BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến: Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực
tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10
Vĩnh Phúc, 2020
PHỤ LỤC
1. Lời giới thiệu…………………………………………………………………
1
2. Tên sáng
kiến………………………………………………………………...3
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến ……………………………………………
…..3
4. Ngày sáng kiến kinh nghiệm áp dụng lần
đầu………………………………3
5. Mô tả bản chất của sáng
kiến………………………………………………..3
5.1. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………
3
5.2. Đối tượng nghiên
cứu…………………………………………………...3
5.3. Phương pháp nghiên cứu và thời gian nghiên cứu……………………
4
5.3.1. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………
4
5.3.2. Thời gian nghiên
cứu……………………………………………..4
5.3.3. Kế hoạch nghiên
cứu……………………………………………...4
5.4. Khả năng phát triển và ứng dụng thực
tế………………………………4
5.5. Hiệu quả…………………………………………………………………
4
5.6. Nội dung của sáng kiến…………………………………………………
5
5.6.1. Cơ sở lí
luận……………………………………………………….5
5.6.1.1. Phương pháp dạy học tích cực……….
………………….5
5.6.1.2. Những thành tựu trong đổi mới giảng
dạy………….....11
5.6.1.3. Những hạn chế trong đổi mới phương
pháp…………...12
5.6.1.4. Một số giải pháp khắc phục hạn
chế…………………...17
5.6.2. Đổi mới phương pháp dạy học trong chuyên
đề………………..21
5.6.2.1. Nội dung chủ yếu của chuyên đề………………………
21
5.6.2.2. Mục tiêu của chuyên
đề………………………………...21
5.6.3.3. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh……………………
22
5.6.3.4. Phương pháp và kĩ thuật dạy học………………………
22
5.6.2.5. Nội dung đổi mới phương pháp dạy
học……………….23
5.6.2.6. Kết
luận……………………………………………….....37
5.7. Về hiệu quả và khả năng áp dụng sáng
kiến……………………….....37
6. Những thông tin cần bảo
mật……………………………………………...39
7. Các điều kiện cần thiết áp dụng sáng
kiến…………………………….......39
8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự
kiến…………………………………...39
9. Đánh giá lợi ích thu được …... ý kiến tác
giả……………………………...40
10. Đánh giá lợi ích thu được… ý kiến các tổ chức, cá
nhân……………….40
11. Danh sách các tổ chức, cá
nhân………………………………………….40
DANH MỤC VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Đọc là
GDCD
Giáo dục công dân
HS
Học sinh
GV
Giáo viên
PPDH
Phương pháp dạy học
THPT QG
Trung học phổ thông quốc gia
KTDH
Kĩ thuật dạy học
SGK
Sách giáo khoa
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. LỜI GIỚI THIỆU
Đất nước ta đã và đang trên đà phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa,
thế giới bước vào thời kì 4.0 với những công nghệ vô cùng hiện đại. Vì vậy vấn
đề chất lượng nguồn lực con người là vấn đề rất cần được quan tâm. Đổi mới
phương pháp giảng dạy là một trong những yêu cầu cấp thiết đối với ngành
giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, là sự sống còn của mỗi
cơ sở đào tạo.
Phương pháp giảng dạy là yếu tố quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng đào tạo. Phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều
kiện để giáo viên và người học phát huy hết khả năng của mình trong việc
truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và phát triển tư duy. Phương pháp giảng dạy
khoa học sẽ làm thay đổi vai trò của người thầy đồng thời tạo nên sự hứng
thú, say mê và sáng tạo của người học.
Phương pháp giảng dạy truyền thống là phương pháp mà trong đó
chủ yếu là thầy nói trò nghe. Ngay tận thập niên 1990, phương pháp này vẫn
đang chi phối mạnh ở các trường trong cả nước. Học sinh thường phải ngồi
nghe liên tục trong một khoảng thời gian dài. Trong phương pháp này, giáo
viên dạy và học sinh được dạy; giáo viên biết mọi thứ và học sinh không biết
gì; giáo viên suy nghĩ và học sinh buộc phải nghĩ theo cách của giáo viên; giáo
viên nói và học sinh lắng nghe; giáo viên quyết định (chọn lựa) và học sinh
phải làm theo. Nhìn chung, giáo viên là chủ thể còn học sinh là khách thể của
quá trình dạy học. Giáo viên quan tâm trước hết đến việc truyền đạt kiến
thức, hướng đến mục tiêu làm cho học sinh hiểu và ghi nhớ kiến thức.
Phương pháp này ít quan tâm đến việc phát triển tư duy, huấn luyện kỹ năng
và rèn luyện thái độ cho người học. Nó dẫn đến tình trạng hầu hết học sinh
học tập thụ động. Hậu quả của phương pháp giảng dạy cũ dẫn đến sự thụ
động của người học trong việc tiếp cận tri thức. Sự thụ động này là nguyên
nhân tạo cho người học sự trì trệ, ngại đọc tài liệu, ngại tranh luận, thiếu
khả năng thuyết trình, lười tư duy và thiếu tính sáng tạo trong tư duy khoa
học. Người học còn quan niệm rằng chỉ cần học những gì giáo viên giảng
trên lớp là đủ. Ngoài ra sự thụ động của họ còn thể hiện qua phản ứng của
họ đối với bài giảng của giáo viên trên lớp. Họ chấp nhận tất cả những gì
1
giáo viên trình bày. Sự giao tiếp trao đổi thông tin trong lớp học hầu như chỉ
mang tính một chiều.
Đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ cung cấp những cơ hội đặc biệt để
nhận thức rõ những giá trị quan trọng, thực chất trong cuộc sống. Điều đó làm
tăng khả năng mà thực ra là yêu cầu giáo viên không ngừng nâng cao trình độ
hiểu biết. Vì vậy, vai trò mới của người giáo viên trở thành nhân tố kích thích trí
tò mò của học sinh, mài sắc thêm năng lực nghiên cứu độc lập, tăng cường khả
năng tổ chức, sử dụng kiến thức và khả năng sáng tạo. Việc áp dụng các
phương pháp giảng dạy mới đòi hỏi phải có những tài liệu dạy học mới.
Những tài liệu này phải gắn với các phương pháp kiểm tra mới nhằm khuyến
khích không chỉ khả năng nhớ mà cả khả năng hiểu, các kỹ năng thực hành và
sáng tạo của học sinh.
Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy phát triển năng lực,
phẩm chất người học đang được nhiều giáo viên thực hiện. Đổi mới hương
pháp giảng dạy không có nghĩa là loại trừ phương pháp thuyết giảng. Thực
chất đó là sự kết hợp hài hoà nhuần nhuyễn giữa thuyết giảng và đối thoại
với mục tiêu phát huy cao độ tính tích cực, năng động, độc lập, sáng tạo của
người học. Với phương pháp này yêu cầu người giảng không chỉ nắm vững
những vấn đề cần trình bày mà còn phải rất năng động nhạy bén và sáng tạo
ngay trong giờ giảng, trên cơ sở đó người giảng có thể truyền thụ những vấn
đề cần thiết cơ bản đến người học một cách tự nhiên, sinh động và hứng thú.
Việt Nam chúng ta đứng trước những cơ hội mới nhưng cũng gặp
không ít những thách thức khó khăn. Chính vì thế ngành giáo dục phải đổi
mới thì mới nâng cao được nguồn lực con người, trong đó một việc quan
trọng và cần thiết là đổi mới phương pháp giảng dạy.
Môn GDCD trong trường THPT từ trước đến nay đều bị coi là môn học
phụ, không có vị trí quan trọng đối với học sinh, giáo viên, các cấp quản lí.
Với quan điểm của giáo viên bộ môn, cá nhân tôi nhận thấy môn GDCD lớp
10 rất quan trọng để hình thành thế giới quan và phương pháp luận và những
quan điểm đúng đắn về đạo đức trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân,
giữa cá nhân và xã hội. Học sinh có những quan điểm đúng đắn thì xã hội sẽ
có những công dân tốt, là động lực thúc đấy phát triển xã hội.
2
Bài 7 GDCD lớp 10 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”
là nội dung thuộc triết học duy vật lịch sử mang tính khái quát và trừu tượng
cao. Học sinh biết được quá trình nhận thức và vai trò của thực tiễn, từ đó vận
dụng vào quá trình học tập và đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân tạo nên
những thành công cho cá nhân và cho xã hội. Bài 7 GDCD là một trong những
bài học có vai trò quan trọng trong chương trình GDCD lớp 10 và cũng có vai trò
quan trọng trong hình thành thế giới quan, phương pháp luận của cá nhân. Do
yêu cầu nâng cao chất lượng giảng dạy, chất lượng học tập của học sinh, sở
giáo dục đào tạo Vĩnh Phúc kiểm tra học kì theo đề chung của sở và thực hiện
chuẩn quy chế coi thi nên cần tiếp thu kiến thức một cách thực sự.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: Đổi mới phương
pháp dạy học bài 7 “thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”,
GDCD lớp 10. Để góp phần thực hiện yêu cầu đổi mới nội dung và PPDH theo
hướng phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh,phát huy tính tích cực học tập
của HS.
2. TÊN SÁNG KIẾN
Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực
tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10. Đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh trong bài “Thực tiễn
và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10.
3. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Đổi mới phương pháp dạy học bài 7
“thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10.
Vấn đề mà sáng kiến giải quyết: Đổi mới phương pháp dạy học bài
7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10.
4. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU HOẶC ÁP DỤNG
THỬ
Tháng 8 năm 2019
5. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN
5.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và áp dụng vào thực tế giảng dạy trên lớp trong bài 7 “Thực
tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”.
3
Nghiên cứu đề tài khẳng định Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực
tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10 là một hướng
tiếp cận hiệu quả trong việc dạy bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức” môn GDCD lớp 10.
5.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bài nghiên cứu đã được triển khai với học sinh của lớp 10 qua năm học 2018
2019, 2019 2020.
5.3. Phương pháp và thời gian nghiên cứu
5.3.1. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu này tôi đã thực hiện các phương pháp sau:
Phương pháp trải nghiệm thực tiễn: Tổ chức các hoạt động đổi mới
giảng dạy trên các lớp được Nhà trường phân công.
Phương pháp quan sát: Tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, dự giờ thăm lớp của
đồng nghiệp.
Phương pháp trao đổi, thảo luận: Trao đổi, thảo luận, rút kinh nghiệm từ
đồng nghiệp.
Phương pháp so sánh đối chiếu: Kết quả kiểm tra chuyên đề của học sinh đưa ra
nhận xét, rút kinh nghiệm trong giảng dạy.
Phương pháp thăm dò ý kiến của học sinh: Phát phiếu thăm dò để biết ý kiến
của học sinh về đổi mới phương pháp dạy và học, giáo viên tổng kết ý kiến đưa ra
những quyết định phù hợp.
5.3.2. Thời gian nghiên cứu
Đề tài này đã được tiến hành từ tháng 8 năm 2018 đến nay.
5.3.3. Kế hoạch nghiên cứu
Với nhiều năm giảng dạy môn GDCD, vừa tìm tòi, học hỏi về kiến
thức, phương pháp giảng dạy, sau đó áp dụng phương pháp và kĩ thuật tích
cực vào thực thiễn giảng dạy. Trong quá trình áp dụng đổi mới phương pháp
giảng dạy tự mình khảo sát tình hình thực tế rồi tự đưa ra kết luận về tính
khả thi của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Ngoài ra tôi đã học hỏi
kinh nghiệm từ các đồng nghiệp. Từ đó, rút ra kinh nghiệm đổi mới phương
pháp dạy học, trong giờ học học sinh sẽ là trung tâm, tự học, tự lĩnh hội kiến
thức để nâng cao sự hiểu biết và vận dụng kiến thức vào thực tiễn đời sống.
4
5.4. Khả năng phát triển, ứng dụng thực tế
Trong sáng kiến này tôi đề cập đến việc giúp giáo viên giảng dạy môn
GDCD tham khảo một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo nên
sự hứng thú cho học sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và nâng cao chất
lượng môn GDCD.
Các phương pháp mang tính khả thi cao phù hợp mọi đối tượng học sinh, các
nhà trường.
5.5. Hiệu quả
Áp dụng sáng kiến này học sinh học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực
tiễn đối với nhận thức” sẽ tích cực chủ động và hứng thú hơn trong tiếp thu kiến
thức.
