Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ THUỘC NGÀNH CÔNG NGHIỆP ĐIỆN TỬ TRONG NHỮNG NĂM QUA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.24 KB, 38 trang )

SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ THUỘC NGÀNH CÔNG
NGHIỆP ĐIỆN TỬ TRONG NHỮNG NĂM QUA
*****************

2.1.Tổng quan về sự phát triển công nghiệp điện tử khu vực Đông Á và
những ảnh hưởng đến công nghiệp phụ trợ điện tử Việt Nam
2.1.1. Bức tranh tổng quát về công nghiệp điện tử khu vực Đông Á
Vùng Đông Á đang trở thành cứ điểm sản xuất lớn nhất thế giới trong
nhiều loại sản phẩm điện tử do sự phân công lao động quốc tế. Hiện nay khu
vực này sản xuất khoảng 95% máy nghe nhạc DVD, 85% máy tính sách tay, gần
100% ổ cứng máy tính, 70% máy cát sét, trên 80% máy điều hịa khơng khí,
60% ti vi màu và 30% xe hơi của thế giới...
Khoảng 30 năm về trước, hầu hết các mặt hàng này chỉ sản xuất ở Nhật
Bản nhưng sau đó chuyển sang Hàn Quốc, Đài Loan rồi sang các nước ASEAN,
chủ yếu là Malaixia rồi Thái Lan, sau đó đến Trung Quốc. Do cơng nghệ trong
lĩnh vực này cũng dễ chuyển giao nên các cứ điểm sản xuất chuyển dần sang
những nơi nhân công rẻ hơn và các phí tổn khác cũng thấp do chính sách
khuyến khích đầu tư trực tiếp từ nước ngoài của các nước. Hiện nay, Nhật Bản
chỉ sản xuất các loại sản phẩm cao cấp cịn lại thì tập trung nhập khẩu từ các cứ
điểm sản xuất của doanh nghiệp Nhật hoạt động tại ASEAN và Trung Quốc.
Ngoài bốn nước sản xuất nhiều sản phẩm điện tử và có thị phần đáng kể
là Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaixia và Thái lan. Riêng Trung Quốc sản xuất
trên 30% tổng sản lượng thế giới, Hàn Quốc cũng sản xuất hầu hết các mặt hàng
này và chiếm thị phần khoảng 5 – 10%. Thái Lan cũng là cứ điểm sản xuất quan
trọng đứng đầu ASEAN trong các mặt hàng như tủ lạnh, máy giặt, máy điều hịa
khơng khí và đứng thứ hai tong các mặt hàng khác. Malaixia đứng đầu ASEAN
về ti vi màu, máy hút bụi, máy thu và phát hình, cát sét. Thái Lan và Malaixia


chiếm được vị trí quan trọng hiện nay nhờ họ có chính sách khơn ngoan đón
được dịng thác FDI từ Nhật Bản sau khi đồng yên lên giá đột ngột cuối năm


1985. Inđônêxia đi chậm hơn hiện nay mới chỉ sản xuất với số lượng tương đối
đáng kể như: tivi màu, máy thu, tủ lạnh và máy phát hình.
ASEAN và Trung Quốc đang cạnh tranh với nhau rất gay gắt tại các thị
trường lớn như Nhật Bản và Mĩ. Đầu thập niên 1990, Trung Quốc hầu như
khơng có khả năng xuất khẩu sang các thị trường đó nhưng đến khoảng năm
2000 đã chiếm lĩnh trên dưới 30% tổng nhập khẩu của Nhật trong hầu hết các
hàng điện tử gia dụng. Trung Quốc cũng có những thành quả tương tự tại thị
trường Mĩ với các mặt hàng như: máy thu thanh, video, đồ nhiệt điện gia dụng.
Tuy nhiên Trung Quốc chiếm thị phần ngày càng lớn trong các thị trường Nhật,
Mĩ là do họ thay thế vị trí của Hàn Quốc, Đài Loan hoặc Mĩ và Nhật chứ chưa
đánh bật được vị trí của ASEAN. Cơng nghiệp điện tử của ASEAN vẫn giữ
được sức cạnh tranh quốc tế nhờ thu hút hiệu quả FDI từ Nhật, chất lượng đạt
tiêu chuẩn quốc tế và sử dụng được mạng lưới tiếp thị quốc tế do các công ty đa
quốc gia Nhật xây dựng trong nhiều năm qua. Ngoài ra, Thái Lan và Malaixia
đã xây dựng được các cụm công nghiệp cho ngành điện tử với sự phát triển
mạnh mẽ của các loại công nghiệp phụ trợ, chính điều đó đã tạo nên sức hấp
dẫn lớn đối với các nhà điện tử. Nhu cầu thế giới, đặc biệt tại Đông Á về những
mặt hàng điện tử sẽ tăng nhanh và do đó ASEAN sẽ tiếp tục là cứ điểm quan
trọng của thế giới trong tương lai tới.
Sự phát triển công nghiệp điện tử ở khu vực Đông Á diễn ra liên tục từ
nước này sang nước khác, khởi đầu từ Nhật Bản sau đó lan nhanh cả bề rộng lẫn
bề sâu sang các nước khác, điều này được giải thích qua mơ hình “Đàn sếu bay”
như sau:
Mơ hình đàn sếu bay tại khu vực Đông Á (hiệu ứng đuổi kịp)
- Các nước trong khu vực Đơng Á được chia thành nhiều nhóm có các
giai đoạn phát triển khác nhau gồm:


I: Nhật Bản
II: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore.

III: Malaixia, Thái Lan, Philippin, Inđônêxia.
IV: Trung Quốc, Việt Nam...
- Một ngành công nghiệp A thường được bắt đầu phát triển tại Nhật Bản
sau đó chuyển sang các nước nhóm II, III, IV...
- Các nước đi trước sau khi mất lợi thế so sánh trong ngành A sẽ nỗ lực
chuyển dịch cơ cấu cơng nghiệp sang ngành B có giá trị gia tăng cao hơn
và tốc độ công nghệ cao hơn.
- Ngành A sẽ được chuyển sang các nước khác và cơ cấu kinh tế của các
nước có sự tiến triển nhanh chóng, các nước đi sau đuổi theo các nước đi
trước và rút ngắn khoảng cách phát triển cơng nghiệp.
Ví dụ: cho đến thập niên 1970 mới chỉ có Nhật Bản sản xuất tivi màu
nhưng sau đó ngành này bắt đầu phát triển tại Hàn Quốc và Đài Loan từ cuối
thập niên 1970, rồi tại Malaixia và Thái Lan từ cuối thập niên 1980. Sau đó là
Trung Quốc trở thành nước sản xuất tivi màu nhiều nhất trên thế giới từ nửa sau
thập niên 1990.
Trong quá trình đuổi bắt này, lượng sản xuất tại Nhật Bản giảm nhanh và
phải nhập khẩu nhiều từ các nước Đông Á. ( Năm 1990 Nhật Bản sản xuất 15
triệu tivi màu nhưng năm 2000 chỉ còn sản xuất khoảng 3 triêu chiếc, trong thời
gian này nhập khẩu tăng từ 1đến 9 triệu chiếc).
Từ mô hình “đàn sếu bay” cho thấy, Việt Nam cũng đang nằm trong làn
sóng cơng nghiệp của khu vực Đơng Á mà tiêu điểm của sự lan tỏa này là ngành
công nghiệp điện tử. Hiện nay việc sản xuất các loại máy móc đồ điện tử, đồ
điện gia dụng, nhiều ngành thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin phần cứng như
điện thoại di động và các linh phụ kiện của các sản phẩm điện tử có nhu cầu
ngày càng lớn trên thế giới. Mặt khác công nghệ này lại lại dễ lan nhanh từ các
nước này sang nước khác nên những nước có nguồn lao động dồi dào, khéo tay
và tiền lương rẻ dễ trở thành những cứ điểm có sức cạnh tranh lớn. Việt Nam rất


