Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

SKKN: Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (969.1 KB, 50 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến: Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực  
tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10

Vĩnh Phúc, 2020


PHỤ LỤC
1. Lời giới thiệu…………………………………………………………………
1
2. Tên sáng 
kiến………………………………………………………………...3
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến …………………………………………… 
…..3
4. Ngày sáng kiến kinh nghiệm áp dụng lần 
đầu………………………………3
5. Mô tả bản chất của sáng 
kiến………………………………………………..3
5.1. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………
3
5.2. Đối tượng nghiên 
cứu…………………………………………………...3
5.3. Phương pháp nghiên cứu và thời gian nghiên cứu……………………
4
5.3.1. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………
4
5.3.2. Thời gian nghiên 
cứu……………………………………………..4
5.3.3. Kế hoạch nghiên 
cứu……………………………………………...4


5.4. Khả năng phát triển và ứng dụng thực 
tế………………………………4
5.5. Hiệu quả…………………………………………………………………
4
5.6. Nội dung của sáng kiến…………………………………………………
5
5.6.1. Cơ sở lí 
luận……………………………………………………….5


5.6.1.1. Phương pháp dạy học tích cực……….
………………….5
5.6.1.2. Những thành tựu trong đổi mới giảng 
dạy………….....11
5.6.1.3. Những hạn chế trong đổi mới phương 
pháp…………...12
5.6.1.4. Một số giải pháp khắc phục hạn 
chế…………………...17
5.6.2. Đổi mới phương pháp dạy học trong chuyên 
đề………………..21
5.6.2.1. Nội dung chủ yếu của chuyên đề………………………
21
5.6.2.2. Mục tiêu của chuyên 
đề………………………………...21
5.6.3.3. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh……………………
22
5.6.3.4. Phương pháp và kĩ thuật dạy học………………………
22
5.6.2.5. Nội dung đổi mới phương pháp dạy 
học……………….23

5.6.2.6. Kết 
luận……………………………………………….....37
5.7. Về hiệu quả và khả năng áp dụng sáng 
kiến……………………….....37
6. Những thông tin cần bảo 
mật……………………………………………...39
7. Các điều kiện cần thiết áp dụng sáng 
kiến…………………………….......39
8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự 
kiến…………………………………...39


9. Đánh giá lợi ích thu được …... ý kiến tác 
giả……………………………...40
10. Đánh giá lợi ích thu được… ý kiến các tổ chức, cá 
nhân……………….40
11. Danh sách các tổ chức, cá 
nhân………………………………………….40

DANH MỤC VIẾT TẮT


Chữ viết tắt

Đọc là

GDCD

Giáo dục công dân


HS

Học sinh

GV

Giáo viên

PPDH

Phương pháp dạy học

THPT QG

Trung học phổ thông quốc gia

KTDH

Kĩ thuật dạy học

SGK

Sách giáo khoa


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. LỜI GIỚI THIỆU 
Đất nước ta đã và đang trên đà phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa, 
thế giới bước vào thời kì 4.0 với những công nghệ vô cùng hiện đại. Vì vậy vấn 

đề chất lượng nguồn lực con người là vấn đề rất cần được quan tâm. Đổi mới 
phương pháp giảng dạy là một trong những yêu cầu cấp thiết đối với ngành 
giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, là sự sống còn của mỗi 
cơ sở đào tạo.
Phương pháp giảng dạy là yếu tố quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến 
chất lượng đào tạo. Phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ  tạo điều 
kiện để  giáo viên và người học phát huy hết khả  năng của mình trong việc 
truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và phát triển tư  duy. Phương pháp giảng dạy 
khoa học sẽ  làm thay đổi vai trò của người thầy đồng thời tạo nên sự  hứng  
thú, say mê và sáng tạo của người học.
Phương pháp giảng dạy truyền thống là phương pháp mà trong đó 
chủ yếu là thầy nói ­ trò nghe. Ngay tận thập niên 1990, phương pháp này vẫn 
đang chi phối mạnh  ở các trường trong cả nước. Học sinh thường phải ngồi  
nghe liên tục trong một khoảng thời gian dài. Trong phương pháp này, giáo 
viên dạy và học sinh  được dạy; giáo viên biết mọi thứ và học sinh không biết 
gì; giáo viên suy nghĩ và học sinh buộc phải nghĩ theo cách của giáo viên; giáo 
viên nói và học sinh lắng nghe; giáo viên quyết định (chọn lựa) và học sinh 
phải làm theo. Nhìn chung, giáo viên là chủ thể còn học sinh là khách thể của  
quá trình dạy ­ học. Giáo viên quan tâm trước hết đến việc truyền đạt kiến 
thức,   hướng   đến  mục  tiêu  làm  cho  học  sinh   hiểu  và  ghi  nhớ   kiến  thức. 
Phương pháp này ít quan tâm đến việc phát triển tư duy, huấn luyện kỹ năng  
và rèn luyện thái độ  cho người học. Nó dẫn đến tình trạng hầu hết học sinh  
học tập thụ  động. Hậu quả  của phương pháp giảng dạy cũ dẫn đến sự  thụ 
động của người học trong việc tiếp cận tri thức. Sự thụ động này là nguyên 
nhân tạo cho người học sự  trì trệ, ngại đọc tài liệu, ngại tranh luận, thiếu 
khả  năng thuyết trình, lười tư  duy và thiếu tính sáng tạo trong tư  duy khoa  
học.  Người học còn quan niệm rằng chỉ  cần học những gì giáo viên giảng 
trên lớp là đủ. Ngoài ra sự  thụ  động của họ  còn thể  hiện qua phản  ứng của  
họ  đối với bài giảng của giáo viên trên lớp. Họ  chấp nhận tất cả  những gì  
1