5.6. Về nội dung của sáng kiến
5.6.1. Cơ sở lí luận
5.6.1.1. Phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học (PPDH) là lĩnh vực rất phức tạp và đa dạng. Có
nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về PPDH. PPDH được hiểu là cách thức,
là con đường hoạt động chung giữa GV và HS, trong những điều kiện dạy học
xác định, nhằm đạt tới mục đích dạy học.
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút
gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. “Tích
cực” trong PPDH tích cực được dùng với tức là hoạt động, chủ động, trái
nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu
cực.
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động
nhận thức của người học, tức là tập trung vào phát huy tính tích cực của người
học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy
nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so
với dạy theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách
học, nhưng trái lại thói thường học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy
của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt
động nhưng thầy giáo chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp thầy giáo tích
5
cực vận dụng PPDH tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích
nghi, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì thế, thầy giáo phải bền chí dùng
cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập
chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy
học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp ăn nhịp hoạt động dạy
với hoạt động học thì mới thành công. Như vậy, việc dùng thuật ngữ “Dạy và
học tích cực” để phân biệt với “Dạy và học thụ động”.
Trên thực tiễn, trong qúa trình dạy học người học vừa là đối tượng của
hoạt động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Phê chuẩn hoạt động
học, dưới sự chỉ đạo của thầy, người học phải hăng hái chủ động cải biến
chính mình về tri thức, năng lực, thái độ hoài nghi, hoàn thiện nhân cách,
không ai làm thay cho mình được. Bởi vậy, nếu người học không tự giác chủ
động, không chịu học, không có biện pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy
học sẽ rất hạn chế.
Như vậy, khi đã chú trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học thì
dĩ nhiên phải phát huy tính hăng hái chủ động của người học. Tuy nhiên, dạy
học lấy học trò làm trọng tâm không phải là một biện pháp dạy học cụ thể.
Đó là một tư tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy học
chi phối tất cả qúa trình dạy học về mục đích, nội dung, biện pháp, công cụ,
tổ chức, đánh giá… chứ không phải chỉ liên quan đến biện pháp dạy và học.
Đặc điểm của các biện pháp dạy học tích cực.
* Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Trong phương pháp dạy học tích cực, người học đối tượng của hoạt động
“dạy”, song song là chủ thể của hoạt động “học” được cuốn hút vào các hoạt động
học tập do thầy giáo tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều
mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp nhận những kiến thức đã được thầy
giáo sắp xếp. Được đặt vào những tình huống của thực tế, người học trực tiếp quan
sát, bàn bạc, làm thí nghiệm, giải quyết sự tình đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ
đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến
thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy
tiềm năng sáng tạo.
Dạy theo cách này thì thầy giáo không chỉ đơn giản truyền đạt kiến
thức mà còn hướng dẫn học sinh hoạt động. Chương trình dạy học phải giúp
6
cho từng học sinh biết hoạt động và tích cực dự khán các hoạt động của cộng
đồng.
* Dạy và học coi trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho
học sinh không chỉ là một phương pháp nâng cao công hiệu dạy học mà còn là
một mục tiêu dạy học. Trong tầng lớp hiện đại đang biến đổi nhanh với sự
phát triển khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão thì không thể
nhồi nhét vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải
quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng
lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng.
Trong các phương pháp học thì then chốt là phương pháp tự học. Nếu
rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói thường, (lập
trường tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong
mỗi con người) cuối cùng học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì thế, ngày nay
người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo
ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề tự
học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở hậu đường bài lên lớp
mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.
* Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong một lớp học mà kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng
đều tuyệt đối thì khi vận dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp thuận
sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn tất nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài
học được thiết kế thành một xâu công việc độc lập.
Áp dụng biện pháp tích cực càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc
sử dụng các phương tiện công nghệ thông cáo trong nhà trường sẽ đáp ứng
đề nghị cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học
sinh.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi kiến thức, tài năng, thái độ
hoài nghi đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp
học là môi trường tiếp xúc với nhau thầy trò, trò trò, tạo nên mối quan hệ
hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung tri thức. Phê
duyệt đàm luận, tranh luận trong tập thể, quan điểm mỗi cá nhân được thổ
lộ, tự tin tuyên bố hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ
7
mới. Bài học ứng dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của người
thầy giáo.
* Kết hợp đánh giá thầy với tự đánh giá của trò trong quá trình dạy học tích
cực.
Trong dạy học, việc đánh giá học trò không chỉ nhằm mục đích nhận
định thực trạng và sắp xếp hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo hoàn
cảnh nhận định thực trạng và sắp xếp hoạt động dạy của thầy.
Trước đây, giáo viên giữ độc quyền đánh giá học trò. Trong phương
pháp tích cực, giáo viên phải chỉ dẫn học trò phát triển tài năng tự đánh giá để
tự sắp xếp cách học. Liên tưởng với điều này, giáo viên cần tạo hoàn cảnh
thuận tiện để học trò được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và
sắp xếp hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc
sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh. Theo hướng phát triển các
phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng động, sớm thích ứng
với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá chẳng thể dừng lại ở tái hiện
các tri thức, lặp lại các tài năng đã học mà phải xứng đáng được đề nghị hoặc
đề xuất trí sáng ý, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực
tế.
Với sự trợ giúp của các thiết bị nghệ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không
còn là một nghề nghiệp nặng nhọc đối với giáo viên, song cho nhiều thông tin
kịp thời hơn để sửa đổi hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và học bị động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng
vai trò thuần tuý là người truyền đạt tri thức, giáo viên trở nên người thiết kế, tổ
chức, chỉ dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học trò tự lực chiếm
lĩnh nội dung học hỏi, chủ động đạt các mục đích tri thức, năng lực, thái độ hoài
nghi theo đề nghị của thời hạn. Trên lớp, học trò hoạt động là chính, giáo viên có
vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công
sức, thời kì rất nhiều so với kiểu dạy và học bị động mới có khả năng thực hành
bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, cổ vũ, cố vấn, trọng tài trong các
hoạt động tìm tòi háo hức, tranh cãi rầm rộ của học trò. Giáo viên phải có trình độ
chuyên trị sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có khả năng tổ chức, chỉ
dẫn các hoạt động của học trò mà nhiều khi biến diễn ngoài tầm dự kiến của
giáo viên.
8
So sánh đặc điểm của dạy học truyền thống và dạy học tích cực như
sau:
Dạy học truyền thống
Các mô hình dạy học tích cực
Quan
niệm
Học là qúa trình hấp
thụ và lĩnh hội, qua đó
hình thành kiến thức,
năng lực, tư tưởng, tình
cảm.