có triển vọng canh tranh trong lĩnh vực này nhưng chưa trở thành một trong

những nơi sản xuất chính tại Châu Á. Trong hơn 15 năm qua, các cứ điểm sản
xuất các sản phẩm trên liên tục chuyển nhanh từ Nhật Bản sang các nước khác
(theo hiệu ứng đàn sếu bay), đầu tiên là sang Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore
sau đó sang Malaixia và Thái Lan và gần đây là Trung Quốc. Công nghiệp phụ
trợ cho công nghiệp điện tử gồm rất nhiều chủng loại mặt hàng, những loại có
hàm lượng cơng nghệ cao thì Nhật Bản và các nước cơng nghiệp mới vẫn cịn
duy trì cạnh tranh và triển khai phân công hàng ngang ở các nước ASEAN. Việt
Nam cần nắm bắt cơ hội này, nhanh chóng phát triển các ngành công nghiệp
phụ trợ điện tử, trở thành cứ điểm sản xuất của khu vực để từ đó tạo đà đẩy
mạnh ngành cơng nghiệp điện tử cịn non trẻ trong nước và rút ngắn khoảng
cách với các nước trong khu vực.
2.1.2.Tổng quan về ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam
Ngành cơng nghiệp điện tử Việt Nam đã hình thành và phát triển từ năm
1970 đến nay, xuất phát điểm từ việc lắp ráp các thiết bị điện tử dân dụng như ti
vi đen trắng, radio, cassette, loa... sau đó là ti vi màu và các phương tiện điện tử
khác. Khuynh hướng chính của ngành cơng nghiệp điện tử Việt Nam là lắp ráp
dưới dạng CKD, SKD và IKD. Ngồi ra, cịn tiến hành sản xuất, chế tạo (loạt
nhỏ) các thiết bị điện tử công nghiệp, các hệ thống cân đo điện tử, điều khiển tự
động, các thiết bị điện tử y tế và chuyên dụng, tiếp đó là cơng đoạn lắp ráp máy
vi tính, gia cơng xuất khẩu các bảng mạch điện tử và thực hiện các dịch vụ
khác. Thực hiện các chính sách đổi mới và kêu gọi những nhà đầu tư nước
ngoài, diện mạo của ngành cơng nghiệp Việt Nam đã có sự thay đổi khi nhiều
cơng ty nước ngồi đã đầu tư sản xuất linh phụ kiện để xuất khẩu và cung cấp
cho các công ty nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam với các loại sản phẩm
như: các linh kiện thụ động, các cụm chi tiết kim loại, đèn hình, nhựa, các bộ
phận cho máy tính điện tử. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của ngành đạt 2030%/năm. Công nghiệp điện tử đã cơ bản thoả mãn nhu cầu nội địa, với doanh


số đạt 1,6 tỉ USD năm 2005 cho khu vực thị trường trong nước. Sản phẩm điện
tử của Việt Nam đã xuất khẩu đi 35 quốc gia, trong đó các nước ở châu Á là khu

vực tiêu thụ chính (Thái Lan và Philippines là hai thị trường lớn nhất ở khu vực
này). Giá trị xuất khẩu ngày càng tăng thêm,và hiện tính đến hết năm 2007 giá
trị xuất khẩu đã dạt mức trên 2,1 tỷ USD.
Theo kết quả khảo sát năm 2006 của Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt
nam, 90% lực lượng doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực sản xuất điện tử của
Việt nam tập trung vào 2 trung tâm lớn: Hà Nội và các tỉnh lân cận Hải Dương,
Hưng Yên, Bắc Ninh; và TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai. Hai trung
tâm này sản xuất ra phần lớn các sản phẩm điện tử của Việt Nam, chiếm 95%
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Ngoài 2 trung tâm này, chỉ cịn một số ít các
doanh nghiệp điện tử nhỏ ở Đà Nẵng và Hải Phòng. Các doanh nghiệp FDI
trong ngành công nghiệp điện tử thường chọn các khu cơng nghiệp, khu chế
xuất có hạ tầng tốt và giao thông thuận tiện. Rất nhiều các doanh nghiệp tư
nhân cũng đang theo xu hướng này. Các doanh nghiệp FDI định hướng xuất
khẩu đều là các doanh nghiệp lớn, được đầu tư bài bản, trang thiết bị và công
nghệ khá cao. Các DN này đánh giá cao các điều kiện làm việc và chất lượng
nhân công trong ngành công nghiệp điện tử ở Việt Nam. Các doanh nghiệp tư
nhân trong ngành đều là các doanh nghiệp nhỏ. Trừ một số rất ít như TQT
(Nha Trang), CMS (Hà Nội) có công nghệ tương đối tiên tiến, các trang thiết
bị và công nghệ của hệ thống doanh nghiệp này đều lạc hậu, yếu kém. So với
các quốc gia láng giềng thì số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành
công nghiệp điện tử cịn q ít và chưa trở thành động lực thúc đẩy sự phát
triển của ngành. Doanh nghiệp nhà nước hầu hết có quy mơ vừa với cơ sở hạ
tầng tốt, trình độ cơng nghệ ở mức trung bình tiên tiến.
Hoạt động chính của ngành cơng nghiệp điện tử Việt Nam hiện nay là lắp
sáp sản phẩm điện tử tiêu dùng nên dẫn tới cơ cấu sản phẩm mất cân đối
nghiêm trọng giữa sản phẩm điện tử tiêu dùng và điện tử chuyên dùng (với tỷ lệ


80%/20% - trong khi ở các quốc gia công nghiệp phát triển thì tỷ lệ này là
15%/85%). Cơng nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng (trừ các linh kiện xuất

khẩu 100%) và cơng nghiệp phụ trợ ít phát triển nên dẫn tới tỉ lệ nội địa hoá
các sản phẩm điện tử rất thấp, bình quân chỉ 20-30%, chủ yếu là bao bì đóng
gói với các chi tiết nhựa, chi tiết kim loại.
Điểm yếu của công nghiệp điện tử là công tác nghiên cứu phát triển sản
phẩm còn rất hạn chế nên giá trị gia tăng của các sản phẩm tạo ra thấp, chỉ đạt
từ 5-10%. Cũng theo kết quả điều tra được thì chỉ khoảng 40% các doanh
nghiệp điện tử để giành hơn 1% doanh thu cho việc phát triển thương hiệu và
quảng bá sản phẩm của mình. Số cịn lại thường chỉ giành khoảng 0,5-1%, thậm
chí ít hơn 0,5% doanh thu cho phát triển thương hiệu. Đó là một trong những
nguyên nhân làm cho thương hiệu của các sản phẩm điện tử Việt Nam không
được đánh giá cao và hiện đang phải cạnh tranh rất gay gắt với các thương hiệu
nổi tiếng nước ngoài. Tuy nhiên, chất lượng của một số sản phẩm điện tử mang
thương hiệu Việt Nam (tivi, máy vi tính) đã đạt được mức ngang bằng với khu
vực, một số các sản phẩm điện tử được sản xuất bởi các công ty liên doanh hoặc
các công ty 100% vốn nước ngoài đã đạt được yêu cầu sản phẩm chất lượng
cao.
Công nghiệp điện tử hiện nay sử dụng trên 100.000 lao động với tốc độ thu
hút nguồn nhân lực là 10%/năm, công việc chủ yếu tập trung vào lĩnh vực lắp
ráp các loại sản phẩm điện tử tiêu dùng và các loại linh kiện điện tử xuất khẩu.
Lao động có trình độ đại học tại các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ khá
cao, từ 19-63%, trong khi tại các doanh nghiệp FDI chỉ từ 4-10%. Lao động
Việt nam trong ngành công nghiệp điện tử , nhất là lao động trực tiếp, nhìn
chung được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao về kỹ năng.