giáo viên trình bày. Sự giao tiếp trao đổi thông tin trong lớp học hầu như chỉ 
mang tính một chiều.
Đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ cung cấp những cơ hội đặc biệt để 
nhận thức rõ những giá trị quan trọng, thực chất trong cuộc sống. Điều đó làm  
tăng khả  năng mà thực ra là yêu cầu giáo viên không ngừng nâng cao trình độ 
hiểu biết. Vì vậy, vai trò mới của người giáo viên trở thành nhân tố kích thích trí 
tò mò của học sinh, mài sắc thêm năng lực nghiên cứu độc lập, tăng cường khả 
năng tổ  chức, sử  dụng kiến thức và khả  năng sáng tạo. Việc áp dụng các 
phương pháp giảng dạy mới đòi hỏi phải có  những tài liệu dạy ­ học mới. 
Những tài liệu này phải gắn với các phương pháp kiểm tra mới nhằm khuyến  
khích không chỉ khả năng nhớ mà cả khả năng hiểu, các kỹ năng thực hành và  
sáng tạo của học sinh. 
Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy phát triển năng lực, 
phẩm chất người học đang được nhiều giáo viên thực hiện. Đổi mới hương 
pháp giảng dạy không có nghĩa là loại trừ  phương pháp thuyết giảng. Thực 
chất đó là sự  kết hợp hài hoà nhuần nhuyễn giữa thuyết giảng và đối thoại 
với mục tiêu phát huy cao độ  tính tích cực, năng động, độc lập, sáng tạo của  
người học. Với phương pháp này yêu cầu người giảng không chỉ  nắm vững 
những vấn đề cần trình bày mà còn phải rất năng động nhạy bén và sáng tạo 
ngay trong giờ giảng, trên cơ sở đó người giảng có thể truyền thụ những vấn  
đề cần thiết cơ bản đến người học một cách tự nhiên, sinh động và hứng thú. 
 
Việt  Nam  chúng  ta  đứng  trước  những cơ   hội  mới  nhưng cũng  gặp 
không ít những thách thức khó khăn. Chính vì thế  ngành giáo dục phải đổi 
mới thì mới nâng cao được nguồn lực con người, trong đó một việc quan  
trọng và cần thiết là đổi mới phương pháp giảng dạy.
Môn GDCD trong trường THPT từ trước đến nay đều bị coi là môn học  
phụ, không có vị  trí quan trọng đối với học sinh, giáo viên, các cấp quản lí.  

Với quan điểm của giáo viên bộ  môn, cá nhân tôi nhận thấy môn GDCD lớp 
10 rất quan trọng để hình thành thế giới quan và phương pháp luận và những 
quan điểm đúng đắn về đạo đức trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, 
giữa cá nhân và xã hội. Học sinh có những quan điểm đúng đắn thì xã hội sẽ 
có những công dân tốt, là động lực thúc đấy phát triển xã hội.

2


Bài 7­ GDCD lớp 10 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức” 
­ là nội dung thuộc triết học duy vật lịch sử mang tính khái quát và trừu tượng 
cao. Học sinh biết được quá trình  nhận thức và vai trò của thực tiễn, từ đó vận  
dụng vào quá trình học tập và đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân tạo nên 
những thành công cho cá nhân và cho xã hội.  Bài 7­ GDCD là một trong những  
bài học có vai trò quan trọng trong chương trình GDCD lớp 10 và cũng có vai trò  
quan trọng trong hình thành thế  giới quan, phương pháp luận của cá nhân. Do 
yêu cầu nâng cao chất lượng giảng dạy, chất lượng học tập của học sinh, sở 
giáo dục đào tạo Vĩnh Phúc kiểm tra học kì theo đề chung của sở và thực hiện  
chuẩn quy chế coi thi nên cần tiếp thu kiến thức một cách thực sự.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: Đổi mới phương  
pháp dạy học bài 7 “thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”,  
GDCD lớp 10. Để góp phần thực hiện yêu cầu đổi mới nội dung và PPDH theo 
hướng phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh,phát huy tính tích cực học tập  
của HS.
2. TÊN SÁNG KIẾN 
Đổi mới phương pháp dạy học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực  
tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10. Đổi mới phương pháp dạy học theo  
hướng phát triển năng lực và phẩm chất  của học sinh trong bài  “Thực tiễn  
và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10.
3. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN 

­  Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:  Đổi mới phương pháp dạy học bài 7  
“thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10.
­ Vấn đề mà sáng kiến giải quyết: Đổi mới phương pháp dạy học bài  
7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”, GDCD lớp 10.
4.  NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU HOẶC ÁP DỤNG  
THỬ 
Tháng 8 năm 2019
5. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN 
5.1. Mục đích nghiên cứu 
­ Nghiên cứu và áp dụng vào thực tế giảng dạy trên lớp trong bài 7 “Thực 
tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”.

