Tải bản đầy đủ (.docx) (135 trang)

Sử dụng bản đồ điện tử nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử việt nam giai đoạn 1945 1954, lớp 12 trường trung học phổ thông (chương trình chuẩn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.87 KB, 135 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

---------



----------

BÙI THỊ KHÁNH LY

SỬ DỤNG BẢN ĐỒ ĐIỆN TỬ NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 1945 – 1954, LỚP 12 TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ

Mã số: 60 14 10

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRỊNH ĐÌNH TÙNG

HÀ NỘI - 2012


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, với xu thế phát triển của thời đại thông tin và công nghệ, giáo
dục có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh t ế - xã hội. Từ đaịhôịVI của


Đảng các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương II khóa VIII đã xác

đinh::̣ “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục

- đào tạo, khắc phucc̣ lối

truyền thu c̣môṭ chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học ”. Chính vi
lẽ đó, trong những năm gần đây cónhững thay đổi manḥ me ̃theo hướng áp
dụng các phương pháp tiên tiến , phương tiêṇ hiêṇ đaị vào quá trinh d ạy học,
đảm bảo điều kiêṇ thời gian tư h:̣ oc:̣ , tư :̣nghiên cứu cho HS và phùhơp:̣ với
từng môn hoc:̣.
Đổi mới phương pháp d ạy học làyêu cầu bắt buôc:̣ đối với ngành giáo
dục nói chung và GV nói riêng đ ể đáp ứng được yêu cầu của giáo dục trong
thời đại mới, không chỉ là truyền thụ kiến thức đơn thuần đến HS mà quan
trọng hơn phải phát huy tinh́ tich́ cưc:̣ chủđông:̣ sáng taọ của HS trong h ọc tập.
Đặc biệt đối với bộ môn Lịch sử, khi vẫn còn nhiều quan niệm cho rằng: Lịch
sử là môn phụ; chỉ cần học thuộc sự kiện, không cần tư duy sáng tạo, học
Lịch sử không phục vụ nhiều cho cuộc sống... thi yêu cầu dạy học để khơi dậy
sự hứng thú của HS là vô cùng quan trọng.
Với đặc trưng cơ bản của kiến thức lịch sử là mang tính quá khứ, tính
cụ thể, tính không lặp lại… song quá trinh nhận thức nói chung, nhận thức
trong học tập lịch sử của HS nói riêng tuân theo quy luật: “Từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”, nên trong
dạy học Lịch sử ở trường phổ thông nguyên tắc trực quan là nguyên tắc tối
cần thiết. Nguyên tắc này được thể hiện rõ nét nhất thông qua phương pháp sử
dụng đồ dùng trực quan. Có thể nói, đồ dùng trực quan là “cầu nối” sinh động
giữa hiện tại với quá khứ lịch sử.

1



Trong hệ thống đồ dùng trực quan của bộ môn Lịch sử ở trường phổ
thông hiện nay, bản đồ là một trong những loại đồ dùng trực quan quy ước
phổ biến nhất. Cùng với những thành tựu của công nghệ thông tin ứng dụng
trong dạy học, nâng cao hiệu quả của việc sử dụng bản đồ và tạo ra những bản
đồ điện tử có khả năng ứng dụng cao. Bản đồ điện tử không chỉ giúp người
học xác định địa điểm của sự kiện trong thời gian và không gian nhất định,
giúp những sự kiện đó trở nên sinh động hơn, trên cơ sở đó người học suy
nghĩ, giải thích các hiện tượng lịch sử về mối liên hệ nhân quả, về tính quy
luật và trinh tự phát triển của quá trinh lịch sử và củng cố kiến thức đã học.
Mặt khác, việc lưu giữ hinh ảnh, sử dụng BĐĐT cũng khá đơn giản và thuận
tiện khi có sự hỗ trợ của CNTT. Những trên thực tế trong các trường phổ
thông hiện nay việc sử dụng bản đồ điện tử kết hợp với bài giảng vẫn còn hạn
chế: chủ yếu là giáo viên sử dụng luôn những bản đồ có sẵn trong sách giáo
khoa, không cần tốn thời gian sưu tầm, chỉnh sửa… Tuy nhiên, do giới hạn
của khổ giấy nên kích thước bản đồ nhỏ, khó theo dõi chung cả lớp, và khó
thu hút sự chú ý của học sinh. Vi vậy, để bài giảng lịch sử sinh động, hấp dẫn,
giúp người học có những biểu tượng sinh động, cụ thể về các sự kiện, hiện
tượng lịch sử, trong quá trinh dạy học, giáo viên cần sưu tầm, sử dụng đa
dạng hơn các loại bản đồ, đặc biệt là bản đồ điện tử với những hiệu ứng sinh
động để phát huy được thế mạnh, hiệu quả của nó trong dạy học Lịch sử, làm
cho giờ học sinh động, hấp dẫn, tạo được sự hứng thú cho người học và từ đó,
hiệu quả học tập sẽ được nâng lên rõ rệt. Chính vi vậy tôi xin mạnh dạn
nghiên cứu đề tài: “Sử dụng bản đồ điện tử nhằm năng cao chất lượng dạy
học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954 lớp 12 ở trường THPT
(chương trình chuẩn)” để đưa ra những biện pháp sử dụng bản đồ điện tử
hợp lý, giúp GV nâng cao chất lượng bài giảng và phát huy tính tích cực, sáng
tạo của học sinh trong học tập lịch sử.

2



2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
* Nguồn tài liệu của các nhà giáo dục học và giáo dục lịch sử ở nước ngoài:

Đầu tiên phải kể đến nhà giáo dục lịch sử Liên Xô (cũ) - N. G. Đairi
với công trinh: Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào? (Đặng Bích Hà và
Nguyễn Cao Lũy dịch “Chương 1: Những yêu cầu quan trọng nhất của giờ
học và của việc chuẩn bị giờ học”, Nxb GD, H, 1973). Trong cuốn sách dịch
này, ở phần III – “Tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh” (chiếm phần
lớn dung lượng của sách, tác giả nhấn mạnh đến hoạt động nhận thức độc lập
của người học: bản chất của hoạt động độc lập của học sinh, biểu hiện của
hoạt động độc lập của học sinh; các biện pháp tổ chức hoạt động độc lập của
học sinh trong dạy học lịch sử).
Cuốn “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào” của
I.F.Kharlamôp (Nguyễn Thị Trang và Nguyễn Ngọc Quang dịch, Nxb GD, H,
1978) đã đề cập tới những biện pháp nhằm kích thích hoạt động nhận thức cua
học sinh khi trinh bày bài mới, khi củng cố kiến thức, khi ôn tập tài liệu đã
học và khi tổ chức công tác tự học cho học sinh..
Cuốn “Các phương pháp dạy học hiệu quả” của nhóm tác giả Robert J.
Marzano, Debra J. Pickering, Jane E. Pollock (Hồng Lạc dịch, Nxb GD, TP
HCM, 2005) gồm 13 chương trong đó từ chương 2 đến chương 10 trinh bày
các phương pháp dạy học dựa trên các công trinh nghiên cứu giáo dục ở Mỹ
tương ứng với 9 phương pháp dạy học có hiệu quả. Sách gợi mở cho độc giả
các phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học.
* Tài liệu của các nhà giáo dục học ở trong nước
Giáo trinh “Giáo dục học” của Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt (Tập 1,
Nxb GD, H, 1987) có đề cập đến các phương pháp, hinh thức tổ chức dạy học
phát huy tính tích cực của học sinh.
Bài viết “Dạy học cá biệt – một biện pháp nâng cao tính tích cực”