2.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến công nghiệp phụ trợ thuộc ngành điện
tử của Việt Nam
Với sự phân công lao động trên toàn thế giới như hiện nay, khu vực Đông
Á đang là vùng đất tốt nhất cho sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử,
mặt khác việc tiêu dùng các loại máy móc đồ điện tử gia dụng, điện tử, nhiều

ngành thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin phần cứng như điện thoại di động và
các linh kiện của các sản phẩm điện tử có nhu cầu ngày càng lớn trên thế giới.
Công nghệ trong ngành này lại dễ lan nhanh sang các nước khác nên những
nước có nguồn lực lao động dồi dào, khéo tay và nhân công rẻ dễ trở thành
những cứ điểm sản xuất có sức cạnh tranh lớn. Việt Nam là một nước rất có
triển vọng cạnh tranh trong lĩnh vực này nhưng vẫn chưa trở thành một trong
những nơi sản xuất chính tại Châu Á. Trong 15 năm qua, các cứ điểm sản xuất
các sản phẩm trên cứ liên tục chuyển nhanh (theo mơ hình đàn sếu bay) từ Nhật
Bản sang Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, sau đó sang Malaixia và Thái Lan và
gần đây là Indonexia và Trung Quốc. Công nghiệp phụ trợ điện tử bao gồm rất
nhiều chủng loại mặt hàng, những loại có hàm lượng cơng nghệ cao thì Nhật và
các nước NICs cịn duy trì cạnh tranh vì họ có cơng nghệ tốt và vẫn đem lại giá
trị gia tăng lớn. Còn nhiều những mặt hàng khác hầu hết được triển khai phân
công hàng ngang ở các nước ASEAN. Việt Nam cần nắm bắt được tình hình này
nhanh chóng phát triển các ngành cơng nghiệp phụ trợ điện tử đẩy mạnh sự phát
triển của ngành công nghiệp điện tử còn non trẻ trong nước và rút ngắn khoảng
cách với các nước khác trong khu vực. Những ảnh hưởng đến công nghiệp phụ
trợ trong ngành điện tử của Việt Nam được tóm tắt trong bảng sau:
Điểm mạnh
- Có nguồn lao động dồi dào học hỏi nhanh và đội ngũ cán bộ kỹ thuật điện tử
được đào tạo và có tích lũy khá về cơng nghiệp điện tử
- Chi phí lao động tương đối thấp


- Thị trường tiêu thụ nội địa tiềm năng với dân số đơng
- Có thế mạnh về nguồn ngun liệu để phát triển công nghệ vật liệu điện tử
Điểm yếu
- Năng lực sản xuất còn hạn chế
- Phụ thuộc nguồn cung cấp ngun liệu từ bên ngồi
- Sản phẩm có sức cạnh tranh yếu

- Thiếu thông tin về thị trường thế giới
Cơ hội
- Có vị trí thuận lợi do nằm trong vịng cung Đơng Á, nơi phát triển các sản
phẩm điện tử của thế giới
- Hệ thống pháp luật đang được hồn thiện phù hợp với thơng lệ quốc tế
Thách thức
-Chịu sự cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc và các nước ASEAN đã có nền
cơng nghiệp điện tử phát triển
- Chiếm lĩnh thị trường trong nước
Bảng 2.1 :Phân tích SWOT cho cơng nghiệp điện tử của Việt Nam
Phân tích các yếu tố điểm mạnh, điểm yếu từ môi trường bên trong và
những cơ hội, thách thức từ môi trường ngồi thơng qua mơ hình SWOT như
sau:
 Điểm mạnh
+ Việt Nam là một nước có cơ cấu dân số trẻ với trên 50% dân số dưới 35
tuổi và cũng là một quốc gia có nền chính trị xã hội ổn định. Nguồn lao động dồi
dào của Việt Nam được đành giá là học hỏi nhanh và đội ngũ cán bộ KHKT công nghệ trong ngành điện tử được đào tạo tương đối cơ bản qua nhiều năm


khai thác, sử dụng và lắp ráp các thiết bị điện tử, kể cả các thiết bị điện tử hiện
đại, do vậy đã tích luỹ được những kinh nghiệm về sản xuất và kinh doanh các
mặt hàng liên quan đến điện tử - tin học. Như vậy, nguồn tài nguyên trí tuệ là một
trong những nguồn lực cơ bản của Việt Nam trong phát triển công nghiệp điện tử.
+ Giá nhân cơng tương đối rẻ: chi phí cho lao động tương đối thấp ở Việt
Nam tạo cho các doanh nghiệp chế tạo sản phẩm phụ trợ, lắp ráp hàng điện tử có
lợi thế cạnh tranh so với khu vực.
+ Có các tài nguyên khoáng sản quan trọng cần thiết để phát triển công
nghiệp vật liệu điện tử như: quặng sắt, đất hiếm, titan, rutin, barit, ilmenit... Việt
Nam có thể trở thành nhà cung ứng nguyên vật liệu, hóa chất cho ngành cơng
nghiệp điện tử của các nước dưới hình thức khai thác nguyên liệu thô, thành

phẩm hoặc bán thành phẩm với giá rẻ.
+ Với dân số 84 triệu người, Việt Nam cũng là một thị trường tiêu thụ đầy
tiềm năng.


Điểm yếu

+ Do chưa tự cung cấp được nguyên cho mình, phải nhập khẩu từ bên
ngoài nên bị phụ thuộc vào chính nguồn cung đó. Trong các sản phẩm sản xuất
lắp ráp ở Việt Nam giá trị nhập khẩu các linh kiện khá lớn, trong khi giá trị gia
tăng do sản xuất trong nước chiếm tỷ trọng nhỏ không đáng kể.
+ Năng lực sản xuất của ngành còn hạn chế: ngành công nghiệp điện tử
của Việt Nam phát triển quá muộn cộng với nhiều bất lợi về năng lực thiết kế và
chế tác của các công ty trong nước; mặt khác việc đầu tư vào nghiên cứu và triển
khai sản phẩm ở cấp cơng ty hầu như khơng có; chưa có khả năng theo sát và
đánh giá những xu hướng mới nhất trong phát triển chế tác và kỹ thuật; các cơng
ty trong nước thì chưa có khả năng tiếp cận dễ dàng với các chi tiết kỹ thuật cập
nhật và tiêu chuẩn sản phẩm điện tử thể giới.