Học là qúa trình kiến tạo; học trò tìm tòi,
khám phá, phát hiện, tập luyện, khai khẩn
và xử lí thông tin , … tự hình thành thông
hiểu, năng lực và phẩm chất.
Bản
chất
Truyền thụ tri thức, Tổ chức hoạt động nhận thức của học
truyền thụ và chứng minh trò. Dạy học trò cách tìm ra chân lí.
chân lí của giáo viên.
Mục
đích
Chú trọng cung cấp tri
thức, năng lực. Học để
đối phó với thi cử . Sau
khi thi xong những điều
đã học thường bị bỏ
quên hoặc ít dùng đến.
Nội
dung
Từ sách giáo khoa + Từ nhiều nguồn khác nhau: SGK, GV, các
giáo viên
tài liệu khoa học liên quan, thử nghiệm,
thực tế…gắn với:
Chú trọng hình thành các năng lực (sáng
tạo, hợp tác…) dạy biện pháp và nhận
thức khoa học, dạy cách học. Học để đáp
ứng những đề nghị của cuộc sống hiện nay
và tương lai. Những điều đã học cần thiết,
hữu ích cho bản thân học trò và cho sự phát
triển xã hội.
Vốn thông hiểu, kinh nghiệm và nhu
cầu của HS.
Tình huống thực tiễn, bối cảnh và môi
trường địa phương.
Những vấn đề học trò quan tâm.
biện
pháp
Các biện pháp diễn Các biện pháp tìm tòi, điều tra, giải quyết
giảng, truyền thụ tri vấn đề; dạy học tương tác.
thức một chiều.
Hình
Cố định: giới hạn trong
thức tổ 4 bức tường của lớp
chức
học, giáo viên đối diện
với cả lớp.
Cơ động, linh hoạt: Học ở lớp, ở phòng
thử nghiệm, ở hiện trường, trong thực
tế… , học cá nhân chủ nghĩa, học đôi bạn,
học theo cả nhóm, cả lớp đối diện với
9
giáo viên.
Một số phương pháp dạy học tích cực phổ quát
* Phương pháp vấn đáp
Vấn đáp (đàm thoại) là biện pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học
sinh trả lời, hoặc học sinh có thể bàn cãi với nhau và với cả giáo viên; qua đó học
sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Chứng cứ vào thuộc tính hoạt động nhận
thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp.
* Phương pháp đặt vấn đề và giải quyết vấn đề
Trong một tầng lớp đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh
tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh
trong thực tế là một năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống, đặc
biệt trong kinh doanh. Vì thế, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và
giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá
nhân, nhà ở và cộng đồng không chỉ cố ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học
mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo.
Trong dạy học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, học trò vừa
nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát
triển tư duy hăng hái, sáng tạo, được để sẵn một năng lực thích ứng với đời
sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề phát sinh.
* Phương pháp hoạt động nhóm
Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích, nội
dung của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia không hẹn hay có chủ tâm, được
duy trì yên ổn hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ
hay những nhiệm vụ khác nhau.
Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có xác xuất phân
việc mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm
việc hăng hái, chẳng thể ỷ lại vào một đôi người hiểu biết và năng động hơn.
Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí
thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết
quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước
toàn lớp, nhóm có cử ra một đại diện hoặc phân việc mỗi thành viên trình bày
một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.
10
Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm san sẻ các
băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng
cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có xác xuất nhận rõ trình độ hiểu
biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học
trở nên quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp thụ bị động từ giáo
viên.
Thành công của bài học phụ thuộc vào sự nồng nhiệt tham gia của mọi
thành viên, vì vậy phương pháp này còn gọi là phương pháp cùng tham gia.
Tuy nhiên, phương pháp này bị ngăn lại trong một giới hạn nhất định bởi
không gian phạm vi nhỏ của lớp học, bởi thời kì hạn định của tiết học, thành
thử giáo viên phải biết tổ chức hợp lý và học trò đã khá quen với phương
pháp này thì mới có kết quả. Cần nhớ rằng, trong hoạt động nhóm, tư duy
hăng hái của học trò phải được phát huy và tác phong quan yếu của phương
pháp này là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong tổ chức lao
động. Cần tránh xu hướng hình thức và xơ cua lạm dụng, quan niệm cho rằng
tổ chức hoạt động nhóm là dấu hiệu điển hình nhất của đổi mới PPDH và
hoạt động nhóm càng nhiều thì chứng tỏ phương pháp dạy học càng đổi mới.
* Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học trò thực hành một số cách xử sự
nào đó trong một tình huống giả định. Phương pháp đóng vai có những điểm tích cực
sau:
+ Học trò được rèn luyện thực hành kĩ năng ứng xử và giãi bày thái độ hoài nghi
trong môi trường không có các mối nguy hiểm, rủi ro trước khi thực hành thực tiễn.
+ Gây hứng thú và chú ý cho học trò.
+ Tạo hoàn cảnh và phát huy tính sáng tạo của học trò.
+ Khích lệ sự thay đổi thái độ hoài nghi, hành vi của học trò theo chuẩn
hành vi tư tưởng và chính trị xã hội.
+ Thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.
* Phương pháp động não
Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh
được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó, thực hiện phương
pháp này giáo viên đưa ra một hệ thống thông báo làm tiền đề cho buổi thảo luận.
11
5.6.1.2. Những thành tựu trong đổi mới phương pháp dạy học môn
GDCD trường THPT hiện nay.
Năm 2017 với sự thay đổi về việc thi THPT QG, xét đại học môn GDCD
là một bộ môn thi để xét tốt nghiệp. Cùng với kế hoạch đổi mới nội dung kiến
thức các bộ môn và các khối lớp, các cấp học, Bộ giáo dục đã chỉ đạo phải đổi
mới phương pháp dạy học dần để phù hợp với nội dung mới. Môn GDCD cũng
nằm trong sự đối mới đó. Hiện nay giáo viên GDCD trong cả nước đang từng
bước đổi mới phương pháp dạy học và đã đạt được một số thành tựu nhất định.