(Đặng Hữu Gia, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 3/1998) đã đề cập đến dạy

3


học theo xu hướng cá biệt hóa có vai trò lớn trong phát huy tính tích cực học
tập của học sinh.
Bài viết “Phương pháp dạy học tích cực” của GS. TS Trần Bá Hoành
(Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 4/2000) đã phác thảo bức tranh tổng quát về
phương pháp dạy học tích cực.
TS Đặng Thành Hưng trong cuốn “Dạy học hiện đại: lí luận – biện
pháp – kĩ thuật” (Nxb ĐHQG, H, 2002) đề cập đến nhiều vấn đề của lí luận
dạy học hiện đại, trong đó có lí luận, biện pháp, và kĩ thuật phát huy tính tích
cực học tập của học sinh.
Nguồn tài liệu của các nhà giáo dục trong và ngoài nước dù không liên
quan trực tiếp đến vấn đề sử dụng bản đồ nhưng có vai trò quan trọng trong
định hướng việc phát huy tính tích cực của HS khi vận dụng cụ thể qua
phương tiện trực quan là bản đồ mà đề tài nghiên cứu, áp dụng.
* Tài liệu của các nhà phương pháp dạy học Lịch sử Việt Nam
Có thể khẳng định rằng, việc sử dụng đồ dùng trực quan nói chung và
việc sử dụng bản đồ trong dạy học lịch sử nói riêng luôn được các nhà giáo
dục Việt Nam quan tâm từ lâu. Cho đến nay, tác giả đã tiếp cận được những
công trinh, bài viết chủ yếu liên quan đến đề tài như sau:
Trước hết là cuốn: “Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử” (Nxb
Giáo dục, H, 1975) của tác giả Phan Ngọc Liên, Phạm Kỳ Tá đã đề cập khá
căn bản về phân loại phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan có tính chất phổ
biến trong dạy học Lịch sử, trong đó, cách sử dụng các loại bản đồ được đề
cập khá sâu sắc. Tuy nhiên, vi xuất bản từ những năm 70 của thé kỉ XX, do
điều kiện cụ thể lúc đó, phần ứng dụng các phương tiên kĩ thuật trong dạy học
lịch sử còn chưa được sách đề cập đến.

Giáo trinh “Bản đồ giáo khoa (sách dùng cho sinh viên khoa Lịch sử)”
của tác giả Lâm Quang Dốc (Nxb ĐHSP, H, 1997) đã đề cập những vấn đề cơ
bản về khái niệm, đặc điểm, tính chất, cách sử dụng và xây dựng các loại bản

4


đồ trong dạy học Lịch sử. Tuy nhiên, giáo trinh do tác giả là chuyên gia bản
đồ học của khoa Địa lý viết nên vấn đề phương pháp sử dụng bản đồ lịch sử
còn chưa được phân tích sâu sắc, còn thiếu yếu tố lịch sử, nhiều khi “quá
nặng” về bản đồ học của khoa học Địa lý.
Tiếp theo, phải kể đến các “đời” giáo trinh phương pháp dạy học lịch
sử: giáo trinh “Phương pháp dạy học Lịch sử” (Nxb ĐHSP, H, tái bản lần thứ
nhất, 1998) của Trần Văn Trị và Phan Ngọc Liên; giáo trinh “Phương pháp
dạy học Lịch sử” (2 tập, Nxb ĐHSP, H, 2002 và tái bản có sửa chữa năm
2009) của nhóm tác giả Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đinh Tùng, Nguyễn
Thị Côi đã dành dung lượng khá lớn đề cập đến biện pháp sử dụng đồ dùng
trực quan trong dạy học lịch sử, trong đó có cách sử dụng các loại bản đồ
thông thường; giáo trinh “Hệ thống phương pháp dạy học Lịch sử ở trường
trung học cơ sở” (Nxb ĐHSP, H, 2005) do PGS.TS Trịnh Đinh Tùng chủ biên
đề cập đến hệ thống đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử khá chi tiết, đầy
đủ gồm hệ thống các đồ dùng trực quan truyền thống và hệ thống đồ dùng
trực quan hiện đại.
Trong đề tài cấp Bộ “Bản đồ lịch sử cải cách giáo dục ở trường phổ
thông” mã số B93 – 24 – 1C – 53) do PGS. TS Trịnh Đinh Tùng chủ nhiệm,
các tác giả đã đề cập một cách căn bản cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của vấn
đề sử dụng một số loại bản đồ lịch sử. Tuy nhiên sách mới dùng lại ở nêu nội
dung chính, một số hướng dẫn sử dụng bản đồ dạy học lịch sử giai đoạn trước
1945 của lịch sử Việt Nam.
Các sách bồi dưỡng thường xuyên chi GV lịch sử THPT hoặc các tài

liệu bồi dưỡng thay sách giáo khoa lớp 10, 11, 12 THPT đều đề cập đến
nguyên tắc chung về sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
Bài viết “Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử theo hướng phát huy
tính tích cực của học sinh” của PGS. TS Trịnh Đinh Tùng trong cuốn “Đổi

5


mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông (một số chuyên đề)” do
GS. TS Phan Ngọc Liên chủ biên (Nxb ĐHSP, H, 2005) đã phản ảnh một cách
toàn diện về quan niệm tính tích cực học tập của học sinh trong dạy hoc lịch
sử, về đặc điểm của quá trinh dạy học lịch sử trong mối liên hệ với việc phát
huy tính tích cực của học sinh, về các biện pháp chủ yếu nhằm phát huy tính
tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử.
Bài viết “Thiết kế và sử bản đồ giáo khoa điện tử trong dạy học lịch sử


trường phổ thông” của GS. TS Nguyễn Thị Côi và Đoàn Văn Hưng trong

Tạp chí Thiết bị Giáo dục số 35- 2008 đã đưa ra một số yêu cầu cơ bản của
việc thiết kế bản đồ giáo khoa điện tử trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông đồng thời thiết kế và sử dụng bản đồ giáo khoa điện tử trong dạy học
bài “Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội miền Bắc, giải phóng hoàn toàn
miền Nam (1973 -1975)” – lớp 12. Từ đó, phát huy năng lực ứng dụng CNTT
của GV và HS trong việc khắc phục những khó khăn về thiết bị dạy học và
đáp ứng kịp thời, hiệu quả những yêu cầu dạy học của bộ môn.
*