+ Thiếu thông tin về thị trường thế giới là một bất lợi lớn cộng với khả
năng và kinh nghiệm xúc tiến xuất khẩu yếu đã kìm hãm sự phát triển của ngành
công nghiệp điện tử.
+ Khả năng cạnh tranh của sản phẩm chưa cao: chủng loại sản phẩm
nghèo nàn, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành thì cao do chí phí về nguyên liệu
và linh kiện (chiếm 70% tổng chi phí sản xuất) tại Việt Nam cao hơn của các
nước trong khu vực, chưa có thương hiệu sản phẩm điện tử mạnh.
 Cơ hội
+ Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, nằm trong khu vực có nền công
nghiệp phát triển nhanh và năng động, đặc biệt là đối với ngành cơng nghiệp

điện tử. Việt Nam có cơ hội thuận lợi để thu hút vốn đầu tư, nhận chuyển giao
công nghệ và học tập các kiến thức quản lý vào đào tạo nhân lực từ các nước có
ngành công nghiệp điện tử phát triển trong khu vực.
+ Hệ thống luật pháp Việt Nam đang được tiếp tục hoàn thiện theo hướng
rõ ràng và phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật Đầu tư nước ngoài được đổi đã tạo
điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng tiến hành sản xuất các loại linh
phụ kiện điện tử và thực hiện công nghệ lắp ráp hiện đại tại Việt Nam. Các doanh
nghiệp đầu tư nước ngồi ln có các thị trường xuất khẩu ổn định nên Việt nam
có thể thơng qua đó mà tiếp cận vào mạng lưới tiêu thụ sản phẩm điện tử trên thế
giới.
+ Từ 1/1/2006 các cam kết AFTA về lịch trình giảm thuế trong đối với các
mặt hàng điện tử đã có hiệu lực hoàn toàn. Việt Nam cũng đã gia nhập WTO vừa
qua tạo điều kiện thuân lợi cho việc đưa các sản phẩm vươn ra khu vực và thế
giới.
+ Sự quan tâm và tăng cường đầu tư của hai quốc gia hàng đầu về công
nghiệp điện tử là Hoa Kỳ và Nhật Bản sẽ tạo đà kéo theo nhiều nhà đầu tư khác
tham gia vào công cuộc phát triển của Việt Nam.


 Thách thức
+ Công nghiệp điện tử của Việt Nam phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của
Trung Quốc và các nước ASEAN như Singapore, Thái Lan, Malaysia là những
nước có nền cơng nghiệp điện tử phát triển hơn. Với các cam kết AFTA và WTO,
thị trường các mặt hàng điện tử của Việt Nam sẽ có nguy cơ bị thao túng bởi các
mặt hàng điện tử của các nước này vì họ có lợi thế hơn khi xâm nhập vào những
thị trường xuất khẩu vốn đã rất ít ỏi của Việt Nam.
+ Ngay trong nước, việc tái chiếm lĩnh thị trường nội địa của các doanh
nghiệp trong nước cũng gặp phải khó khăn lớn do đã có sự phân công sản xuất và
phân chia thị trường ở mức độ khá cao giữa các tập đồn điện tử có thương hiệu
mạnh.

2.2. Thực trạng của sự phát triển công nghiệp phụ trợ thuộc ngành điện tử
Việt Nam
2.2.1. Thực trạng của công nghiệp phụ trợ Việt Nam
Trong hơn 10 năm qua Việt Nam đã có những định hướng cho các nhà
đầu tư trong và ngồi nước phát triển cơng nghiệp phụ trợ. Tuy nhiên, mức độ
thành công ở các ngành không đều nhau. Đến nay công nghiệp phụ trợ của Việt
Nam vẫn ở trong tình trạng kém phát triển với những biểu hiện rõ ràng là chất
lượng sản phẩm kém, giá thành cao và chủng loại lại rất nghèo nàn, không đáp
ứng được một cách ổn định và có hiệu quả các u cầu của thị trường. Nhìn
chung cơng nghiệp phụ trợ của Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn sơ khai,
điều này lại càng rõ nét nếu nhìn nhận từ khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Số
lượng các doanh nghiệp phụ trợ nội địa mặc dù được tăng lên khá nhanh nhưng
mới chỉ dừng lại ở khâu sản xuất các chi tiết, linh kiện, phụ kiện đơn giản và cơ
cấu giá trị trong tổng giá trị nội địa hóa là rất nhỏ. Để nhận dạng công nghiệp
phụ trợ Việt Nam hiện nay, có ba yếu tố sau cần phải được xem xét:


Một là, tính chất và đặc thù của các sản phẩm và loại sản phẩm phụ trợ.
Cũng giống như giai đoạn đầu của công nghiệp Thái Lan và một số nước
ASEAN khác, các doanh nghiệp nội địa của Việt Nam chỉ có thể tập trung đầu
tư và phát triển sản xuất các loại phụ tùng, linh phụ kiện có kích cỡ cồng kềnh
và công nghệ sản xuất không phức tạp với mục tiêu đáp ứng nhu cầu, thậm chí
là yêu cầu của các công ty lắp ráp FDI.
Sau đây là một trích dẫn thực tế từ nghiên cứu của Viện chiến lược chính
sách cơng nghiệp :
Hiện tại, cơng ty SUZUKI Việt Nam đã tạo dựng được một hệ thống các nhà
cung cấp nội địa bao gồm 11 công ty Nhật Bản, 16 công ty Việt Nam, 22 công
ty Đài Loan và 7 công ty khác, tương tự như vậy với công ty Honda và VMEP.
Tuy nhiên các chi tiết, các cụm chi tiết khó và động cơ các nhà lắp ráp vẫn
phải nhập khẩu vì các nhà cung cấp nội địa chưa thể đảm nhận. Có một số nhà

cung cấp như MAP (Machino Auto Parts Co.,Ltd), TSUKUBA, Broard Bright
hay Vision... đã bắt đầu thực hiện sản xuất một số chi tiết khó nhưng với số
lượng ít và chất lượng chưa thể ngang bằng với hàng nhập khẩu.
(Nguồn: Viện nghiên cứu chiến lược chính sách cơng nghiệp, 2006)

Hai là, năng lực của các nhà cung ứng (bao gồm cả doanh nghiệp nội địa
và các doanh nghiệp FDI). Mặc dù các chính sách khai thơng cho dịng đầu tư
nước ngồi ngày càng được cải thiện, song năng lực cũng như số lượng của các
doanh nghiệp cung cấp FDI vẫn chưa đủ mạnh. Trong khi đó các doanh nghiệp
nội địa có trình độ công nghệ lạc hậu, năng lực quản lý và tổ chức sản xuất chưa
đáp ứng được những đòi hỏi của các nhà lắp ráp FDI. Một trong những điểm
yếu của các doanh nghiệp nội địa là khả năng nghiên cứu và phát triển, tất nhiên
điều này cũng xuất phát một phần từ sự hạn chế về tài chính, trong khi đó các
doanh nghiệp cung cấp FDI ngày càng có những bước tiến khá quan trọng trong
khâu nghiên cứu và phát triển.