3


­ Nghiên cứu đề tài khẳng định Đổi mới phương pháp dạy học  bài 7 “Thực  
tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức”,  GDCD lớp 10  ­   là một hướng 
tiếp cận hiệu quả trong việc dạy bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với 
nhận thức” môn GDCD lớp 10.
5.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
 Bài nghiên cứu đã được triển khai với học sinh của lớp 10 qua năm học 2018 ­  
2019, 2019 ­ 2020.
5.3. Phương pháp và thời gian nghiên cứu
5.3.1. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu này tôi đã thực hiện các phương  pháp sau:
­ Phương pháp trải nghiệm thực tiễn: Tổ  chức các hoạt động đổi mới 
giảng dạy trên các lớp được Nhà trường phân công. 
­
 
Phương pháp quan sát: Tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, dự giờ thăm lớp của 

đồng nghiệp.
­   Phương pháp trao đổi, thảo luận: Trao đổi, thảo luận, rút kinh nghiệm từ 
đồng nghiệp.
­ Phương pháp so sánh đối chiếu: Kết quả kiểm tra chuyên đề của học sinh đưa ra  
nhận xét, rút kinh nghiệm trong giảng dạy.
­ Phương pháp thăm dò ý kiến của học sinh: Phát phiếu thăm dò để biết  ý kiến  
của học sinh về đổi mới phương pháp dạy và học, giáo viên tổng kết ý kiến đưa ra 
những quyết định phù hợp.
5.3.2. Thời  gian nghiên cứu
 Đề tài này đã được tiến hành từ tháng 8 năm 2018 đến nay.
5.3.3. Kế hoạch nghiên cứu
Với nhiều năm giảng dạy môn GDCD, vừa tìm tòi, học hỏi về  kiến 
thức, phương pháp giảng dạy, sau đó áp dụng phương pháp và kĩ thuật tích 
cực vào thực thiễn giảng dạy. Trong quá trình áp dụng đổi mới phương pháp 
giảng dạy tự  mình khảo sát tình hình thực tế  rồi tự  đưa ra kết luận về  tính 
khả  thi của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Ngoài ra tôi đã học hỏi 
kinh nghiệm từ các đồng nghiệp. Từ  đó, rút ra kinh nghiệm đổi mới phương 
pháp dạy học, trong giờ học học sinh sẽ là trung tâm, tự học, tự lĩnh hội kiến 
thức để nâng cao sự hiểu biết và vận dụng kiến thức vào thực tiễn đời sống. 
4


5.4. Khả năng phát triển, ứng dụng thực tế
­ Trong sáng kiến này tôi đề cập đến việc giúp giáo viên giảng dạy môn 
GDCD tham khảo một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo nên 
sự hứng thú cho học sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và nâng cao chất  
lượng môn GDCD.
­ Các phương pháp mang tính khả thi cao phù hợp mọi đối tượng học sinh, các 
nhà trường. 
5.5. Hiệu quả

Áp dụng sáng kiến này học sinh học bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực 
tiễn đối với nhận thức” sẽ tích cực chủ động và hứng thú hơn trong tiếp thu kiến  
thức.
5.6. Về nội dung của sáng kiến
5.6.1. Cơ sở lí luận
5.6.1.1. Phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học (PPDH) là lĩnh vực rất phức tạp và đa dạng. Có 
nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về PPDH. PPDH được hiểu là cách thức,  
là con đường hoạt động chung giữa GV và HS, trong những điều kiện dạy học  
xác định, nhằm đạt tới mục đích dạy học.
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ  rút 
gọn, được dùng  ở  nhiều nước để  chỉ  những phương pháp giáo dục, dạy học 
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng tạo của người học. “Tích 
cực” trong PPDH ­ tích cực được dùng với tức là hoạt động, chủ  động, trái 
nghĩa với không hoạt động, thụ  động chứ  không dùng theo nghĩa trái với tiêu  
cực.
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động 
nhận thức của người học, tức là tập trung vào phát huy tính tích cực của người 
học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy  
nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so  
với dạy theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ  đạo cách 
học, nhưng trái lại thói thường học tập của trò cũng  ảnh hưởng tới cách dạy 
của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt 
động nhưng thầy giáo chưa đáp  ứng được, hoặc có trường hợp thầy giáo tích  
5


cực vận dụng PPDH tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích  
nghi, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì thế, thầy giáo phải bền chí dùng 

cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập  
chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy  
học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp ăn nhịp hoạt động dạy  
với hoạt động học thì mới thành công. Như vậy, việc dùng thuật ngữ “Dạy và 
học tích cực” để phân biệt với “Dạy và học thụ động”.
Trên thực tiễn, trong qúa trình dạy học người học vừa là đối tượng của  
hoạt động dạy, lại vừa là chủ  thể  của hoạt động học. Phê chuẩn hoạt động  
học, dưới sự  chỉ  đạo của thầy, người học phải hăng hái chủ  động cải biến 
chính mình về  tri thức, năng lực, thái độ  hoài nghi, hoàn thiện nhân cách, 
không ai làm thay cho mình được. Bởi vậy, nếu người học không tự giác chủ 
động, không chịu học, không có biện pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy  
học sẽ rất hạn chế.
Như vậy, khi đã chú trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học thì  
dĩ nhiên phải phát huy tính hăng hái chủ động của người học. Tuy nhiên, dạy 
học lấy học trò làm trọng tâm không phải là một biện pháp dạy học cụ  thể. 
Đó là một tư tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy học  
chi phối tất cả qúa trình dạy học về mục đích, nội dung, biện pháp, công cụ,  
tổ chức, đánh giá… chứ không phải chỉ liên quan đến biện pháp dạy và học.
 Đặc điểm của các biện pháp dạy học tích cực.
* Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Trong phương pháp dạy học tích cực, người học ­ đối tượng của hoạt động 
“dạy”, song song là chủ thể của hoạt động “học” ­ được cuốn hút vào các hoạt động  
học tập do thầy giáo tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều 
mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp nhận những kiến thức đã được thầy  
giáo sắp xếp. Được đặt vào những tình huống của thực tế, người học trực tiếp quan  
sát, bàn bạc, làm thí nghiệm, giải quyết sự tình đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ 
đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến  
thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy 
tiềm năng sáng tạo.
Dạy theo cách này thì thầy giáo không chỉ  đơn giản truyền đạt kiến  