Với kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới sinh hoạt chuyên
môn theo cách phân tích hoạt động của học sinh do Bộ giáo dục chỉ đạo. Sở giáo
dục và đào tạo Tỉnh Vĩnh Phúc triển khai việc lĩnh hội sự đổi mới này từ cấp trên
sau đó truyền đạt lại cho giáo viên của từng bộ môn trong nhà trường trên địa bàn
tỉnh. Lãnh đạo các nhà trường rất quan tâm và chú trọng đến việc đổi mới
phương pháp giảng dạy và sử dụng các kĩ thuật dạy học trong giờ học GDCD.
Vào những dịp như 20/11, 8/3…. Một số nhà trường tổ chức những buổi thao
giảng mẫu thực hiện đổi mới phương pháp dạy học tích cực.
Giáo viên rất hăng hái, tích cực trong việc đổi mới phương pháp giảng
dạy phù hợp với yêu cầu của xã hội và kiến thức hiện nay. Những giờ giảng
GDCD giáo viên đã sử dụng được một số phương pháp và kĩ thuật tích cực vào
để học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức chứ không phải thụ động lĩnh hội như
trước.
Để có một giờ học đổi mới thành công, giáo viên không những có kiến
thức sâu rộng về nội dung bài học mà giáo viên còn phải nắm chắc các
phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực thật tốt. Giáo viên giảng dạy môn
GDCD đã đầu tư, chuẩn bị giáo án thật tốt, tự tìm tòi, học hỏi hiểu sâu, hiểu
rộng về nội dung bởi đổi mới phương pháp dạy học, nội dung bài học sẽ
được tiếp cận từ nhiều phía không theo sự sắp xếp sẵn của giáo viên.
Giáo viên môn GDCD đã có một số kiến thức nhất định về phương
pháp và kĩ thuật dạy học thông qua các lớp tập huấn của sở giáo dục tổ chức.
Từ đó đã vận dụng được vào trong quá trình giảng dạy, lựa chọn những
phương pháp phù hợp vào từng nội dung bài học, tổ chức đổi mới giảng dạy
để đạt kết quả cao nhất, điều này rất khó đối do đặc thù của môn học.
Giáo viên GDCD cũng đã tiếp cận với các máy móc công nghệ thông tin
để hỗ trợ cho việc đổi mới phương pháp của mình đạt hiệu quả cao như:
12
dùng bảng thông minh, giáo án điện tử, video…. Ngoài ra, để học hỏi thêm
công nghệ thông tin và phương pháp dạy học tích cực giáo viên tham gia vào
các diễn đàn đổi mới giảng dạy môn GDCD, học online để tiếp cận và tự
nâng cao trình độ chuyên môn và phương pháp dạy học. Giáo viên môn GDCD
và giáo viên các bộ môn khác trong nhà trường THPT không chỉ đổi mới trong
những giờ giảng mẫu hay dự giờ nữa mà đang tích cực đưa việc đổi mới vào
trong các giờ học, các nội dung kiến thức.
Giáo viên GDCD rất tích cực tham gia vào các hoạt động sinh hoạt
chuyên môn của trường, của cụm và trong toàn tỉnh. Trong những buổi sinh
hoạt chuyên môn giáo viên trao đổi, chia sẻ chân thành, thẳng thắn những
thực tiễn và kinh nghiệm đổi mới của bản thân đề cùng nhau học hỏi, thảo
luận góp ý. Từ việc trao đổi này lựa chọn được phương pháp và kĩ thuật dạy
học hợp lí nhất phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh.
Học sinh trong các giờ học đổi mới rất sôi nổi, hăng hái tham gia và hoàn
thành tốt các nhiệm vụ do giáo viên giao. Học sinh cũng mong muốn được học
những giờ đổi mới vì các em được hoạt động, được tự mình suy nghĩ tìm tòi,
không phải ngồi im nghe cô giáo giảng như trước.
5.6.1.3. Những hạn chế trong việc đổi mới phương pháp dạy học
môn GDCD hiện nay
Mặc dù Bộ giáo dục Việt Nam triển khai sâu rộng đổi mới phương
pháp dạy học để tiến tới đổi mới nội dung chương trình, mục tiêu giáo dục
trong những năm tới. Việc đổi mới phương pháp dạy học đổi với các cơ sở
giáo dục vẫn chưa triển khai được hoặc triển khai chưa hiệu quả, chưa đúng
bản chất và yêu cầu của Bộ giáo dục đề ra, chưa đáp ứng được điều mong
đợi của học sinh, gia đình và xã hội.
Hầu hết giáo viên GDCD chưa thực hiện được đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng tích cực mà vẫn đang sử dụng phương pháp dạy học truyền thống trong
giảng dạy môn GDCD, giáo viên vẫn là trung tâm, truyền đạt kiến thức còn học sinh
tiếp thu kiến thức một cách thụ động, mọi tri thức đều do giáo viên định hướng sắp
xếp và học sinh sẽ tiếp thu theo sự sắp xếp đó. Nếu có đổi mới phương pháp dạy học
thì nhìn chung chưa mang lại hiệu quả. Số giáo viên chủ động, sáng tạo trong việc
phối hợp các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, tự lực sáng tạo của học sinh còn
chưa nhiều.
13
Giáo viên GDCD nói riêng và giáo viên các bộ môn nói chung ngại thay
đổi phương pháp dạy học vì nhiều năm họ sử dụng phương pháp dạy học
truyền thống, truyền đạt thụ động, mọi nội dung tri thức và diễn biến trong giờ
học do giáo viên quyết định. Thêm nữa giáo viên ngại học hỏi đặc biệt là
phương pháp truyền đạt. Vì thế nên nhiều giáo viên GDCD không mặn mà, hào
hứng về kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học.
Việc ứng dụng công nghệ truyền thông, sử dụng các phương tiện dạy
học chưa thực hiện rộng rãi và hiệu quả trong các trường trung học phổ
thông.
Hoạt động kiểm tra, đánh giá vẫn chú ý đến yêu cầu tái hiện kiến thức
và đánh giá qua điểm số, chưa chú ý đến đánh giá về kĩ năng, năng lực thái độ
qua một quá trình. Kiến thức chuẩn nặng nề khiến cho giáo viên duy trì lối
dạy học đọc chép và học sinh học thuộc lòng. Nhiều giáo viên biên soạn đề
kiểm tra chưa vận dụng đúng quy trình nên bài kiểm tra còn mang tính chủ
quan của người dạy. Hoạt động kiểm tra đánh giá ngay trong quá trình tổ
chức hoạt động dạy học trên lớp chưa thực hiện một cách khoa học. Các hoạt
động đánh giá định kì, đánh giá diện rộng cấp tỉnh, cấp quốc gia môn GDCD
chưa đồng bộ.