Ba là, những yêu cầu đặt ra và chính sách thu mua từ phía các cơng ty lắp
ráp FDI. Dù là hình thức sản xuất nào: theo dây chuyền (đối với các công ty
Nhật Bản và các nước tiên tiến) hay theo công đoạn (như các công ty Trung
Quốc), các cơng ty lắp ráp FDI đều có những u cầu rất khắt khe với nhà cung
ứng về chất lượng, các thông số kỹ thuật của sản phẩm, nguồn nguyên vật liệu
và thời hạn giao hàng. Bởi vậy, các doanh nghiệp nội địa khó có khả năng đáp
ứng các yêu cầu trên một cách toàn diện. Số lượng các doanh nghiệp phụ trợ nội
địa trong ngành công nghiệp xe máy là khá nhiều, nhưng số doanh nghiệp trở
thành nhà cung ứng các linh kiện, phụ tùng cho các công ty lắp ráp FDI thì
khơng đáng kể. Có rất nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng này, một số doanh
nghiệp cho rằng điều đó thuộc về triết lý kinh doanh của những doanh nghiệp
FDI - nặng về loại hình phụ trợ "ruột" hơn là tìm kiếm ở các nguồn khác. Tuy
nhiên, nếu xem xét trên góc độ "động cơ nội địa hóa" của các cơng ty lắp ráp

FDI thì ngun nhân chính vẫn là năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh và uy
tín của các doanh nghiệp này. Vậy, các doanh nghiệp phụ trợ Việt Nam cần phải
làm những gì để trở thành các nhà cung ứng cho các công ty lắp ráp FDI?
2.2.2. Đánh giá chung về công nghiệp phụ trợ của Việt Nam
Việt Nam hiện nay đã và đang hình thành nên các cơ sở sản xuất nguyên
liệu, linh kiện, phụ tùng, vật tư hỗ trợ phục vụ cho nhu cầu lắp ráp một số các
mặt hàng công nghiệp để tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Trong đó chiếm tỷ một
trọng lớn là các cơ sở sản xuất với mục tiêu phục vụ cho nhu cầu nội địa. Xuất
khẩu các sản phẩm phụ trợ còn thấp và mới chủ yếu là xuất khẩu gián tiếp thông
qua xuất khẩu các sản phẩm lắp ráp cuối cùng. Cùng với nhiều ưu đãi nhằm thu
hút đầu tư nước ngoài, nhiều doanh nghiệp FDI cũng đã đầu tư phát triển các cơ
sở sản xuất hỗ trợ tại Việt Nam điển hình là các ngành lắp ráp xe máy, xe đạp,
trang thiết bị điện tử gia dụng, trang thiết bị điện tử - tin học - viễn thông …Ở
một số ngành công nghiệp đã đạt được tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm khá cao như
ngành xe đạp 80-90%, xe máy 70-80%, trang thiết bị điện 80-90%… Trong khi


đó một số ngành tỷ lệ nội địa hố cịn thấp như ngành điện tử-tin học-viễn
thông, ngành dệt may-da giày, ngành sản xuất lắp ráp ơtơ, ngành cơ khí chế tạo,

Nhìn chung cơng nghiệp phụ trợ chưa phát triển. Trình độ cơng nghệ chế
tạo cịn thấp. Các cơ sở sản xuất nguyên vật liệu hỗ trợ cơ bản như sắt thép, cao su
kỹ thuật, nguyên liệu nhựa, linh kiện điện tử, hố chất cơ bản, bơng, sợi, da...thiếu
một cách trầm trọng. Cơng nghệ gia cơng cịn lạc hậu với cơng suất thấp, chất
lượng không ổn định, giá thành cao, như các khâu đúc tạo phôi, mài, rèn, ép, xử
lý bề mặt, gia công, sản xuất khuôn mẫu... Khu vực đầu tư nước ngồi có cơng
nghệ gia cơng tiến tiến hơn nhưng năng lực cũng chỉ đủ phục vụ cho các nhu
cầu nội bộ của công ty mẹ.
Sức cạnh tranh ở các cơ sở sản xuất cơng nghiệp phụ trợ cịn thấp, nhiều
khi cạnh tranh không lành mạnh. Thiếu sự liên kết, phân cơng chun mơn hố

giữa các cơ sở sản xuất hỗ trợ và gần như thiếu hẳn sự phân cơng sản xuất, liên
kết giữa nhà sản xuất chính với những nhà thầu phụ, giữa những nhà thầu phụ
với nhau và giữa các doanh nghiệp nội địa với các doanh nghiệp FDI.
Việt Nam chưa tạo ra được một môi trường kinh tế đủ sưc hấp dẫn để các
thành phần kinh tế mạnh dạn đầu tư vào các khâu sản xuất phụ trợ với định
hướng phát triển bền vững và dài hạn trong bối cảnh hội nhập như ngày nay.
Các mối liên kết kinh tế hiện nay chủ yếu được phân theo ngành dọc, gần như
chỉ bó hẹp trong quan hệ quen biết và bỏ vốn liên doanh, cùng đầu tư và bao
tiêu sản phẩm. Việc liên kết sản xuất giữa các doanh nghiệp khác chủ sở hữu và
chia sẻ thông tin thị trường với nhau rất hạn chế. Trên thực tế các nhà đầu tư
FDI ít quan tâm đến việc phát triển các doanh nghiệp phụ trợ nội địa. Trong khi
đó các doanh nghiệp nội địa vì nhiều lý do, trong điều kiện sản xuất kinh doanh
rất khó tiếp cận với các doanh nghiệp FDI. Trong vấn đề này, vai trò dẫn dắt
của các Hiệp hội nghề nghiệp chưa thực sự nổi rõ.


Do dung lượng thị trường còn thấp nên việc sản xuất các sản phẩm phụ trợ
phục vụ cho sản xuất tiêu thụ nội địa hoặc xuất khẩu còn gặp nhiều khó khăn,
chưa đảm bảo quy mơ cơng suất sản xuất. Vấn đề sản xuất các sản phẩm phụ trợ
để xuất khẩu (dù xuất khẩu tại chỗ) hầu hết đều do các doanh nghiệp FDI khống
chế và điều tiết. Từng hãng, từng quốc gia đều có chiến lược riêng rẽ về tổ chức
sản xuất thầu phụ và phân chia thị trường nên việc chen chân vào lĩnh vực sản
xuất này còn có nhiều khó khăn và phụ thuộc chủ yếu vào mong muốn và ý
định của từng doanh nghiệp (tập đoàn) nước ngoài. Muốn phát triển sản xuất
nội địa, Việt Nam bắt buộc phải trở thành một mắt xích trong dây chuyền sản
xuất tồn cầu của tập đồn đó
2.2.3.Thực trạng cơng nghiệp phụ trợ trong ngành điện tử của Việt Nam
Toàn ngành điện tử Việt Nam có hơn 200 doanh nghiệp trong nước, đa
phần là loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ của nhiều thành phần kinh tế. Tổng
số vốn đầu tư của toàn ngành hiện nay là gần 1,6 tỷ USD trong đó vốn của các

doanh nghiệp liên doanh và các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm tới
90%. Hiện nay Việt Nam có khoảng trên 60 doanh nghiệp FDI sản xuất các mặt
hàng điện tử và linh kiên điện tử máy tính, sản phẩm gần như 100% để xuất
khẩu. Một số doanh nghiệp có vốn đầu tư lớn như: Công ty Fujitsu Việt Nam
với vốn đầu tư là 198,8 triệu USD chuyên sản xuất bảng mạch và đế mạch in
điện tử; Công ty Orion – Hanel với vốn đầu tư là 297,347 triệu USD chuyên sản
xuất súng điện tử , đèn hình; Cơng ty Canon Việt Nam với 176,7 triệu USD
chuyên sản xuất phụ kiện, máy in, bán thành phẩm máy in và thiết bị điện tử;…
Các doanh nghiệp này khai thác thị trường truyền thống sẵn có như Trung
Quốc, Nhật Bản, Singapore…
Cho đến nay Việt Nam hoàn toàn khơng có một cơ sở sản xuất cơng
nghiệp nào tham gia vào lĩnh vực sản xuất vật liệu điện tử, tuy đã có ở dạng
nghiên cứu cơ bản hoặc sản xuất theo mơ hình thí nghiệm. Về sản xuất linh kiện