thức mà còn hướng dẫn học sinh hoạt động. Chương trình dạy học phải giúp 

6


cho từng học sinh biết hoạt động và tích cực dự khán các hoạt động của cộng 
đồng.
* Dạy và học coi trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho  
học sinh không chỉ là một phương pháp nâng cao công hiệu dạy học mà còn là 
một mục tiêu dạy học. Trong tầng lớp hiện đại đang biến đổi nhanh ­ với sự 
phát triển khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão ­ thì không thể 
nhồi nhét vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải 
quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học ngay từ  bậc Tiểu học và càng 
lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng.
Trong các phương pháp học thì then chốt là phương pháp tự  học. Nếu 
rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói thường, (lập 
trường tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong 
mỗi con người) cuối cùng học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì thế, ngày nay 
người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong qúa trình dạy học, nỗ  lực tạo  
ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề tự 
học ngay trong trường phổ thông, không chỉ  tự  học  ở  hậu đường bài lên lớp 
mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.
* Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong một lớp học mà kiến thức, tư  duy của học sinh không thể  đồng 
đều tuyệt đối thì khi vận dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp thuận  
sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn tất nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài 
học được thiết kế thành một xâu công việc độc lập. 
Áp dụng biện pháp tích cực càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc  
sử  dụng các phương tiện công nghệ  thông cáo trong nhà trường sẽ  đáp  ứng 

đề nghị cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học 
sinh.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi kiến thức, tài năng, thái độ 
hoài nghi đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp  
học là môi trường tiếp xúc với nhau thầy ­ trò, trò ­ trò, tạo nên mối quan hệ 
hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung tri thức. Phê 
duyệt đàm luận, tranh luận trong tập thể, quan điểm mỗi cá nhân được thổ 
lộ, tự  tin tuyên bố  hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ 

7


mới. Bài học  ứng dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của người 
thầy giáo.
* Kết hợp đánh giá thầy với tự đánh giá của trò trong quá trình dạy học tích  
cực.
Trong dạy học, việc đánh giá học trò không chỉ  nhằm mục đích nhận  
định thực trạng và sắp xếp hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo hoàn  
cảnh nhận định thực trạng và sắp xếp hoạt động dạy của thầy.
Trước đây, giáo viên giữ  độc quyền đánh giá học trò. Trong phương 
pháp tích cực, giáo viên phải chỉ dẫn học trò phát triển tài năng tự đánh giá để 
tự  sắp xếp cách học. Liên tưởng với điều này, giáo viên cần tạo hoàn cảnh 
thuận tiện để học trò được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự  đánh giá đúng và 
sắp xếp hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự  thành đạt trong cuộc 
sống mà nhà trường phải trang bị  cho học sinh. Theo hướng phát triển các 
phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng động, sớm thích ứng 
với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá chẳng thể dừng lại ở tái hiện 
các tri thức, lặp lại các tài năng đã học mà phải xứng đáng được đề nghị hoặc 
đề  xuất trí sáng ý, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực  
tế.

Với sự trợ giúp của các thiết bị nghệ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không 
còn là một nghề nghiệp nặng nhọc đối với giáo viên, song cho nhiều thông tin  
kịp thời hơn để sửa đổi hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và học bị động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng  
vai trò thuần tuý là người truyền đạt tri thức, giáo viên trở nên người thiết kế, tổ 
chức, chỉ dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học trò tự lực chiếm  
lĩnh nội dung học hỏi, chủ động đạt các mục đích tri thức, năng lực, thái độ hoài 
nghi theo đề nghị của thời hạn. Trên lớp, học trò hoạt động là chính, giáo viên có  
vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công 
sức, thời kì rất nhiều so với kiểu dạy và học bị động mới có khả năng thực hành 
bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, cổ vũ, cố vấn, trọng tài trong các 
hoạt động tìm tòi háo hức, tranh cãi rầm rộ của học trò. Giáo viên phải có trình độ 
chuyên trị sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có khả năng tổ chức, chỉ 
dẫn các hoạt động của học trò mà nhiều khi biến diễn ngoài tầm dự  kiến của  
giáo viên.

8


So sánh đặc điểm của dạy học truyền thống và dạy học tích cực như  
sau:
Dạy học truyền thống

Các mô hình dạy học tích cực

Quan 
niệm

Học   là   qúa   trình   hấp 
thụ và lĩnh   hội,   qua   đó 

hình   thành   kiến   thức, 
năng lực, tư  tưởng, tình 
cảm.

Học là qúa trình  kiến tạo; học trò tìm tòi, 
khám phá, phát hiện, tập luyện, khai khẩn 
và xử lí thông tin , … tự hình thành thông 
hiểu, năng lực và phẩm chất.