Các luận văn về phương pháp dạy học lịch sử


Luận văn thạc sĩ “Thử nghiệm một loại bản đồ giáo khoa lịch sử treo
tường” của học viên Đoàn Văn Hưng (ĐHSP, H, 1998) đã phân tích cụ thể về
quan niệm, vai trò, ý nghĩa, biện pháp sử dụng, cách thức xây dựng của một
dạng bản đồ treo tường thử nghiệm trong dạy học Lịch sử.
Luận văn thạc sĩ “Sử dụng bản đồ giáo khoa treo tường theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1945 –
1954 ở trường THPT tỉnh Sơn La (chương trình chuẩn)” - 2009 của học viên
Nguyễn Phùng Tám đã nghiên cứu toàn diện về quan niệm đặc điểm, vai trò
biện pháp sử dụng của các bản đồ giáo khoa treo tường trong dạy học Lịch sử
Việt Nam trong giai đoạn 1945 – 1954.
Khóa luận tốt nghiệp ngành SP Lịch sử trường Đại học Giáo dục - Đại
học Quốc gia Hà Nội năm 2011 “Xây dựng và sử dụng bản đồ điện tử trong

6


dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 12 (chương trình chuẩn) với sự hỗ trợ của phần
mềm Macromedia flash 8.0” của Nguyễn Thị Nụ đã khái quát đặc điểm, yêu
cầu và quy trinh sử dụng chung của BĐĐT, trên cơ sở đó ứng dụng phần mềm
mới để thiết kế hai BĐĐT về chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947 và
chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950, sử dụng trong DHLS rất hiệu quả.
3.

Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trinh sử dụng BĐĐT trong dạy

học Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 – 1954 (Lịch sử lớp 12, chương trinh
chuẩn) nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
4.


Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

4.1. Mục đích
Đề xuất các biện pháp sử dụng BĐĐT nhằm nâng cao chất lượng dạy
học lịch sử Việt Nam) giai đoạn 1945 – 1954 lớp 12 ở trường THPT (chương
trinh chuẩn).
4.2. Nhiệm vụ
-

Tim hiểu cơ sở lý luận của vấn đề sử dụng BĐĐT nhằm nâng cao chất

lượng dạy học Lịch sử ở trường THPT.
-

Điều tra thực trạng việc sử dụng BĐĐT nhằm nâng cao chất lượng

dạy học Lịch sử ở trường THPT.
-

Nghiên cứu mục tiêu, nội dung Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 –

1954 Lịch sử lớp 12, chương trinh chuẩn.
- Đề xuất các biện pháp pháp sử dụng BĐĐT nhằm nâng cao chất
lượng dạy học lịch sử Việt Nam) giai đoạn 1945 – 1954 lớp 12 ở trường
THPT (chương trinh chuẩn).
-

Tiến hành thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi, tính đúng


đắn của đề tài nghiên cứu.
5.

Phạm vi nghiên cứu

7


Các biện pháp pháp sử dụng BĐĐT nhằm nâng cao chất lượng dạy học
lịch sử Việt Nam) giai đoạn 1945 – 1954 lớp 12 ở trường THPT (chương trinh
chuẩn) áp dụng cho bài nghiên cứu kiến thức mới và tiến hành thực nghiệm
sư phạm nội dung một tiết học cụ thể ở trường THPT Hà Nội.
6.

Phƣơng pháp nghiên cứu
-

Nghiên cứu tác phẩm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, của Hồ Chí Minh,

các văn kiện của Đảng, Nhà nước ta bàn về nhận thức, về giáo dục nói chung
và giáo dục lịch sử nói riêng.
-

Nghiên cứu các công trinh của các nhà giáo dục, các nhà giáo dục lịch

sử và các tài liệu khác.
-

Nghiên cứu hệ thống các BĐĐT cùng những phầm mềm ứng dụng cơ


bản (PowerPoint, Plash 7.0,…) trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945
– 1954 hiện có cả về nội dung lịch sử và hinh thức của BĐ.
-

Phương pháp điều tra: kết hợp cả hai dạng điều tra cơ bản và điều tra

xã hội học.
-

Phương pháp thực nghiệm sư phạm toàn phần ở một số trường THPT

có tính điển hinh trong cụm Ba Đinh – Tây Hồ (Hà Nội).
7.

Giả thuyết khoa học
Trong dạy học Lịch sử ở nhà trường THPT, nếu có được các biện pháp

sử dụng BĐĐT theo đúng những yêu cầu mà luận văn đưa ra sẽ là một trong
những biện pháp quan trọng nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử nói chung
và Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954 lớp 12 ở trường THPT nói riêng.
8.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

8. 1.

Ý nghĩa khoa học
Luận văn làm phong phú thêm lý luận phương pháp dạy học lịch sử nói

chung, lý luận sử dụng BĐĐT nói riêng nhằm nâng cao chất lượng dạy học

lịch sử ở trường THPT.
8. 2.

Ý nghĩa thực tiễn

8


- Là tài liệu tham khảo có giá trị thực tiễn cao đối với sinh viên ngành
sư phạm lịch sử trong quá trinh học tập môn Lý luận và phương pháp dạy học
Lịch sử.
- Là tài liệu tham khảo thiết thực cho GV Lịch sử ở các trường phổ
thông.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, về nội dung
đề tài gồm hai chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng bản đồ điện tử
trong dạy học lịch sử ở trường THPT
Chương II: Các biện pháp sử dụng bản đồ điện tử nhằm nâng cao chất
lượng dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945- 1954 lớp 12 trường THPT
(chương trinh chuẩn). Thực nghiệm sư phạm

9


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG BẢN
ĐỒ ĐIỆN TỬ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC

PHỔ THÔNG

1.1. Cơ sở lí luận của đề tài
1.1.1. Mục tiêu của bộ môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông
Theo “Chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử” do Bộ Giáo dục
và Đào tạo ban hành năm 2006, về mục tiêu tổng quát, “nhằm giúp học sinh
có được những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế
giới; góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng
yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các
năng lực tư duy, hành động, thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội”
[1,tr. 5]. Các mục tiêu cụ thể của môn Lịch sử ở trường phổ thông được thể
hiện trên ba phương diện.
Về kiến thức:
-

Biết được các sự kiện lịch sử tiêu biểu, những bước phát triển chủ yếu,

những chuyển biến quan trọng của lịch sử thế giới từ thời nguyên thủy đến
nay. Chú trọng đến những nội dung quan trọng nhất để hiểu biết về quá trinh
phát triển của lịch sử loài người, những nền văn minh, những mô hinh xã hội
tiêu biểu, lịch sử của các nước trong khu vực và các sự kiện lịch sử thế giới có
ảnh hưởng lớn, liên quan đến lịch sử nước ta.
- Hiểu rõ quá trinh phát triển của lịch sử dân tộc từ nguồn gốc đến nay,
trên cơ sở nắm vững những sự kiện tiêu biểu từng thời ki, những chuyển biến
lịch sử và sự phát triển hợp quy luật của lịch sử dân tộc trong sự phát triển
chung của thế giới.
- Hiểu biết về một số nội dung cơ bản, cần thiết về nhận thức xã hội
như: kết cấu xã hội loài người, mối quan hệ giữa các yếu tố trong cơ cấu hệ

10



thống xã hội, vai trò to lớn của sản xuất (vật chất, tinh thần) trong tiến trinh
lịch sử, vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân, nguyên nhân và động lực
tạo ra các chuyển biến lịch sử, quy luật vận động của lịch sử…
Về kĩ năng:
-

Hinh thành các kĩ năng cần thiết trong học tập bộ môn như:

+

Xem xét các sự kiện lịch sử trong các quan hệ thời gian, không gian.