điện tử, Việt Nam đã có một vài cơ sở sản xuất với mức đầu tư lớn và thực sự đã
sản xuất như:
- Năm 1993 Hà Nội đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất đèn hình OrionHanel với mức vốn 178 triệu USD. Hiện nhà máy vẫn đang hoạt động có hiệu
quả với cơng xuất 1,6 triệu sản phẩm/năm, doanh thu đạt hơn 100 triệu
USD/năm.
- Năm 2000 tại Đà nẵng, ICTI (Công ty phát triển công nghệ và tư vấn
đầu tư Đà nẵng) đã đầu tư dây chuyền sản xuất tụ màng mỏng với công xuất 8
triệu sản phẩm/ tháng. Vốn đầu tư khoảng trên 1 triệu USD (dây chuyền công
nghệ nhập từ Hàn Quốc).
Linh kiện điện tử và các sản phẩm chỉ mới được sản xuất trong thời gian
gần đây nhưng chủ yếu do các công ty FDI thực hiện. Linh kiện điện tử là sản
phẩm thuộc nhóm hàng đóng góp quan trọng trong việc làm gia tăng giá trị sản
lượng cho ngành công nghiệp điện tử. Các sản phẩm chính bao gồm mạch in,
đèn màn hình với công suất 2 triệu chiếc /năm; đế mạch in với công suất 8,5
triệu cái /năm; tụ điện các loại, cuộn cảm, cuộn cao áp, cuộn lái tia, các chi tiết

nhựa, các chi tiết cơ khí cho lắp ráp đèn hình, các loại ăng ten, các loại bao bì,
bao gói như thùng các tông, xốp chèn… Một phần những linh kiện này được
cung ứng cho các doanh nghiệp trong nước để tăng tỷ lệ nội địa hoá cho những
sản phẩm điện tử sản xuất tại Việt Nam, còn phần lớn là để xuất khẩu, sản phẩm
xuất khẩu chủ yếu là của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Giá trị xuất
khẩu linh kiện điện tử, máy tính nguyên chiếc của Việt Nam không lớn nhưng
vẫn gia tăng trong những năm gần đây. Sơ đồ 2.2 sau đây chỉ rõ điều này.

Đơn vị 1000,000 USD

Sơ đồ 2.2 : Giá trị xuất khẩu linh kiện điện tử,máy tính nguyên chiếc
của VN (nguồn:Tổng cục thống kê)


Số lượng các doanh nghiệp phụ trợ có thể đáp ứng được yêu cầu của các
doanh nghiệp FDI là rất ít do vậy mà việc thu hút FDI để phát triển các ngành
cơng nghiệp trở nên khó khăn. Các doanh nghiệp FDI ở ngành công nghiệp điện
tử luôn bị thúc ép phải giảm chi phí và nâng cao giá trị gia tăng của các sản
phẩm sản xuất tại Việt Nam nên họ rất cần những doanh nghiệp phụ trợ tại Việt
Nam, nhưng đáng buồn là chỉ có rất ít có thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Nguồn linh kiện, nguyên liệu để cung cấp cho các doanh nghiệp điện tử
Việt Nam chủ yếu là từ nhập khẩu với các nước cung cấp chính là Nhật Bản,
Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore. Đối với các doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài và doanh nghiệp liên doanh thì nguồn linh kiện và nguyên liệu được cung
cấp từ các cơ sở thuộc mạng lưới sản xuất và phân phối tồn cầu của chính hãng
sản xuất này.
Điều này làm cho Việt Nam không vượt ra khỏi công đoạn gia công lắp
ráp – công đoạn mang lại giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị, mặt khác
nó cũng làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp FDI do phải nhập khẩu
phần lớn các linh kiện, phụ kiện. Sự yếu kém của công nghiệp nguyên liệu bản

địa cũng khiến nhiều nhà đầu tư trong lĩnh vực cơng nghiệp chế tạo có xu
hướng ngại đầu tư vào Việt Nam vì buộc phải vận chuyển một số lượng không
nhỏ các nguyên liệu và phụ kiện. Điều này là một trong những điểm yếu của
Việt Nam khi thu hút đầu tư nước ngồi vào phát triển cơng nghiệp của quốc
gia.
Giá trị nhập khẩu linh kiện điện tử, và các mặt hàng điện tử của Việt Nam
thể hiên trong sơ đồ sau:

Đơn vị 1000,000 USD

Sơ đồ 2.1 :Giá trị nhập khẩu các hàng điện tử, máy tính và linh kiện điện
tử của VN (nguồn: Tổng cục thống kê)


Hạ tầng giao thông của Việt Nam, đặc biệt là hệ thống trung chuyển hàng
hố bằng hàng khơng rất yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu là đầu mối trung
chuyển đi các sân bay quốc tế với yêu cầu về thời gian cấp bách, mà các mặt
hàng điện tử hầu như đều có tính đua tranh về thời gian, chậm một ngày hoặc
chậm một giờ đối với mặt hàng này đều có thể làm tổn hại đến doanh nghiệp,
bởi vậy khó có thể thu hút các nhà sản xuất linh kiện điện tử cao cấp vào Việt
Nam. Nguồn nguyên vật liệu, đặc biệt với những loại cao cấp như Titan, vàng…
khơng có sẵn ở Việt Nam, muốn nhập thì lại bị hạn chế thêm bởi thủ tục rườm
rà về giao nhận và thanh toán cũng hạn chế cho việc đầu tư sản xuất linh kiện
điện tử cao cấp vào Việt Nam.
2.2.4. Sự quản lý của chính phủ đối với công nghiệp phụ trợ trong ngành
điện tử của Việt Nam trong những năm qua
Mặc dù đã nhận thức rõ vai trị to lớn của ngành cơng nghiệp phụ trợ
nhưng những hành động của chính phủ chưa rõ nét và chưa mang lại được kết
quả như mong đợi. Trong ngành điện tử chưa thấy có một cơ quan đầu mối rõ
ràng về công nghiệp phụ trợ nhằm hỗ trợ những nhà cung cấp nội địa các thông

tin về yêu cầu cũng như mong muốn của các nhà lắp ráp FDI về các loại hàng
hố và các dịng sản phẩm điện tử. Nhìn chung chưa có một chiến lược nào
được hoạch định để phát triển cơng nghiệp phụ trợ , do đó các doanh nghiệp
muốn phát triển phải tự mình tìm đường đi và phải chịu những rủi ro khi chính
sách khơng nhất qn. Khi chưa có chiến lược, chính sách tổng thể thì rất khó
mà phát triển được, rất dễ đi sai đường.
Quy hoạch phát triển công nghiệp phụ trợ cũng đã được phê duyệt nhưng
nội dung của nó vẫn cịn gây nhiều tranh cãi mà nếu chỉ dừng lại ở những văn
bản như vậy, khơng có những người tài giỏi để triển khai thì mãi mãi cũng
khơng phát triển được.


Chính phủ cũng chưa có những chính sách hấp dẫn thay cho lời kêu gọi
đầu tư nước ngoài vào ngành cơng nghiệp phụ trợ điện tử Việt Nam. Các chính
sách về thuế quan và thủ tục chưa minh bạch làm giảm sức hấp dẫn của mơi
trương đầu tư, chưa có những ưu đãi cần thiết giành cho các doanh nghiệp trong
nước hoạt động trong lĩnh vực này.
2.2.5. Hiện trạng phát triển công nghiệp phụ trợ ngành điện tử ở khu vực
Đông Á và bài học cho Việt Nam
Hiện nay công nghiệp phụ trợ cho các ngành công nghiệp điện tử chủ
yếu được phát triển ở khu vực Đông Á, đây là một trong những hình thức tổ
chức sản xuất cơng nghiệp đặc thù trong bối cảnh hội nhập rộng rãi và các quốc
gia công nghiệp mới (NICs) đang chuyển dịch mạnh mẽ các cơ sở sản xuất của
mình đến gần với thị trường tiêu thụ hơn.
Tại khu vực này đã hình thành một số các trung tâm lắp ráp các sản phẩm
điện tử lớn của khu vực trên cơ sở thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là từ Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Chẳng hạn như: Malaixia là một trung tâm sản xuất
lắp ráp trang thiết bị điện tử tin học viễn thông, Thái Lan là trung tâm sản xuất
lắp ráp trang thiết bị điện tử dân dụng, Philippin và Singapore là trung tâm phần
mềm điện tử tin học viễn thông.