Bản 
chất

Truyền   thụ tri   thức,  Tổ  chức hoạt   động nhận thức của học 
truyền thụ và chứng minh  trò. Dạy học trò cách tìm ra chân lí.
chân lí của giáo viên.

Mục 
đích

Chú   trọng cung   cấp tri 
thức, năng lực. Học để 
đối phó với thi cử . Sau 
khi thi xong những điều 
đã   học   thường   bị   bỏ 
quên hoặc ít dùng đến.

Nội 
dung

Từ   sách   giáo   khoa   +  Từ nhiều nguồn khác nhau: SGK, GV, các 

giáo viên
tài liệu khoa học liên quan, thử  nghiệm, 
thực tế…gắn với:

Chú  trọng hình  thành các  năng lực (sáng 
tạo,   hợp   tác…)   dạy biện   pháp và nhận 
thức  khoa học, dạy cách học. Học để đáp 
ứng những đề nghị của cuộc sống hiện nay 
và tương lai. Những điều đã học cần thiết, 
hữu ích cho bản thân học trò và cho sự phát 
triển xã hội.

­ Vốn thông hiểu, kinh nghiệm và nhu 
cầu của HS.
­ Tình huống thực tiễn, bối cảnh và môi 
trường địa phương.
­ Những vấn đề học trò quan tâm.
biện 
pháp

Các   biện   pháp diễn  Các biện pháp tìm tòi, điều tra, giải quyết 
giảng,   truyền   thụ   tri  vấn đề; dạy học tương tác.
thức một chiều.

Hình 
Cố  định: giới hạn trong 
thức   tổ  4   bức   tường   của   lớp 
chức
học, giáo viên đối diện 
với cả lớp.


Cơ  động, linh hoạt: Học  ở  lớp,  ở  phòng 
thử   nghiệm,   ở   hiện   trường,   trong   thực 
tế… , học cá nhân chủ nghĩa, học đôi bạn, 
học theo cả  nhóm, cả  lớp đối diện với 
9


giáo viên.
Một số phương  pháp dạy học tích cực phổ quát
* Phương pháp vấn đáp
Vấn đáp (đàm thoại) là biện pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học 
sinh trả lời, hoặc học sinh có thể bàn cãi với nhau và với cả giáo viên; qua đó học 
sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Chứng cứ  vào thuộc tính hoạt động nhận 
thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp.
* Phương pháp đặt vấn đề và giải quyết vấn đề
Trong một tầng lớp đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh 
tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề  nảy sinh  
trong thực tế  là một năng lực đảm bảo sự  thành công trong cuộc sống, đặc  
biệt trong kinh doanh. Vì thế, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và 
giải quyết những vấn đề  gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá  
nhân, nhà ở và cộng đồng không chỉ  cố  ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học  
mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo. 
Trong dạy học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, học trò vừa 
nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát 
triển tư duy hăng hái, sáng tạo, được để  sẵn một năng lực thích ứng với đời  
sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề phát sinh.
* Phương pháp hoạt động nhóm
Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích, nội 
dung của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia không hẹn hay có chủ tâm, được 

duy trì yên ổn hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ 
hay những nhiệm vụ khác nhau.
Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có xác xuất phân 
việc mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm 
việc hăng hái, chẳng thể ỷ lại vào một đôi người hiểu biết và năng động hơn. 
Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí 
thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết 
quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước 
toàn lớp, nhóm có cử  ra một đại diện hoặc phân việc mỗi thành viên trình bày  
một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp. 

10


Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm san sẻ  các 
băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng 
cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có xác xuất nhận rõ trình độ  hiểu 
biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học 
trở nên quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp thụ bị động từ giáo 
viên.
Thành công của bài học phụ thuộc vào sự nồng nhiệt tham gia của mọi 
thành viên, vì vậy phương pháp này còn gọi là phương pháp cùng tham gia. 
Tuy nhiên, phương pháp này bị  ngăn lại trong một giới hạn nhất định bởi  
không gian  phạm vi nhỏ của lớp học, bởi thời kì hạn định của tiết học, thành 
thử  giáo viên phải biết tổ  chức hợp lý và học trò đã khá quen với phương  
pháp này thì mới có kết quả. Cần nhớ  rằng, trong hoạt động nhóm, tư  duy  
hăng hái của học trò phải được phát huy và tác phong quan yếu của phương  
pháp này là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong tổ  chức lao 
động. Cần tránh xu hướng hình thức và xơ cua lạm dụng, quan niệm cho rằng 
tổ  chức hoạt động nhóm là dấu hiệu điển hình nhất của đổi mới PPDH và  

hoạt động nhóm càng nhiều thì chứng tỏ phương pháp dạy học càng đổi mới.
* Phương pháp đóng vai
­ Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học trò thực hành một số cách xử sự 
nào đó trong một tình huống giả định. Phương pháp đóng vai có những điểm tích cực  
sau:
+ Học trò được rèn luyện thực hành kĩ năng ứng xử và giãi bày thái độ hoài nghi 
trong môi trường không có các mối nguy hiểm, rủi ro trước khi thực hành thực tiễn.
+ Gây hứng thú và chú ý cho học trò.
+ Tạo hoàn cảnh và phát huy tính sáng tạo của học trò.
+ Khích lệ sự thay đổi thái độ hoài nghi, hành vi của học trò theo chuẩn 
hành vi tư tưởng và chính trị xã hội.
+ Thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.
* Phương pháp động não
Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh  
được nhiều ý tưởng, nhiều giả  định về  một vấn đề  nào đó, thực hiện phương 
pháp này giáo viên đưa ra một hệ thống thông báo làm tiền đề cho buổi thảo luận.