+

Làm việc với sách giáo khoa và các nguồn sử liệu.

+

Phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát, đánh giá các sự kiện, hiện

tượng, nhân vật lịch sử.
-

Bồi dưỡng năng lực phát hiện, đề xuất và giải quyết các vấn đề trong

học tập lịch sử (từ kĩ năng điều tra, thu thập, xử lý thông tin…, đến kĩ năng
vận dụng kiến thức đã học vào tiếp thu kiến thức mới và vận dụng vào thực
tiễn cuộc sống…).
-


Hinh thành năng lực tự học, tự làm giàu tri thức lịch sử cho học sinh

thông qua các nguồn sử liệu khác nhau (đã có và phát hiện mới).
Về tinh cảm, thái độ, tư tưởng:
-

Có tinh yêu quê hương, đất nước gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội,

lòng tự hào dân tộc, có thái độ trân trọng đối với các di sản trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc.
-

Trân trọng nền văn hóa của các dân tộc trên thế giới, có tinh thần

quốc tế chân chính, vi hòa binh, tiến bộ xã hội.
-

Có niềm tin và sự phát triển từ thấp đến cao, từ lạc hậu đến văn minh

của lịch sử nhân loại và lịch sử dân tộc.
-

Có những phẩm chất cần thiết của người công dân: thái độ tích cực

trong việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đất nước – cộng đồng; yêu
lao động; sống nhân ái, có kỉ luật, tôn trọng và làm theo pháp luật, có tinh
thần đoàn kết và đoàn kết quốc tế cao…

11



Để thực hiện mục tiêu của môn Lịch sử nêu trên và nâng cao chất lượng
dạy và học môn Lịch sử ở trường THPT, cần tiến hành tổng thể các biện pháp.
Trong đó, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử theo hướng phát huy tính tích
cực của học sinh là một trong những biện pháp hành đầu, có vai trò quyết
định.
1.1.2. Đặc điểm của kiến thức lịch sử.
Kiến thức lịch sử mang tính quá khứ: Lịch sử là một một môn học đặc
thù, kiến thức lịch sử là những gi đã diễn ra trong quá khứ. Đặc trưng cơ bản
của môn Lịch sử là đi nghiên cứu tim hiểu từ xa đến gần, từ quá khứ đến hiện
tại, từ phức tạp đến đơn giản... Chính vi thế nhiệm vụ của dạy học lịch sử là
khôi phục lại bức tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng
nó vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Trong việc khôi phục lại bức
tranh quá khứ một cách sinh động, phương tiện trực quan là một yếu tố hết
sức cần thiết. Để đảm bảo nguyên tắc trực quan trong dạy học lịch sử, GV
phải tạo được các biểu tượng lịch sử chân thực không những bằng ngôn ngữ
mà phải kết hợp với các phương tiên phi ngôn ngữ khác, trong đó không thể
không kể đến ĐDTQ mà BĐĐT là một trong những ĐDTQ quy ước tiêu biểu
và hiện đại nhất.
Kiến thức lịch sử mang tính không lặp lại. Mọi sự kiện, hiện tượng lịch
sử đều gắn với không gian, thời gian, nhân vật... nhất định nên nhin chung
kiến thức lịch sử mang tính không lặp lại. Nếu có sự “lặp lại” thi cũng là sự
lặp lại trên cơ sở sự kế thừa, phát triển. Đặc điểm này đặt ra yêu cầu: dạy học
Lịch sử phải xem xét tính cụ thể cả về thời gian, không gian, nhân vật... làm
nảy sinh, tác động đến sự kiện.
Kiến thức lịch sử mang tính cụ thể được biểu hiện ở mỗi sự kiện, hiện
tượng lịch sử đều gắn với những không gian, thời gian, nhân vật... riêng; lịch
sử của mỗi nước, mỗi dân tộc, vùng miền... có diện mạo riêng; tiến trinh phát
triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc không giống nhau... Vi vậy, dạy học Lịch


12


sử càng cụ thể bao nhiêu, càng sinh động bao nhiêu thi càng hấp dẫn bấy
nhiêu. Về mặt phương tiện dạy học Lịch sử, thực hiện yêu cầu này, hệ thống
các ĐDTQ nói chung, BĐĐT nói riêng phải đầy đủ và sinh động. Trong quá
trinh thực hiện một bài học nội khóa, sử dụng BĐĐT lịch sử là một trong
những biện pháp có ưu thế hàng đầu trong việc hinh thành ở HS những biểu
tượng lịch sử về không gian địa lý – nơi diễn ra các sự kiện lịch sử một cách
chân thực, sinh động nhất đặc biệt trong điều kiện mới với sự ứng dụng hiệu
quả của CNTT.
Kiến thức lịch sử mang tính hệ thống (tính lôgíc lịch sử). Về mặt
phương pháp luận, khái niệm lịch sử được hiểu ở hàm nghĩa thứ nhất là bao
gồm tất cả những gi đã diễn ra trong xã hội loài người trên mọi phương diện;
kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự… SGK Lịch sử ở trường phổ thông dù
tinh giản song cũng phải bao quát được các mặt đó. Những nội dung kiến thức
lịch sử này có mối quan hệ ngang dọc, trước sau phức tạp. Tùy từng mức độ
cụ thể, dạy học Lịch sử ở trường phổ thông phải có được tư duy lôgic, biện
chứng. Do vậy, trong dạy học Lịch sử, GV cần phát triển tính tích cực của HS
mà cao nhất là phát triển tư duy độc lập của các em.
Ngoài các đặc điểm trên, kiến thức lịch sử mang tính thống nhất giữa
“sử” và “luận”. Yếu tố “sử” bao gồm những sự kiện, hiện tượng lịch sử đã
diễn ra, được khoa học xác minh, thuộc về hiện thực khách quan, tồn tại độc
lập với ý thức của con người. Bên cạnh đó, yếu tố “luận” kinh nghiệm… trên
cơ sở yếu tố “sử”. Tính thống nhất giữa “sử” và “luận” biểu hiện ở chỗ; mọi
nhận xét, đánh giá, binh luận… phải trên cơ sở hiện thực khách quan. Chỉ có
đứng trên lập trường mácxít – lêninnít, trên lập trường của giai cấp công nhân
mới đảm bảo tính thống nhất này. Mặt khác, yếu tố “luận” tạo điều kiện để
phát triển tư duy HS. Nó chứng tỏ rằng, học tập lịch sử không phải nhớ một
cách máy móc mà rất cần tư duy, trí thông minh của HS.