Thông thường các quốc gia này bắt đầu từ cách thức lắp ráp dựa trên cơ
sở thu hút đầu tư FDI từ những tập đồn hoặc cơng ty nước ngồi. Lúc đầu
chính phủ các nước cũng có những u cầu bắt buộc đối với những tập đồn
hoặc cơng ty nước ngồi tăng cường tỷ lệ nội địa hố sản phẩm bằng cách
khuyến khích phát triển các cơ sở sản xuất phụ trợ ở nước sở tại và han chế
nhập khẩu bằng việc đánh thuế cao các loại hàng hố, linh kiện và phụ tùng
nhập khẩu.
Sau đó một thời gian, những bộ phận này khơng cịn duy trì được vì nó
làm giảm mức độ cạnh tranh và sự tự vận động của các doanh nghiệp trong


nước do đó làm cản trở dịng vốn nước ngồi đổ vào nước sở tại. Cùng với việc
tăng cường hội nhập quốc tế, hàng rào thuế quan bị dỡ bỏ, các quốc gia này
chuyển sang tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước liên kết
với các tập đoàn đa quốc gia nước ngoài để phát triển các cơ sở sản xuất các sản
phẩm phụ trợ nôi địa.
Tiếp đến một loạt các biện pháp được tiến hành định hướng cho sự phát
triển như: thành lập các tổ chức đầu ngành để làm cầu nối giữa khu vực tư nhân
và khu vực nhà nước, phối hợp và kết hợp lợi ích của các doanh nghiệp tư nhân
với nhau, xây dựng chính sách phát triển ngành đồng thời xây dựng và quản lý
việc thực hiện ngân sách và các dịch vụ dành cho khu vực kinh tế tư nhân, tăng
cường phát triển tiềm năng khoa học công nghệ quốc gia, phát triển hệ thống
khoa học công nghệ, xúc tiến hợp tác giữa các cơ quan tư nhân và nhà nước để
nghiên cứu khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực, cung cấp tài chính, đổi mới
cơ chế…Khuyến khích cao sự phát triển của công nghiệp phụ trợ dựa trên sự
ủng hộ của các tập đồn nước ngồi và chính phủ của họ.
• Kinh nghiệm phát triển cơng nghiệp phụ trợ của Thái Lan
Trong suốt những năm 1970, Thái Lan đã thực hiện chính sách khuyến
khích xuất khẩu cho ngành điện tử thơng qua chính sách về thuế cho xuất khẩu.
Sau thoả thuận Plaza năm 1985, Thái Lan phát triển nguồn điện, các khu công

nghiệp và các cơ sở hạ tầng khác đồng thời cải cách pháp luật bao gồm luật liên
quan đến tỷ lệ góp vốn để đảm bảo môi trường sản xuất kinh doanh của các
công ty nước ngồi. Do đó, một số lượng lớn các nhà đầu tư đã nhắm vào Thái
Lan và số lượng các nhà đầu tư nước ngoài vào Thái Lan tăng liên tục cho đến
giữa thập kỷ 90. Từ cơ sở này, bộ Công nghiệp Thái Lan đã tiến hành thực hiện
cải cách triệt để cơ cấu ngành công nghiệp và sự phát triển của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.


Trong ngành điện tử của Thái Lan, hầu như các doanh nghiệp sản xuất
linh kiện và các nhà lắp ráp khơng phụ thuộc vào nhau nhiều. Có nhiều cơng ty
nước ngoài sản xuất đồ điện tử gia dụng như ti vi, tủ lạnh, điều hoà, máy quay
phim, các thiết bị thơng tin… và có nhiều nhà sản xuất linh kiện cho các sản
phẩm điện tử nghe nhìn và các sản phẩm cho ngành công nghiệp thông tin và
viễn thông, tuy nhiên các doanh nghiệp này hoạt động một cách độc lập vối
nhau. Đồng thời số lượng các cơng ty tập trung vào sản xuất các sản phẩm điện
và cơ khí như máy in và các phụ kiện của nó có số lượng nhiều hơn các công ty
sản xuất các sản phẩm điện tử.
Năm 1998, viện điện và điện tử của Thái Lan được thành lập bởi bộ công
nghiệp với mục đích phục vụ cho lợi ích chung của ngành. Cơ quan này đóng
vai trị quan trọng đối với sự phát triển của ngành điện tử Thái lan. Ngoài chức
năng thiết lập các chính sách phát triển cho ngành thì viện Điện và điện tử giữ
một vai trò quan trọng trong việc tạo ra cầu nối giữa khu vực tư nhân và khu
vực nhà nước cũng như phối kết hợp lợi ích từ việc hợp tác giữa các công ty tư
nhân với nhau, điều này giúp cho các ngành công nghiệp phụ trợ điện tử có đinh
hướng rõ ràng trong quá trình phát triển.
Để phát triển các lĩnh vực cơng nghiệp thơng tin – sinh học, vật liệu, cơng
nghệ nano... chính phủ Thái Lan đã lập nên cơ quan chiến lược khoa học và
công nghệ quốc gia. Tại đây, các mối quan hệ hợp tác giữa Thái lan và Nhật
Bản được xúc tiến để cùng tạo ra các sản phẩm vật liệu mới phục vụ cho sự phát

triển các ngành công nghiệp trong nước.
Chính phủ Thái Lan rất chú ý tới việc đưa ra những chính sách khuyến
khích giành cho các nhà đầu tư nước ngoài nhằm đạt được sự cân bằng giữa các
công ty trong nước và các công ty nước ngồi đưa đến một mơi trường cạnh
tranh lành mạnh trong quá trình phát triển.


Gần đây Thái Lan đang tăng cường chính sách xúc tiến đầu tư vào ngành
cơng nghiệp phụ trợ có vốn FDI, chia thành những ngành ưu tiên đầu tư và
những ngành khuyến khích đầu tư. Những ngành khuyến khích đầu tư được
miễn giảm thuế môn bài trong một thời gian nhất định, miễn giảm thuế nhập
khẩu máy móc và cho phép cộng một phần tiền lỗ vào các chi phí đầu tư. Thái
Lan đã chọn ra ba ngành trọng điểm để tập trung phát triển là: ngành sản xuất
linh kiện vi điện tử, ngành thiết kế điện tử và ngành sản xuất phần mềm. Các
doanh nghiệp FDI chịu đầu tư vào các ngành này sẽ được hưởng nhiều ưu đãi
khi bán hàng trong nước. Công nghiệp phụ trợ trong lĩnh vực điện tử của Thái
Lan trở thành ngành rất có triển vọng, do vậy thu hút được rất nhiều sự đầu tư
của các tập đoàn điện tử lớn mạnh trên thế giới, đó là chính sách khơn ngoan
giúp phát triển ngành cơng nghiệp điện tử chính, tạo đà cho sự phát triển của
các ngành cơng nghiệp khác.