Nhiều học sinh chưa sẵn sàng để tham gia vào giờ học đổi mới. Các em
còn e ngại, rụt rè ngại thể hiện. Bên cạnh đó, từ nhỏ các em đã được tiếp cận
với cách học thụ động nên trở thành thói quen, lối mòn trong nhận thức.
Như vậy việc triển khai đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích
cực còn rất nhiều hạn chế đặc biệt từ giáo viên và học sinh. Tôi mạnh dạn
đưa ra nguyên nhân của những hạn chế này như sau:
Thứ nhất, nhận thức về phương pháp dạy học tích cực còn hạn chế:
Sự phát triển hay một cuộc cách mạng trong khoa học giáo dục thực chất là
tạo tiền đề để những nhân tố tích cực trong lòng cái cũ vẫn có cơ hội phát
triển, đồng thời tạo ra cái mới tiến bộ hơn, tốt hơn cái đã có. Cách mạng, đổi
mới không phải dung hòa để làm “hơi khác hay tương tự cái đã có” mà phải
có cái mới thực sự để đáp ứng được đòi hỏi của sự tiến bộ. Điều đó là tất
yếu, trước tiên là trong nhận thức của từng giảng viên.
Nhưng hiện nay, một bộ phận giáo viên chưa có nhận thức đúng
về phương pháp dạy học tích cực, cho rằng phương pháp dạy học này cũng
không có gì khác biệt nhiều so với phương pháp cũ, nên cứ dạy phương pháp
14
truyền thống: đọc chép, người dạy là trung tâm, miễn sao là mang lại hiệu quả,
học sinh hiểu bài, thi đậu, trả bài điểm cao là được. Nhận thức, suy nghĩ đơn giản
như vậy không chỉ không tạo ra cơ hội tiếp cận với phương pháp mới, hạn chế
trình độ, năng lực chuyên môn của giảng viên, mà còn ảnh hưởng, tác động tiêu
cực đến các thầy cô giáo khác ở cùng bộ môn, cùng trường luôn có nhu cầu tiến
thủ, muốn tiếp cận và khát khao đổi mới cách thức dạy học để thu hút, hấp dẫn
học sinh. Theo cách đó, những hạn chế trong nhận thức về phương pháp dạy học
này đã và đang là nhân tố kìm hãm người giáo viên tiến bộ, hạn chế chất lượng
giáo dục và đào tạo của các nhà trường.
Thứ hai, vận dụng phương pháp dạy học tích cực nhưng xác định mục
tiêu chưa rõ, còn thụ động trong quá trình dạy học: Trên thực tế, một số giáo
viên trong quá trình giảng dạy dù đã cố gắng đổi mới, vận dụng phương pháp
dạy học tích cực nhưng lúng túng, gợi mở không khéo, nhiều trường hợp lan
man, không định hướng sát với nội dung bài học. Có giáo viên đã cố gắng tìm
tòi, áp dụng các phương pháp như hỏi đáp, nêu, giả định các tình huống sư
phạm, tiến hành phân chia, thảo luận theo nhóm… nhưng nhìn chung vẫn rất
gượng ép, không linh hoạt, thiếu sức thu hút học sinh vì vậy hiệu quả chưa
cao.
Từ việc nhận thức về phương pháp dạy học tích cực còn hạn chế, cộng với
việc phương pháp giảng dạy tích cực phức tạp, yêu cầu cao, gắn với sử dụng các
phương tiện khoa học, kỹ thuật hỗ trợ. Phương pháp mới, như theo bài, theo chủ
đề… yêu cầu giáo viên phải tốn thời gian, phải vất vả tìm tòi, sáng tạo nhiều trong
khâu thiết kế, soạn bài, chuẩn bị, sử dụng nhiều phương án, tình huống sư phạm,
chuyên môn để dẫn dắt, gợi mở học sinh tìm hiểu, suy nghĩ, tư duy…
Để thành công với phương pháp mới đòi hỏi giáo viên cần chủ động trong
nội dung kiến thức, thiết kế giờ giảng, kiên trì và không ngừng học hỏi, trau dồi
thực tế, luôn vận dụng kiến thức đã có vào quan sát và ứng dụng vào thực
tiễn… Trong khi phương pháp truyền thống có phần nhẹ nhàng, đơn giản hơn.
Điều đó đã làm cho xu hướng tâm lý của một bộ phận giáo viên thích sử dụng
phương pháp cũ. Nghĩa là giáo viên không chủ động nghiên cứu, vận dụng
phương pháp dạy học mới, luôn ở trạng thái thụ động, nó đã và đang là rào cản,
kìm hãm sự phát triển năng lực, trình độ của giáo viên, làm cho phương pháp
dạy học mới không được phát huy, chất lượng giáo dục và đào tạo bị ảnh
hưởng.
15
Thứ ba, do áp lực thi cử: Hiện nay giáo dục Việt nam và xã hội quá đề
cao điểm số và thi cử, kết quả thi cử phản ánh phương pháp dạy học của giáo
viên. Vì thế nên giáo viên, học sinh, nhà quản lí và các lực lượng xã hội khác tập
trung toàn trí lực vào chất lượng thi cử, lượng kiến thức lĩnh hội sau mỗi bài học
là kĩ năng làm bài, điểm số, khả năng nhận thức của các em nhanh hay
chậm….chứ chưa thực sự quan tâm đến việc rèn luyện tính tự lập, tự giác, tự
học, đến các kĩ năng và năng lực phát triển khác của con người. Để tiếp thu và
truyền đạt được nhiều kiến thức thì giáo viên sẽ chọn phương pháp dạy học
truyền thống phù hợp nhất. Chính vì điều này mà nhiều học sinh Việt nam nhận
thức tốt so với học sinh các nước phát triển nhưng các kĩ năng mềm như làm
việc theo nhóm, tính tự lập, tự tin, giao tiếp, hợp tác, làm việc nhóm …. lại rất
hạn chế. Tuy nhiên những kĩ năng này rất cần thiết đối với người lao động thế
hệ mới, người lao động trong xu thế hội nhập toàn cầu, hợp tác cùng nhau phát
triển.
