiều khó khăn phức tạp, có khi phải đổ máu
nên đã thu hút được khá nhiều người dân theo đạo.

Sang giữa thế kỷ XVII, các chính quyền Lê - Trịnh và Nguyễn bắt đầu ráo riết
cấm đạo nhưng các giáo sĩ vẫn tiếp tục hoạt động. Hội truyền giáo đối ngoại Pari
được thành lập (do sự vận động tích cực của Alexandre de Rhodes), năm 1660 cử
Lambe sang Viễn Đông phụ trách khu vực Đàng Trong. Năm 1662 Paluy được cử
sang phụ trách khu vực Đàng Ngoài. Chủ trương của họ là phải kết hợp giữa truyền
đạo và phát triển thương mại. Nhờ đó các giáo sĩ vẫn lén lút hoạt động được. Năm
1665, Đâyđiê được cử ra Đàng Ngoài. Bấy giờ theo báo cáo của các giáo sĩ, ở Đàng
Ngoài đã có 35000 giáo dân, 200 giảng đường, 75 nhà thờ hay phòng họp. Dựa vào
sự suy thoái của Nho giáo, cuộc sống khổ cực của nhân dân vì chiến tranh, đói kém,
quan lại nhũng nhiễu, các giáo sĩ phương Tây đã truyền bá giáo lý về Chúa cứu thế,
về tình thương và sự an ủi, về sự bình đẳng của mọi người trước Chúa, lại tìm cách
cứu giúp những kẻ nghèo khổ. Vì vậy, số giáo dân ngày càng tăng lên, mặc dầu các
giáo sĩ luôn luôn vấp phải sự phản kháng của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn
sùng các thần linh cứu nước, ý thức dân tộc… Trong công cuộc truyền bá này, chữ
Quốc ngữ góp phần quan trọng và trở thành một công cụ đắc lực cho quá trình
truyền giáo. Các giáo sĩ đã giảng dạy bằng tiếng Việt, viết nhiều sách giáo lý bằng
chữ Quốc ngữ. Giáo dân không học chữ Nho mà chỉ học chữ Quốc ngữ. Các Chúa
Trịnh, Nguyễn nghĩ đến mối nguy đã nhiều lần ra lệnh “Cấm tà đạo Gia tô”, “Phá
huỷ các nhà thờ đạo, kinh sách”. Chỉ tính riêng trong 3 đời vua của triều Nguyễn là
Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức đã có tất cả 14 sắc chỉ cấm đạo Công giáo. Tuy
nhiên những chính sách đó không nhất quán và kém hiệu quả. Đặc biệt là trước và
sau thời điểm thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam (đời vua Tự Đức) việc
cấm đạo càng trở nên gay gắt quyết liệt.

21


×