Kinh nghiệm phát triển công nghiệp phụ trợ của Malaixia

Thành công lớn nhất mà Malaixia đã làm được là dựa vào sự hấp thụ của
vốn nước ngồi để phát triển các ngành cơng nghiệp trong nước. Lúc đầu các
cơng ty nước ngồi đầu tư vào Malaixia với mục đích tận dụng được chi phí rẻ
nhờ vào chính sách khuyến khích đầu tư, nguồn nhân lực rẻ, các khu chế xuất
và hệ thống cơ sở hạ tầng thuận lợi. Hơn nữa hoạt động đầu tư phát triển không
ngừng trong suốt một thời gian dài dưới một nền chính trị ổn định, nhất quán và

minh bạch, thêm vào đó là khả năng giao tiếp tiếng Anh tốt và các điều kiện môi
trường thuận lợi đã biến Malaixia thành một trung tâm sản xuất công nghiệp
điện tử.
Các công ty sản xuất các sản phẩm và linh kiện điện tử ở Malaixia hầu hết là
các công ty của Nhật Bản, các cơng ty này đã có điều kiện thành lập các cụm
sản xuất sản phẩm linh kiện và đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của nước


này. Các cơng ty hình thành các cụm sản xuất này thường phụ thuộc lẫn nhau và
thu được lợi thế nhờ tập trung và chun mơn hóa.
Tổng cơng ty phát triển công nghiệp vừa và nhỏ của Malaixia (SMIDEC)
được thành lập nhằm giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể phát triển,
và với những nỗ lực marketing độc lập SMIDEC đã giúp cho các cơng ty trong
nước có điều kiện trở thành nhà cung cấp cho các công ty nước ngồi. Malaixia
chỉ có một số ít các cơng ty trong nước sản xuất các sản phẩm phụ trợ nhưng
vẫn có khả năng cung cấp cho các cơng ty nước ngồi
Chính phủ Malaixia rất chú trọng tới việc thiết lập các chương trình phát
triển để thúc đẩy các cơng ty có vốn đầu tư của người Malaixia quan hệ hợp tác
với các công ty của Nhật Bản nhằm phát triển ngành cơng nghiệp phụ trợ của
nước mình. Chương trình Vendor là một chương trình đặc biệt với ý nghĩa như
trên. Trong chương trình này các cơng ty lớn của nước ngoài liên kết với một
ngân hàng thương mại và các công ty cung cấp linh kiện phụ tùng, các cơng ty
nước ngồi được u cầu tạo ra một hoặc hai đối tác là các công ty địa phương
hàng năm. Chương trình này giúp tìm kiếm các nhà cung cấp trong nước có khả
năng cạnh tranh để liên kết với các cơng ty nước ngồi trong số các cơng ty chế
tạo các sản phẩm nhựa Plastics và trong số các công ty cung cấp phụ tùng
HDD .
Các hội nghị lớn được tổ chức thường xuyên với sự tham gia của các quan
chức chính phủ và các doanh nghiệp lớn nhằm đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển
của các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước cho thấy việc phát triển công

nghiệp phụ trợ ở Malaixia luôn được sự quan tâm trong chính sách phát triển
kinh tế của nước này.
• Bài học cho Việt Nam
Công nghiệp phụ trợ phát triển thuận lợi khi chính phủ có những tổ chức,
cơ quan đầu ngành hoạt động chuyên nghiệp trong việc phối hợp liên kết giữa


các doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm thúc đẩy phát triển ngành công
nghiệp này. Nhiệm vụ chủ yếu của những cơ quan này như: Xây dựng nhu cầu
phát triển, hỗ trợ trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp trong nước và các
doanh nghiệp nước ngoài, tăng cường năng lực quản lý và trình độ cơng nghệ
của các doanh nghiệp trong nước với sự trợ giúp của các doanh nghiệp nước
ngoài đồng thời hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực của các doanh nghiệp; xây
dựng, cung cấp các tiêu chuẩn và dịch vụ kiểm tra chất lượng, tiêu chuẩn an
tồn sản phẩm quốc gia...
Cơng nghiệp phụ trợ phát triển song song với việc phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ được sự bảo trợ cao của chính phủ nước sở tại cũng như của
các tập đoàn đa quốc gia và chính phủ của họ.
Để cơng nghiệp phụ trợ phát triển có kết quả cần thiết phải xây dựng được
cho mình một chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển cơng nghiệp, trong đó
đề ra được những mục tiêu và chính sách phát triển dài hạn, đề ra được các giải
pháp phát triển cụ thể, có luận cứ khoa học và thực tiễn, đồng thời lựa chọn phát
triển những lĩnh vực công nghiệp trọng điểm trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ
làm điểm tựa cho công nghiệp phụ trợ phát triển.
Sự thành công của việc phát triển công nghiệp phụ trợ cho một số ngành công
nghiệp trọng điểm ở các nước Thailand, Malaysia trong công nghiệp sản xuất
thiết bị điện, điện tử - viễn thông, thiết bị điện dân dụng... là kết quả của sự điều
tiết chuyển dịch cơ cấu sản xuất cơng nghiệp của chính phủ bằng các biện pháp
khuyến khích gián tiếp, nhờ sự hoạt động tích cực, cách phối hợp đồng bộ của
bộ máy quản lý Nhà nước trong đó ln lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Sự hỗ

trợ của các Chính phủ trong việc đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
ứng dụng, đổi mới và phát triển khoa học công nghệ cho các doanh nghiệp và
quan trọng nhất là các doanh nghiệp đã nhìn thấy lợi ích của cơng ty mình trong
phát triển dài hạn.


Thailand, Malaysia cố gắng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất
các linh kiện phụ trợ và đã có những chương trình liên kết kinh tế chặt chẽ giữa
các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước.

2.3. Đánh giá tiềm năng phát triển công nghiệp phụ trợ ngành điện tử
2.3.1. Xem xét bối cảnh phát triển công nghiệp phụ trợ của Việt Nam
2.3.1.1. Bối cảnh công nghiệp quốc gia
Việt Nam được các nhà kinh tế thế giới đánh giá là nước có nền kinh tế chính trị - xã hội ổn định và an toàn. Vào thời điểm hiện nay, yếu tố này thực sự
trở thành lợi thế lớn để hấp dẫn đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, Việt Nam thực hiện q trình cơng nghiệp hóa muộn hơn so với
khu vực và thế giới với 70% lao động trong khu vực nơng nghiệp cịn thiếu các
“thế hệ công nghiệp” để bắt nhịp nhanh với tác phong, ý thức và khả năng thực
thi q trình cơng nghiệp hóa. Trình độ cơng nghệ Việt Nam được đánh giá ở
mức trung bình kém. Cơng nghệ đa nguồn, đa xuất xứ, thiếu đồng bộ là một đặc
thù lớn của nền công nghiệp. Nếu so sánh với các quốc gia châu Á thì trình độ
cơng nghệ của Việt Nam hiện nay tương đương với Trung Quốc vào những năm
80, Malaysia những năm 70, Hàn Quốc những năm 60 và Nhật Bản những năm
20 của thế kỷ trước. Đồng thời do công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường đang
trở thành một vấn đề kinh tế xã hội phức tạp. Phát triển công nghiệp đã đến lúc
phải được đặt song song với việc xử lý ô nhiễm môi trường, điều này đang làm
tăng chi phí đầu tư, gây sức ép lớn lên các nguồn lực tài chính.
Sức cạnh tranh của hàng cơng nghiệp Việt Nam thấp, phần lớn là sản xuất
gia công, chưa hình thành các hiệp tác sản xuất khu vực và quốc tế. Sản phẩm



×