11


5.6.1.2. Những thành tựu trong đổi mới phương pháp dạy học môn  
GDCD trường THPT hiện nay.
 Năm 2017 với sự thay đổi về việc thi THPT QG, xét đại học môn GDCD 
là một bộ môn thi để xét tốt nghiệp. Cùng với kế hoạch đổi mới nội dung kiến  
thức các bộ môn và các khối lớp, các cấp học, Bộ giáo dục đã chỉ đạo phải đổi  
mới phương pháp dạy học dần để phù hợp với nội dung mới. Môn GDCD cũng 
nằm trong sự đối mới đó. Hiện nay giáo viên GDCD trong cả nước đang từng  
bước đổi mới phương pháp dạy học và đã đạt được một số thành tựu nhất định.
Với kế  hoạch đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới sinh hoạt chuyên 
môn theo cách phân tích hoạt động của học sinh do Bộ giáo dục chỉ đạo. Sở giáo  

dục và đào tạo Tỉnh Vĩnh Phúc triển khai việc lĩnh hội sự đổi mới này từ cấp trên  
sau đó truyền đạt lại cho giáo viên của từng bộ môn trong nhà trường trên địa bàn 
tỉnh. Lãnh đạo các nhà trường rất quan tâm và chú trọng đến việc đổi mới 
phương pháp giảng dạy và sử dụng các kĩ thuật dạy học trong giờ học GDCD.  
Vào những dịp như  20/11, 8/3…. Một số  nhà trường tổ  chức những buổi thao 
giảng mẫu thực hiện đổi mới phương pháp dạy học tích cực. 
Giáo viên rất hăng hái, tích cực trong việc đổi mới phương pháp giảng 
dạy phù hợp với yêu cầu của xã hội và kiến thức hiện nay. Những giờ giảng  
GDCD giáo viên đã sử dụng được một số phương pháp và kĩ thuật tích cực vào  
để học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức chứ không phải thụ động lĩnh hội như 
trước. 
Để có một giờ học đổi mới thành công, giáo viên không những có kiến  
thức  sâu rộng về  nội  dung bài học mà giáo viên còn  phải nắm chắc các 
phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực thật tốt. Giáo viên giảng dạy môn 
GDCD đã đầu tư, chuẩn bị giáo án thật tốt, tự tìm tòi, học hỏi hiểu sâu, hiểu  
rộng về  nội dung bởi đổi mới phương pháp dạy học, nội dung bài học sẽ 
được tiếp cận từ nhiều phía không theo sự sắp xếp sẵn của giáo viên.
Giáo viên môn GDCD đã có một số  kiến thức nhất định về  phương 
pháp và kĩ thuật dạy học thông qua các lớp tập huấn của sở giáo dục tổ chức.  
Từ  đó đã vận dụng được vào trong quá trình giảng dạy, lựa chọn những  
phương pháp phù hợp vào từng nội dung bài học, tổ chức đổi mới giảng dạy 
để đạt kết quả cao nhất, điều này rất khó đối do đặc thù của môn học.
Giáo viên GDCD cũng đã tiếp cận với các máy móc công nghệ thông tin 
để  hỗ  trợ  cho việc đổi mới phương pháp của mình đạt hiệu quả  cao như:  
12


dùng bảng thông minh, giáo án điện tử, video…. Ngoài ra, để  học hỏi thêm 
công nghệ thông tin và phương pháp dạy học tích cực giáo viên tham gia vào 
các diễn đàn đổi mới giảng dạy môn GDCD, học online để  tiếp cận và tự 

nâng cao trình độ chuyên môn và phương pháp dạy học. Giáo viên môn GDCD 
và giáo viên các bộ môn khác trong nhà trường THPT không chỉ đổi mới trong 
những giờ giảng mẫu hay dự giờ nữa mà đang tích cực đưa việc đổi mới vào  
trong các giờ học, các nội dung kiến thức.
Giáo viên GDCD rất tích cực tham gia vào các hoạt động sinh hoạt 
chuyên môn của trường, của cụm và trong toàn tỉnh. Trong những buổi sinh 
hoạt chuyên môn giáo viên trao đổi, chia sẻ  chân thành, thẳng thắn những 
thực tiễn và kinh nghiệm đổi mới của bản thân đề  cùng nhau học hỏi, thảo  
luận góp ý. Từ việc trao đổi này lựa chọn được phương pháp và kĩ thuật dạy  
học hợp lí nhất phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh.
Học sinh trong các giờ học đổi mới rất sôi nổi, hăng hái tham gia và hoàn  
thành tốt các nhiệm vụ do giáo viên giao. Học sinh cũng mong muốn được học  
những giờ  đổi mới vì các em được hoạt động, được tự  mình suy nghĩ tìm tòi, 
không phải ngồi im nghe cô giáo giảng như trước.
5.6.1.3. Những hạn chế  trong việc đổi mới phương pháp dạy học  
môn GDCD hiện nay
Mặc dù Bộ  giáo dục Việt Nam triển khai sâu rộng đổi mới phương 
pháp dạy học để  tiến tới đổi mới nội dung chương trình, mục tiêu giáo dục 
trong những năm tới. Việc đổi mới phương pháp dạy học đổi với các cơ  sở 
giáo dục vẫn chưa triển khai được hoặc triển khai chưa hiệu quả, chưa đúng 
bản chất và yêu cầu của Bộ  giáo dục đề  ra, chưa đáp ứng được điều mong  
đợi của học sinh, gia đình và xã hội.
Hầu hết giáo viên GDCD chưa thực hiện được đổi mới phương pháp dạy học 
theo hướng tích cực mà vẫn đang sử dụng phương pháp dạy học truyền thống trong 
giảng dạy môn GDCD, giáo viên vẫn là trung tâm, truyền đạt kiến thức còn học sinh  
tiếp thu kiến thức một cách thụ động, mọi tri thức đều do giáo viên định hướng sắp  
xếp và học sinh sẽ tiếp thu theo sự sắp xếp đó. Nếu có đổi mới phương pháp dạy học 
thì nhìn chung chưa mang lại hiệu quả. Số giáo viên chủ động, sáng tạo trong việc 
phối hợp các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, tự lực sáng tạo của học sinh còn 
chưa nhiều.