13


Trong dạy học Lịch sử, tùy trinh độ nhận thức của HS, GV không dừng


mức độ tái hiện bức tranh lịch sử khách quan một cách đơn thuần mà trên

cơ sở bức tranh hiện thực khách quan đó, GV phải hướng HS rút ra những
nhận xét, đánh giá, binh luận… xác đáng, hữu ích. Thực hiện yêu cầu này, bên
cạnh việc quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, của Đảng, Nhà nước về nhận thức, về giáo dục và giáo dục lịch sử còn
đòi hỏi ở người GV lịch sử phải phát huy tính tích cực của HS, phải định
hướng tư duy HS.
Những đặc điểm trên đây quy định con đường hinh thành kiến thức lịch
sử cho HS được thực hiện thông qua việc cung cấp sự kiện, tạo biểu tượng,
hinh thành khái niệm, nêu quy luật, rút ra bài học kinh nghiệm lịch sử cho
hiện tại và tương lai. Để thực hiện tốt con đường này trong dạy học Lịch sử,
người GV cần thiết phải sử dụng ĐDTQ nói chung, BĐĐT nói riêng khi có sự
đảm bảo của điều kiện vật chất trường lớp.
1.1.3. Đặc diểm tâm lý của học sinh trung học phổ thông


lứa tuổi này, do sự phát triển và hoàn thiện dần về trí tuệ và thể chất,

dẫn đến những thay đổi lớn về tâm lý và sự định hinh nhân cách. Trong đó
tâm lý muốn trở thành người lớn và năng lực tích cực, độc lập suy nghĩ là đặc
điểm chủ đạo. Nếu như HS trung học cơ sở về nhận thức mới dừng lại ở nhận
thức cảm tính thi đến THPT (nhất là HS lớp 12), nhận thức lý tính ngày càng

biểu hiện rõ nét và đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động nhận thức. Nét độc
đáo là học sinh THPT luôn có xu hướng tiếp xúc với các môn khoa học, thích
tim hiểu và khám phá những kiến thức mới, đặc biệt là sự thích ứng rất nhanh
với công nghệ thông tin mới. Vi vậy, với những phương pháp dạy học mới
hay những phương tiện học tập mới sẽ thu hút được sự hứng thú nhiều hơn từ
học sinh.

14


Đặc biệt, với học sinh lứa tuổi THPT ở thủ đô, với sự quan tâm tạo điều
kiện của gia đinh và sự phát triển chung của hạ tầng đô thị. Việc ứng dụng
CNTT trong học tập và đời sống là một nhu cầu tất yếu của mỗi học sinh.
1.1.4. Đặc điểm nhận thức của học sinh trong học tập Lịch sử.
Nhận thức trong học tập Lịch sử tuân theo quy luật: “Từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Tuy nhiên,
do kiến thức lịch sử có những đặc trưng riêng với tính quá khứ, tính không lặp
lại, tính cụ thể… nên quá trinh nhận thức lịch sử mang những độc đáo so với
quá trinh nhận thức của các môn học khác. Sự khác biệt này thể hiện lớn nhất


chỗ, giai đoạn trực quan trong nhận thức lịch sử là quá trinh HS tiếp xúc với

tri thức lịch sử một cách gián tiếp qua các nguồn tài liệu và ĐDTQ, chứ các
em không thể “trực quan sinh động” quá khứ lịch sử. Trên cơ sở đó, giai đoạn
trừu tượng là giai đoạn mà HS thông qua các thao tác tư duy của minh để nắm
vững bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử, hệ thống các khái niệm và rút
ra quy luật, bài học (nếu có). Giai đoạn cuối cùng của nhận thức những kiến
thức lịch sử là giai đoạn vận dụng những hiểu biết lịch sử vào nhận thức
những kiến thức mới, cao hơn là để cải tạo cuộc sống.

Như vậy, trong các giai đoạn của quá trinh nhận thức lịch sử, giai đoạn
trực quan đóng vai trò khởi đầu cho cả quá trinh. Để thực hiện giai đoạn nhận
thức này trong dạy học Lịch sử, GV và HS cần phải sử dụng ĐDTQ, BĐĐT.
1.1.5. Xu hướng đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Thực tế cho thấy, trong công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay, đổi mới
phương pháp dạy học luôn là yêu cầu hàng đầu, mang tính đột phá. Bên cạnh
một số thành tựu đã được khẳng định, sự nghiệp đổi mới phương pháp dạy
học vẫn còn nhiều hạn chế, còn chậm đổi mới sơ với thực tế, hiệu quả đổi mới
chưa đồng bộ, đặc biệt “chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của
người học. Giáo dục – đào tạo chưa kết hợp được với lao động sản xuất, nhà
trường chưa gắn liền với gia đình và xã hội”.

15


Bản chất của đổi mới phương pháp dạy học đã được Nghị quyết Trung
ương II khóa VIII chỉ rõ là phải: “khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn
luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các
phương pháp dạy học tiên tiến vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và
thời gian tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất
là thanh niên”. Với định hướng này, hiện nay, xu hướng đổi mới phương pháp
dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử nói riêng là xu
hướng chuyển từ mô hinh dạy học lấy “giáo viên làm trung tâm” sang mô
hinh dạy học “lấy học sinh làm trung tâm”. Thực chất của dạy học “lấy học
sinh làm trung tâm” chính là phát huy một cách cao nhất tính tích cực, chủ
động của học sinh trong học tập.
Trong thời đại “bùng nổ thông tin” như hiện nay, đổi mới phương pháp
dạy học bằng công nghệ thông tin (CNTT) được xem là một chủ đề lớn được
UNESCO chính thức đưa ra thành chương trinh hành động trước ngưỡng cửa
thế kỷ XXI. Trong thập niên cuối của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ

này, nắm bắt kịp thời xu thế tất yếu của thời đại, Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm đến vấn để ứng dụng CNTT trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong đó có giáo dục. Vi vậy, việc ứng dụng CNTT trong dạy học Lịch sử
cũng là một yêu cầu cấp thiết. Từ đó, việc tạo ra những bản đồ điện tử trong
dạy học lịch sử là cách tốt nhất để thu hút sự hứng thú của học sinh và nâng
cao chất lượng dạy và học Lịch sử với những nội dung phù hợp.
1.1.6. Quan niệm về bản đồ điện tử trong dạy học Lịch sử ở trường trung
học phổ thông
1.1.6.1. Quan niệm về bản đồ trong dạy học lịch sử ở trường THPT
Xuất phát từ mục tiêu sử dụng trong dạy học Địa lý và Lịch sử,
U.C.Bilich và A.C. Vasmuc đã định nghĩa: “Bản đồ giáo khoa là những bản
đồ sử dụng trong mục đích giáo dục, chúng cần thiết cho việc giảng dạy và
học tập ở tất cả các cơ sở giáo dục dưới mọi hình thức, tạo nên một hệ thống