Thứ tư, nội dung chương trình môn GDCD dài, khó, trừu tượng: Vì
phục vụ cho thi cử và quan điểm phải được nhiều kiến thức sau mỗi giờ học
nên nội dung học còn nặng nề, khó, trừu tượng so với lứa tuổi mà chủ yếu là
học hàn lâm nên học sinh không hiểu bài. Trong một giờ học lượng kiến thức
quá nặng nề theo phân phối chương trình, vì vậy nếu giáo viên tổ chức các
hoạt động nhằm đổi mới phương pháp dạy học để học sinh tự lĩnh hội kiến
thức sẽ mất nhiều thời gian, không đảm bảo được nội dung kiến thức theo
mục tiêu bài học. Lượng kiến thức nhiều như hiện nay tổ chức dạy học theo
phương pháp thụ động mới có thể truyền tải hết kiến thức cho học sinh.
Nội dung môn GDCD lớp 10 bao gồm triết học và đạo đức lớp 10. Nội
dung chương trình rất nhiều khái niệm và toàn bộ là kiến thức mới, học sinh
chưa được tiếp cận trước đó, lại là kiến thức khái quát và trừu tượng nên
việc áp dụng đổi mới phương pháp sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực nhằm
đổi mới phương pháp học đối với học sinh là rất khó khăn.
Giáo viên còn hạn chế rất nhiều về sử dụng công nghệ thông tin và các
thiết bị dạy học hiện đại. Trong thời kì bùng nổ công nghệ thông tin, phương
tiện dạy học hiện đại giáo viên có thể sử dụng công nghệ hiện đại vào phục
vụ cho quá trình giảng dạy, tuy nhiên giáo viên còn rất yếu trong việc tiếp
cận và sử dụng những thiết bị này đặc biệt giáo viên GDCD.
Thứ năm, do tâm lí môn GDCD là môn phụ, là môn chỉ để xét tốt
nghiệp: Học sinh hiện nay chạy theo thành tích thi cử, các em chỉ quan tâm
16
đến những môn học thi để xét Đại học. Chính tâm lí này làm cho học sinh
không hứng thú, nặm mà lắm trong việc học tập bộ môn. Nhiều giáo viên
cũng có suy nghĩ môn GDCD là môn phụ chỉ cần học có đủ điểm, đủ điều
kiện để lên lớp hay xét tốt nghiệp nên giáo viên chỉ cần đọc chép cho đủ
kiến thức theo yêu cầu không cần phải đổi mới làm gì cho vất vả.
Thứ sáu, thiếu biện pháp tích cực hóa học sinh; cơ sở vật chất, trang
thiết bị thiếu, lỗi thời… Nhiều học sinh có thói quen lười làm bài tập, học bài,
ngại tư duy trong quá trình học, nhất là những học sinh lớp 10 khi tiếp xúc với
những môn học có tính lý luận, trừu tượng cao như Triết học, ... học sinh phần
nhiều ảnh hưởng lớn của phương pháp dạy học cũ, vẫn là trong giờ học, thầy
giảng trò nghe và ghi chép. Sự thiếu tích cực trong học tập của học sinh cũng
làm giảm sự nhiệt tình của giáo viên và như vậy việc dạy và học trở nên nhàm
chán, mang tính đối phó. Phương pháp dạy học tích cực thực chất là đi vào
khắc phục những hạn chế, thiếu sót đó. Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả lại
phụ thuộc vào khả năng tích cực hóa sinh viên của giáo viên.
Giáo viên hiện nay không chỉ là người truyền thụ kiến thức mà còn là người
hỗ trợ học sinh, hướng dẫn tìm chọn và xử lý thông tin. Vị trí của nhà giáo không
phải được xác định bằng sự độc quyền về thông tin và tri thức có tính đẳng cấp mà
bằng trí tuệ và sự từng trải của mình trong quá trình dẫn dắt học sinh tự học.
Để áp dụng phương pháp dạy học tích cực có hiệu quả đòi hỏi cơ sở
vật chất, trang thiết bị phải đầy đủ và đáp ứng phù hợp với thực tiễn.
Chương trình, nội dung đào tạo đổi mới phải đồng bộ với hệ thống cơ sở vật
chất, trang thiết bị. Nhưng hiện nay kinh phí đầu tư còn hạn hẹp. Nhiều bài
dạy giáo viên muốn có thêm một số phương tiện, vật dụng, đồ dùng khác thì
gặp khó khăn, trong khi áp lực công việc tại trường học ngày càng nhiều.
Lớp học diện tích hẹp số lượng học sinh lại đông (khoảng 40 45 học
sinh/ 1 lớp), các lớp học không có cách âm, không có hệ thống cửa khép kín.
Khi thực hiện đổi mới giờ học, học sinh cần phải tham gia vào các hoạt động
nên sẽ tạo ra sự ồn ào, mất trật tự sẽ ảnh hưởng đến các lớp bên cạnh.
Phòng học đã được trang bị công nghệ thông tin nhưng chưa đồng đều và
đồng bộ, chưa khai thác được các tiện ích của những thiết bị dạy học hiện
đại vào giờ dạy. Tất cả những lý do đó phần nào khiến chất lượng một bài
giảng bị giảm đi và trở thành rào cản trong việc vận dụng phương pháp dạy
học tích cực của giáo viên.
17
Thứ bảy, về phía các nhà lãnh đạo có thẩm quyền. Lãnh đạo nhiều nhà
trường và sở hiện nay chưa nhận thức đúng về việc đổi mới dạy học và bản
chất của vấn đề đổi mới phương pháp. Chỉ đề cao những môn thi học sinh giỏi,
xét Đại học mà không quan tâm đến các môn được cho là môn phụ. Trong triển
khai đổi mới còn chứa nhiều mâu thuẫn như vừa muốn học sinh học theo hướng
phát triển năng lực, kĩ năng lại vừa muốn học sinh nắm bắt được thật nhiều
kiến thức từ cơ bản đến nâng cao để phục vụ cho thi cử. Khuyến khích đổi mới
phương pháp dạy học nhưng khi nhận xét giờ học thiên về nhận xét giáo viên,
về nội dung kiến thức xem giáo viên dạy đúng hay sai, đủ hay thiếu.