13


Giáo viên GDCD nói riêng và giáo viên các bộ  môn nói chung ngại thay 
đổi phương pháp dạy học vì nhiều năm họ  sử  dụng phương pháp dạy học 
truyền thống, truyền đạt thụ động, mọi nội dung tri thức và diễn biến trong giờ 
học do giáo viên quyết định. Thêm nữa giáo viên ngại học hỏi đặc biệt là  
phương pháp truyền đạt. Vì thế nên nhiều giáo viên GDCD không mặn mà, hào 
hứng về kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học.
Việc ứng dụng công nghệ ­ truyền thông, sử dụng các phương tiện dạy  
học chưa thực hiện rộng rãi và hiệu quả  trong các trường trung học phổ 
thông.
Hoạt động kiểm tra, đánh giá vẫn chú ý đến yêu cầu tái hiện kiến thức 
và đánh giá qua điểm số, chưa chú ý đến đánh giá về kĩ năng, năng lực thái độ 
qua một quá trình. Kiến thức chuẩn nặng nề  khiến cho giáo viên duy trì lối 
dạy học đọc chép và học sinh học thuộc lòng. Nhiều giáo viên biên soạn đề 
kiểm tra chưa vận dụng đúng quy trình nên bài kiểm tra còn mang tính chủ 
quan của người dạy. Hoạt động kiểm tra đánh giá ngay trong quá trình tổ 
chức hoạt động dạy học trên lớp chưa thực hiện một cách khoa học. Các hoạt  
động đánh giá định kì, đánh giá diện rộng cấp tỉnh, cấp quốc gia môn GDCD 
chưa đồng bộ.
Nhiều học sinh chưa sẵn sàng để tham gia vào giờ học đổi mới. Các em 
còn e ngại, rụt rè ngại thể hiện. Bên cạnh đó, từ nhỏ các em đã được tiếp cận  
với cách học thụ động nên trở thành thói quen, lối mòn trong nhận thức. 
Như vậy việc triển khai đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích 
cực còn rất nhiều hạn chế đặc biệt từ  giáo viên và học sinh. Tôi mạnh dạn  
đưa ra nguyên nhân của những hạn chế này như sau:
Thứ  nhất, nhận thức về  phương pháp dạy học tích cực còn hạn chế:  
Sự  phát triển hay một cuộc cách mạng trong  khoa học giáo dục thực chất là 

tạo tiền đề  để  những nhân tố  tích cực trong lòng cái cũ vẫn có cơ  hội phát 
triển, đồng thời tạo ra cái mới tiến bộ hơn, tốt hơn cái đã có. Cách mạng, đổi  
mới không phải dung hòa để  làm “hơi khác hay tương tự  cái đã có” mà phải  
có cái mới thực sự  để  đáp  ứng được đòi hỏi của sự  tiến bộ. Điều đó là tất 
yếu, trước tiên là trong nhận thức của từng giảng viên.
Nhưng   hiện   nay,   một   bộ   phận   giáo   viên   chưa   có   nhận   thức   đúng 
về phương pháp dạy học tích cực, cho rằng phương pháp dạy học này cũng 
không có gì khác biệt nhiều so với phương pháp cũ, nên cứ  dạy phương pháp  
14


truyền thống: đọc ­ chép, người dạy là trung tâm, miễn sao là mang lại hiệu quả, 
học sinh hiểu bài, thi đậu, trả bài điểm cao là được. Nhận thức, suy nghĩ đơn giản  
như vậy không chỉ không tạo ra cơ hội tiếp cận với phương pháp mới, hạn chế 
trình độ, năng lực chuyên môn của giảng viên, mà còn ảnh hưởng, tác động tiêu 
cực đến các thầy cô giáo khác ở cùng bộ môn, cùng trường luôn có nhu cầu tiến 
thủ, muốn tiếp cận và khát khao đổi mới cách thức dạy học để thu hút, hấp dẫn  
học sinh. Theo cách đó, những hạn chế trong nhận thức về phương pháp dạy học 
này đã và đang là nhân tố kìm hãm người giáo viên tiến bộ, hạn chế chất lượng  
giáo dục và đào tạo của các nhà trường.
Thứ hai, vận dụng phương pháp dạy học tích cực nhưng xác định mục  
tiêu chưa rõ, còn thụ động trong quá trình dạy học: Trên thực tế, một số giáo 
viên trong quá trình giảng dạy dù đã cố gắng đổi mới, vận dụng phương pháp 
dạy học tích cực nhưng lúng túng, gợi mở  không khéo, nhiều trường hợp lan 
man, không định hướng sát với nội dung bài học. Có giáo viên đã cố gắng tìm 
tòi, áp dụng các phương pháp như  hỏi đáp, nêu, giả  định các tình huống sư 
phạm, tiến hành phân chia, thảo luận theo nhóm… nhưng nhìn chung vẫn rất 
gượng ép, không linh hoạt, thiếu sức thu hút học sinh vì vậy hiệu quả  chưa  
cao.
Từ việc nhận thức về phương pháp dạy học tích cực còn hạn chế, cộng với  