16


giáo dục cho tất cả các tầng lớp dân cư từ học sinh đến việc đào tạo chuyên
gia”. Định nghĩa này cho chúng ta quan niệm khá diện và đúng đắn về BĐGK.
Nội hàm đặc trưng nhất mà định nghĩa nhấn mạnh là nêu rõ mục đích của
BĐGK là phục vụ cho việc giảng dạy và học tập ở ngành giáo dục gồm tất cả
các cấp bậc giáo dục, từ giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp đến giáo
dục đại học, dưới mọi hinh thức (bao gồm cả hinh thức nội khóa và hinh thức
ngoại khóa).
Từ quan niệm như trên, BĐGK có những đặc trưng, tính chất chủ yếu
sau đây:
Một là, tính khoa học. Tính khoa học của BĐGK trước hết và trên hết
thể hiện ở tính chính xác của cơ sở toán học. Cơ sở toán học của BĐ chủ yếu
bao gồm hệ thống lưới chiếu đồ, tỉ lệ BĐ. Chính vi vậy, việc thành lập BĐ nói
chung, BĐGK nói riêng phải do cơ quan chuyên môn đảm nhiệm.

Hai là, tính sư phạm – tính giáo khoa.
Trước hết, về hinh thức, tính sư phạm – tính giáo khoa của BĐGK được
thể hiện ở tính trực quan. Tính trực quan biểu hiện ở tốc độ nhận biết các đối
tượng và hiện tượng trên BĐ. Tốc độ nhận biết này càng nhanh, tính trực quan
càng cao. Đặc biệt, BĐGK là những BĐ sử dụng trong mục đích giáo dục, là
phương tiện phục vụ việc dạy, học của GV và HS, tính trực quan của BĐ là
một trong những yêu cầu đầu tiên, nhất là đối với các BĐĐT. Đồng thời,
thông qua yếu tố “điện tử” (CNTT) thi yếu tố trực quan trở nên sinh động và
phong phú hơn phục vụ tốt cho tổ chức dạy học toàn lớp. Đây là đặc trưng
quan trọng nhất của BĐGK – loại bản đồ dùng trong trường học.
Về nội dung, BĐGK khác với BĐ tra cứu ở chỗ, “trọng tải” của BĐ
không lớn và có nội dung phù hợp với chương trinh giảng dạy của từng lớp,
từng cấp học. Do vậy, BĐGK nói chung và BĐGK lịch sử nói riêng là một tư
liệu khoa học độc lập của nhà trường, nó được ví như “cuốn sách giáo khoa
thứ hai”. Tính sư phạm của BĐGK được thể hiện ở những điểm chủ yếu:

17


-

BĐGK là loại bản đồ được thiết kế phù hợp với chương trinh của từng

cấp học, từng lớp học, phù hợp với trinh độ học sinh.
-

Nội dung của bản đồ liên hệ chặt chẽ, thống nhất với nội dung sách

giáo khoa. Nội dung BĐ biểu hiện những nội dung cơ bản của bài học, phục
vụ mục đích, nhiệm vụ học tập. Nếu sách giáo khoa thay đổi thi nội dung của

BĐGK tương ứng cũng phải thay đổi theo. Nội dung bản đồ cần đảm bảo tính
vừa sức, phù hợp với nội dung bài học, với yêu cầu học tập.
-

Lưới chiếu, tỉ lệ của BĐGK không chỉ phù hợp với nội dung bài học

mà còn phải phù hợp với đối tượng học sinh từng cấp, từng lớp cụ thể.
-

Hệ thống chữ viết, đường nét, kí hiệu giữa các BĐGK phải thống nhất

từ lớp đầu cấp đến cuối cấp.
-

Bố cục BĐ hợp lý, trinh bày đẹp không chỉ giúp học sinh hứng thú,

say mê làm việc với BĐ mà còn có tác dụng lớn trong việc giáo dục, phát
triển óc thẩm mĩ cho HS.
Có thể khẳng định, với những biểu hiện trên đây, tính sư phạm của
BĐGK còn được gọi là tính giáo khoa. Điểm nổi bật nhất của tính giáo khoa
thể hiện ở tính chuẩn mực, thống nhất với mục đích giáo dưỡng, giáo dục và
phát triển HS. Vi vậy, xét về mục đích sử dụng, trong các tính chất của
BĐGK, tính sư phạm – tính giáo khoa là đặc trưng quan trọng nhất.
Từ việc tim hiểu quan niệm về BĐGK và tính chất của BĐGK, chúng
ta thấy rằng, nguồn gốc của loại BĐ này là do cơ quan chuyên môn xuất bản.
Hiện nay, hệ thống các BĐGK ở nước ta đều do Công ty bản đồ tranh ảnh
thuộc nhà xuất bản Giáo dục xuất bản. Hệ thống các BĐ do GV và HS xây
dựng trong quá trinh dạy, học mà chúng ta quen gọi là BĐGK, thực chất chỉ là
những lược đồ mà thôi!
1.1.6.2. Khái niệm, phân loại bản đồ lịch sử

*

Khái niệm: Bản đồ lịch sử là một dạng BĐ phản ánh các sự kiện lịch

sử riêng lẻ hoặc tổng hợp các sự kiện, các hiện tượng nói lên quá trinh phát

18


triển của xã hội loài người. Nhiệm vụ của BĐ lịch sử là đưa ra hinh ảnh trực
quan về sự phân bố, về các mối liên hệ không gian và cục diện địa lý của các
sự kiện lịch sử [22, tr. 46]
*

Phân loại: Đã có nhiều cách phân loại trong dạy học LS khác nhau

dựa vào những tiêu chí khác nhau. Thông thường có các cách phân loại sau:
- Cách phân loại theo mục đích sử dụng, BĐ lịch sử được chia thành:
+

BĐ tra cứu LS: quá trinh LS ở niên đại nào đó được phản ánh với

mức độ chi tiết và đầy đủ nhất (thường dùng trong các Atlas tra cứu lớn và
các BĐ lịch sử trong các bộ bách khoa thư).
+

Các bản đồ giáo khoa lịch sử trong SGK.

+


Các bản đồ tuyên truyền – cổ động: thể hiện các sự kiện lịch sử lớn

và phổ biến rộng rãi.
- Cách phân loại theo nội dung gồm:
+

Bản đồ lịch sử - kinh tế: phản ánh địa lý lịch sử sản xuất và các mối

quan hệ sản xuất.
+

Bản đồ lịch sử dân tộc học: thể hiện địa lý lịch sử dân cư.

+

Bản đồ lịch sử chính trị: phản ánh sự thay đổi lãnh thổ của các quốc

gia và một số sự kiện chính sách đối ngoại và đối nội có liên quan đến những
sự thay đổi và biến động đó.
+

Bản đồ lịch sử phong trào cách mạng và đấu tranh giai cấp.

+

Bản đồ lịch sử quân sự thể hiện tiến trinh chung của các hoạt động quân

sự cũng như các giai đoạn chiến tranh riêng biệt, đặc biệt và hữu ích nhất.
+


Bản đồ lịch sử văn hóa và các đề tài khác.