5.6.1.4. Một số giải pháp khắc phục hạn chế trong việc đổi mới
phương pháp dạy học môn GDCD ở trường THPT.
a, Đối với giáo viên
Thầy, cô giáo phải được đào tạo nghiêm ngặt để thích nghi với những đổi
thay về chức năng, nhiệm vụ rất khó khăn và phức tạp của mình, nhiệt tình với
công cuộc đổi mới giáo dục. Thầy giáo vừa phải có kiến thức chuyên môn sâu
rộng, có kiến thức sư phạm lành nghề, biết ứng xử tinh tế, biết sử dụng các
công nghệ tin vào dạy học, biết định hướng phát triển của học sinh theo mục
tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được sự tự do của học sinh trong hoạt động
nhận thức.
Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống
Trước hết người giáo viên cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng
thành thạo các kỹ thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài
lên lớp, chẳng hạn như kỹ thuật mở bài, kỹ thuật trình bày, giải thích trong khi
thuyết trình, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu trả lời trong đàm thoại,
hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học
truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy
học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới, đặc biệt
là những phương pháp và kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo
của học sinh.
Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học
Việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn
bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và
nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đôi và dạy
học cá thể là những hình thức xã hội của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi một
18
hình thức có những chức năng riêng. Tình trạng độc tôn của dạy học toàn lớp và
sự lạm dụng phương pháp thuyết trình cần được khắc phục, đặc biệt thông qua
làm việc nhóm.
Tuy nhiên hình thức làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở
việc giải quyết các nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình, mà
còn có những hình thức làm việc nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp,
có thể chiếm một hoặc nhiều tiết học, sử dụng những phương pháp chuyên
biệt như phương pháp đóng vai, nghiên cứu trường hợp, dự án.Mặt khác, việc
bổ sung dạy học toàn lớp bằng làm việc nhóm xen kẽ trong một tiết học mới
chỉ cho thấy rõ việc tích cực hóa “bên ngoài” của học sinh. Muốn đảm bảo
việc tích cực hóa “bên trong” cần chú ý đến mặt bên trong của phương pháp
dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề và các phương pháp dạy học
tích cực khác.
Đổi mới cách đánh giá kết quả học hỏi của học sinh. Đánh giá là một khâu
quan yếu chẳng thể thiếu được trong qúa trình giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai
đoạn sau cuối của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở nên khởi điểm của một giai đoạn
giáo dục tiếp theo với đề nghị cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một qúa trình
giáo dục.
Đánh giá kết quả học tập là qúa trình thu nhặt và xử lí thông tin về trình
độ, khả năng thực hành mục đích học tập của học trò về tác động và căn
nguyên của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của
giáo viên và nhà trường cho bản thân học trò để học trò học tập càng ngày
càng phát triển theo hướng đi lên hơn.
Đổi mới biện pháp dạy học được chú trọng để đáp ứng những đề nghị
mới của mục đích nên việc kiểm tra, đánh giá phải biến chuyển mạnh theo
hướng phát triển trí sáng dạ sáng tạo của học trò, xứng đáng được đề nghị hoặc
đề xuất áp dụng mẫn tiệp các tri thức năng lực đã học vào những cảnh huống
thực tiễn, làm biểu lộ những xúc cảm, thái độ hoài nghi của học trò trước những
vấn đề nóng hổi của hoàn cảnh sống cá nhân chủ nghĩa , gia đình và cộng đồng.
Chừng nào việc kiểm tra, đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo học tập bị động thì
chưa thể phát triển dạy và học tích cực. Hợp nhất với quan điểm đổi mới đánh
giá như trên việc kiểm tra, đánh giá sẽ hướng vào việc bám sát mục đích của
từng bài, từng chương và mục đích giáo dục của môn học ở tầng lớp cấp. Các
câu hỏi bài tập sẽ đo được mức độ thực hành các mục đích được xác định.
19
Hướng tới đề nghị kiểm tra đánh giá công bình, khách quan kết quả học
tập của học trò, bộ công cụ đánh giá sẽ được sửa sang các hình thức đánh giá
khác như đưa thêm dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm; chú ý hơn tới đánh giá cả
qua trình lĩnh hội tri thức của học trò, quan tâm tới mức độ hoạt động hăng hái,
chủ động của học trò trong từng tiết học, kể cả ở tiết hấp thu tri thức mới lẫn
tiết thực hành, thử nghiệm. Điều này đòi hỏi giáo viên bộ môn đầu tư nhiều công
sức hơn cũng như công tâm hơn. Lãnh đạo nhà trường cần quan hoài và giám sát
hoạt động này.
Khai thác yếu tố tích cực của biện pháp dạy học truyền thống. Đối
mới biện pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học
sinh không có nghĩa là gạt bỏ, loại trừ, thay thế hoàn toàn các biện pháp dạy
học truyền thống, hay phải “nhập nội” một số biện pháp xa lạ vào qúa trình
dạy học. Mà là ở chỗ cần kế thừa, phát triển những mặt tích cực của biện
pháp dạy học hiện có, song song phải học hỏi, áp dụng một số biện pháp dạy
học mới một cách có hiệu quả nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng
tạo của học sinh trong học tập, phù hợp với tình cảnh điều kiện dạy và học
cụ thể.
Có quan điểm đúng đắn về vai trò môn GDCD, về phương pháp học tập
và làm việc, có quan điểm lập trường vững chắc với suy nghĩ và sự lựa chọn
của mình. Xác định được động cơ học tập cho bản thân từ đó đưa ra mục tiêu
phấn đấu.
Những yếu tố của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã đặt con
người trước cuộc cạnh tranh việc làm và chinh phục trí tuệ nhân tạo, robot.
Để có thể đương đầu với thách thức khi nước ta thực sự bước vào cuộc cách
mạng công nghiệp này, học sinh phải chuẩn bị cho mình tri thức về công
nghệ thông tin và trình độ ngoại ngữ tốt, kỹ năng mềm thành thạo và kinh
nghiệm làm việc thực tế để mở ra cánh cửa bước vào sân chơi toàn cầu hóa.
Khi đã xác định được động cơ, mục tiêu học tập cần phải quyết tâm thực
hiện. Học sinh hứng thú, yêu thích môn học, tham gia các hoạt động nhiệt tình hiệu
quả. Vận dụng tốt những kiến thức đời sống và trong học tập để thực hiện các
hoạt động của giáo viên yêu cầu, sao cho tiếp thu được kiến thức một cách tối đa,
chủ động.
b, Đối với cơ quan lãnh đạo các cấp
Đối với lãnh đạo Nhà trường
20