-

Cách phân loại theo giai đoạn lịch sử (thời gian): Theo các giai đoạn

lịch sử có các BĐ lịch sử tương ứng như: BĐ lịch sử thế giới, BĐ lịch sử Việt
Nam: thời nguyên thủy, thời cổ đại, thời trung đại, thời cận đại, thời hiện đại.
-

Cách phân loại theo mức độ khái quát có:

+

Bản đồ LS tổng hợp, bản đồ chuyên đề LS.

19


+ Sơ đồ, lược đồ
- Cách phân loại theo tính chất dữ liệu có:
+

Bản đồ “tĩnh”: các dữ liệu trên BĐ không có sự tương tác với nhau,

các kí hiệu sử dụng đều được thể hiện đồng loạt và không thay đổi được vị trí.
BĐ “tĩnh” sử dụng trong DHLS thường là các BĐGK trong các SGK lịch sử
hay BĐ lịch sử giáo khoa treo tường.
+


Bản đồ “động”: dùng để chỉ các BĐ được sử dụng trực tiếp với sự hỗ

trợ của CNTT, các dữ liệu, sự kiện trên BĐ chuyển động phù hợp với nội
dung truyền tải. Hay nói cách khác, BĐ “động” được hiểu là các BĐĐT với
sự hỗ trợ của các phần mềm được xây dựng và đưa vào sử dụng.
Ngoài ra, BĐ lịch sử cũng có thể được phân loại theo các tiêu chí: lãnh
thổ, theo phương pháp dùng (treo tường, để bàn, trinh chiếu)… Các BĐ giáo
khoa LS cũng có thể lập thành Atlas lớn, vừa, nhỏ, theo hướng địa lý lịch sử
chung hoặc theo chuyên đề… Mọi khả năng mở rộng chủ yếu phụ thuộc vào
ngân hàng dữ liệu cũng như nội dung chương trinh SGK và mục tiêu giáo dục
– đào tạo.
Trong DHLS, BĐ là một phương tiện trực quan được sử dụng khá phổ
biến nhất là đối với các bài dạy có liên quan đến các chiến dịch, trận đánh
trong lịch sử. GV sử dụng BĐ vào dạy học sẽ giúp HS xác định được địa điểm
của sự kiện trong thời gian và không gian nhất định. Trên cơ sở đó, người học
suy nghĩ, giải thích các hiện tượng lịch sử về mối liên hệ nhân quả, về tính
quy luật và trinh tự phát triển của quá trinh lịch sử và củng cố kiến thức đã
học.
1.1.6.3. Quan niệm về bản đồ điện tử trong dạy học lịch sử ở trường THPT
Theo A.M. Berliant: “Bản đồ điển tử là bản đồ được hiện thị (trực
quan hóa) trên màn hình máy tính, được thiết kế sẵn để trực quan với sự hỗ
trợ của các phương tiện kỹ thuật và các chương trình phần mềm, có hệ thống
kí hiệu và có xét đến độ chính xác đã đặt ra” [42, tr. 14]

20


Trong DHLS, muốn bài giảng lịch sử sinh động, hấp dẫn, giúp người
học có những biểu tượng sinh động, cụ thể về các sự kiện, hiện tượng lịch sử,
trong quá trinh dạy học, giáo viên dựa trên cơ sở bản đồ giáo khoa với sự hỗ

trợ của công nghệ thông tin có thể thiết kế các slide (Microsoft Office
PowerPoint) với những hinh ảnh động làm cho giờ học sinh động, hấp dẫn,
tạo được sự hứng thú cho người học và từ đó, hiệu quả học tập sẽ được nâng
lên rõ rệt. Những bản đồ như vậy được gọi là BĐĐT. Để có sự hỗ trợ của
CNTT, trước hết cần phải có BĐGK gốc, những bản đồ này do Công ty bản
đồ và tranh ảnh, Nxb Giáo dục phát hành nhưng được lưu ở dạng file hinh ảnh
trên máy tính.
Đó là khái niệm chung về BĐĐT. Trên thực tế có rất nhiều phần mềm
hỗ trợ xây dựng các trang BĐĐT như: Microsoft Office PowerPoint, phần
mềm Google Earth, các phần mềm Macromedia Flash phiên bản 6.0, 7.0,
8.0… BĐĐT được xây dựng với sự hỗ trợ của phần mềm Macromedia Flash
nói chung thường được gọi là bản đồ Multimedia. Đây là một dạng bản đồ
được sử dụng trực tiếp trên máy tính và được hỗ trợ bởi các thành phần
Multimedia như âm thanh, hinh ảnh, video… Các thành phần Multimedia
phải liên kết được với các kí hiệu mà nó hiển thị.
1.1.7. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng bản đồ điện tử nhằm nâng cao chất
lượng dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông
Trước đây, các thiết bị công nghệ thông tin còn thiếu thốn, khả năng sử
dụng của giáo viên còn hạn chế. Trong các tiết dạy Lịch sử, giáo viên chủ yếu sử
dụng bản đồ treo tường của Nhà xuất bản Giáo dục, thậm chí không có giáo viên
còn phải tự vẽ để sử dụng. Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật đã phát triển, công
nghệ thông tin ngày càng được sử dụng rộng rãi trong dạy học thi việc sử dụng
bản đồ lịch sử với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin càng cần phải được giáo
viên hết sức quan tâm. Sử dụng BĐĐT, những bài giảng lịch sử trở nên sinh
động, hấp dẫn, người học có những biểu tượng, sinh động, cụ thể về các sự kiện,

21


hiện tượng lịch sử, trong quá trinh dạy học, đối với các bài học lịch sử có liên

quan đến các cuộc khởi nghĩa, các trận đánh, các chiến dịch…
Vai trò của việc sử dụng bản đồ điện tử còn được thể hiện trên cả ba
phương diện:
Vê kiến thức (giáo dưỡng), cùng với việc cung cấp sự kiện, biểu tượng
lịch sử là một đơn vị kiến thức không thể thiếu, khởi đầu con đường hinh
thành kiến thức trong dạy học Lịch sử ở nhà trường phổ thông. Trong các loại
biểu tượng lịch sử cần hinh thành cho HS thi biểu tượng về không gian địa lý
là một trong những biểu tượng phổ biến. Bởi vi, mỗi sự kiện lịch sử luôn gắn
với địa danh xác định. Các địa danh này có không gian tọa độ riêng và được
quy ước trên BĐ nên sử dụng BĐĐT nói riêng là biện pháp có ưu thế lớn nhất
trong việc hinh thành các biểu tượng lịch sử nói chung, biểu tượng không gian
– địa lý nơi diễn ra các sự kiện nói riêng. Mặt khác, qua nghiên cứu, các nhà
giáo dục học trên thế giới và Việt Nam đã khẳng định ưu thế của ĐDTQ trong
việc tăng lượng thông tin – cơ sở cho hoạt động nhận thức lý tính của HS.
Theo số liệu khoa học mà UNESCO đã công bố thi khi nghe, HS chỉ nhớ 15%
thông tin (nhiều kiến thức không phải là kiến thức cơ bản, chủ yếu); khi nhin,
các em nhớ 25% thông tin và việc nghe nhin đem lại kết quả cao hơn: 65%
thông tin. Bằng ngôn ngữ giàu hinh ảnh kết hợp với sử dụng BĐĐT, GV sẽ
tạo được trong óc HS những biểu tượng lịch sử sinh động, sâu sắc. Trên cơ sở
đó, thu hút sự tập trung chú ý cao độ - biểu hiện đầu tiên và là cơ sở của tính
tích cực của HS.
Về thái độ (giáo dục), sử dụng BĐ lịch sử góp phần quyết định trong
việc bồi dưỡng quan điểm duy vật của Chủ nghĩa Mác – Lênin về tác động trở
lại của môi trường địa lý tới lịch sử xã hội loài người. Chủ nghĩa Mác – Lênin
khẳng định rằng, hoàn cảnh địa lý không phải là động lực chủ yếu quyết định
sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, song cũng ảnh hướng khá nhiều tới
sự phát triển ấy, đẩy nhanh hay kéo dài, thậm chí, có những trường hợp đặc
biệt, nó còn làm ngưng trệ, hủy diệt quá trinh phát triển lịch sử. Cho đến nay,

22



phần lớn sử gia đều cho rằng, vào thời cổ đại trường hợp lụi tàn của nền Văn
minh sông Ấn và sự “di chuyển” ồ ạt của cư dân sang lưu vực sông Hằng là
do hoàn cảnh địa lý ở khu vực sông Ấn lúc đó quy định; hay điều kiện nhiệt
đới gió mùa ẩm, hệ thống sông ngòi dày đặc, lượng phù sa lớn, màu mỡ là
những yếu tố tự nhiên không thể thiếu để hinh thành nền văn minh trông lúa
nước – nền văn minh bản địa của khu vực Đông Nam Á… Đặc biệt, việc đề
xuất chiến thuật của mỗi trận đánh, mỗi chiến dịch thi một trong những yêu
cầu quan trọng nhất là phải căn cứ vào điều kiện địa lý nơi diễn ra trận đánh,
chiến dịch đó. Chiến thuật đánh quân Nam Hán của Ngô Quyền năm 938,
chiến thuật đánh giặc Mông – Nguyên của Trần Quốc Tuấn thời Trần đều trên
cơ sở chế độ thủy triều đặc biệt ở cửa sông Bạch Đằng lịch sử, chiến thuật
tiêu diệt viện binh nhà Minh đã được Lê Lợi khéo léo lựa chọn địa hinh hiểm
yếu của ải Chi Lăng… cho đến chiến thuật “bông sen nở” ở Chiến dịch Tây
Nguyên, chiến thuật “thọc sườn” ở Chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chiến dịch
“bóc vỏ” trong trận quyết chiến giải phóng Sài Gòn – Gia Định trong thời đại
Hồ Chí Minh đều phải cân nhắc kĩ lưỡng từ điều kiện tự nhiên nơi diễn ra các
sự kiện lịch sử vĩ đại này. Thông qua sử dụng BĐĐT, GV bồi dưỡng cho HS
quan điểm duy vật này một cách phù hợp, tránh rơi vào tinh trạng phủ định
sạch trơn vai trò hoàn cảnh địa lý tới sự kiện lịch sử. Đồng thời, việc sử dụng
BĐĐT kết hợp với những bài tường thuật, đoạn miêu tả giàu hinh ảnh về diễn
biến một trận đánh hết sức ác liệt, về một địa danh cụ thể, HS không chỉ có
biểu tượng lịch sử sâu sắc mà còn tăng thêm tinh yêu quê hương, đất nước –
nơi biết bao thế hệ cha anh đã đổ máu xương để bảo vệ từng mảnh đất quê
hương. Từ đó, ý thức tự hào, tự cường dân tộc ở các em được hun đúc và ngày
càng sâu sắc; ý thức về trách nhiệm của một công dân tương lai được hinh
thành, củng cố và không ngừng nâng cao.
Thông qua việc sử dụng BĐĐT trong dạy học lịch sử, dưới sự hướng
dẫn của GV qua hệ thống câu hỏi mở, HS tự lực khai thác BĐ: quan sát tỉ mỉ

từng kí hiệu BĐ, phát hiện mối liên hệ lôgic giữa các kí hiệu sẽ hinh thành ở

23


các em tinh thần, thái độ làm việc hăng hái, cần mẫn, nghiêm túc, khoa học.
Bên cạnh đó, sử dụng BĐĐT còn có tác dụng lớn trong việc bồi dưỡng, giáo
dục óc thẩm mĩ cho HS.
Về kĩ năng, một trong những nguyên tắc chỉ đạo quá trinh dạy học là
“học đi đôi với hành”. Việc “hành” trong học tập lịch sử được hiểu ở nhiều
góc độ. Sử dụng BĐĐT trong dạy hoc lịch sử có ưu thế trong vấn đề rèn kĩ
năng cho HS. Theo Ghêraximốp: Khi bản đồ là đối tượng học tập thi kiến
thức, kĩ năng bản đồ là mục đích, còn khi bản đồ là nguồn tri thức thi kiến
thức và kĩ năng bản đồ trở thành phương tiện của việc khai thác kiến thức trên
bản đồ”. Với quan điểm này, khi BĐĐT trong dạy học lịch sử là một nguồn
kiến thức, muốn khai thác kiến thức trên BĐ thi kĩ năng BĐ trở thành phương
tiện không thể thiếu. Do đó, bản thân của việc sử dụng BĐ đã đặt ra yêu cầu
hết sức tự nhiên cho vấn đề rèn kĩ năng HS.
PGS. TS Trịnh Đinh Tùng đã khẳng định: “Đồ dùng trực quan nếu
được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết
hợp chặt chẽ được hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai nghe – mắt thấy, tạo
điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được những mối liên hệ thần
kinh tạm thời khá phong phú, phát triển ở học sinh năng lực chú ý, quan sát,
hứng thú. Sử dụng BĐĐT có ý nghĩa to lớn trong việc rèn kĩ năng đọc BĐ, kĩ
năng vẽ bản đồ, kĩ năng thiết kế BĐĐT với các phần mềm hỗ trợ, kĩ năng
phối hợp giữa BĐĐT với các BĐGK khác, với các nguồn ĐDTQ, các nguồn
tài liệu học tập khác cho HS.
1.2. Thực tiễn dạy học lịch sử nói chung và thực trạng sử dụng bản đồ
điện tử nói riêng trong môn Lịch sử hiện nay ở trƣờng trung học phổ
thông

Lịch sử là “gốc rễ” của một dân tộc, nếu mất đi cái “gốc” đó, thi dân
tộc đó có lớn mạnh đến đâu cũng không thể trường cửu được. Ngày nay, trước
xu thế hội nhập, toàn cầu hóa, nếu chúng ta không khẳng định được

24


×