việc phương pháp giảng dạy tích cực phức tạp, yêu cầu cao, gắn với sử dụng các 
phương tiện khoa học, kỹ thuật hỗ trợ. Phương pháp mới, như  theo bài, theo chủ 
đề… yêu cầu giáo viên phải tốn thời gian, phải vất vả tìm tòi, sáng tạo nhiều trong 
khâu thiết kế, soạn bài, chuẩn bị, sử dụng nhiều phương án, tình huống sư phạm,  
chuyên môn để dẫn dắt, gợi mở học sinh tìm hiểu, suy nghĩ, tư duy…
Để thành công với phương pháp mới đòi hỏi giáo viên cần chủ động trong  
nội dung kiến thức, thiết kế giờ giảng, kiên trì và không ngừng học hỏi, trau dồi 
thực tế, luôn vận dụng kiến thức đã có vào quan sát và  ứng dụng vào thực  
tiễn… Trong khi phương pháp truyền thống có phần nhẹ nhàng, đơn giản hơn. 
Điều đó đã làm cho xu hướng tâm lý của một bộ phận giáo viên thích sử dụng  
phương pháp cũ. Nghĩa là giáo viên không chủ  động nghiên cứu, vận dụng 
phương pháp dạy học mới, luôn ở trạng thái thụ động, nó đã và đang là rào cản, 
kìm hãm sự  phát triển năng lực, trình độ  của giáo viên, làm cho phương pháp 
dạy học mới không được phát huy, chất lượng giáo dục và đào tạo bị   ảnh 
hưởng.

15


Thứ  ba, do áp lực thi cử: Hiện nay giáo dục Việt nam và xã hội quá đề 
cao điểm số và thi cử, kết quả thi cử phản ánh phương pháp dạy học của giáo  
viên. Vì thế nên giáo viên, học sinh, nhà quản lí và các lực lượng xã hội khác tập 
trung toàn trí lực vào chất lượng thi cử, lượng kiến thức lĩnh hội sau mỗi bài học  
là   kĩ   năng   làm   bài,   điểm   số,   khả   năng   nhận   thức   của   các   em   nhanh   hay  
chậm….chứ chưa thực sự quan tâm đến việc rèn luyện tính tự lập, tự  giác, tự 
học, đến các kĩ năng và năng lực phát triển khác của con người. Để tiếp thu và 
truyền đạt được nhiều kiến thức thì giáo viên sẽ  chọn phương pháp dạy học 
truyền thống phù hợp nhất. Chính vì điều này mà nhiều học sinh Việt nam nhận 
thức tốt so với học sinh các nước phát triển nhưng các kĩ năng mềm như  làm 
việc theo nhóm, tính tự lập, tự tin, giao tiếp, hợp tác, làm việc nhóm …. lại rất  

hạn chế. Tuy nhiên những kĩ năng này rất cần thiết đối với người lao động thế 
hệ mới, người lao động trong xu thế hội nhập toàn cầu, hợp tác cùng nhau phát  
triển.
Thứ  tư, nội dung chương trình môn GDCD dài, khó, trừu tượng: Vì 
phục vụ cho thi cử và quan điểm phải được nhiều kiến thức sau mỗi giờ học  
nên nội dung học còn nặng nề, khó, trừu tượng so với lứa tuổi mà chủ yếu là 
học hàn lâm nên học sinh không hiểu bài. Trong một giờ học lượng kiến thức  
quá  nặng nề theo phân phối chương trình, vì vậy nếu giáo viên tổ  chức các 
hoạt động nhằm đổi mới phương pháp dạy học để  học sinh tự  lĩnh hội kiến 
thức sẽ  mất nhiều thời gian, không đảm bảo được nội dung kiến thức theo  
mục tiêu bài học. Lượng kiến thức nhiều như hiện nay tổ chức dạy học theo  
phương pháp thụ động mới có thể truyền tải hết kiến thức cho học sinh.
Nội dung môn GDCD  lớp 10 bao gồm triết học và đạo đức lớp 10. Nội  
dung chương trình rất nhiều khái niệm và toàn bộ là kiến thức mới, học sinh  
chưa được tiếp cận trước đó, lại là kiến thức khái quát và trừu tượng nên  
việc áp dụng đổi mới phương pháp sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực nhằm  
đổi mới phương pháp học đối với học sinh là rất khó khăn.
Giáo viên còn hạn chế rất nhiều về sử dụng công nghệ thông tin và các 
thiết bị dạy học hiện đại. Trong thời kì bùng nổ công nghệ thông tin, phương 
tiện dạy học hiện đại giáo viên có thể sử dụng công nghệ hiện đại vào phục 
vụ  cho quá trình giảng dạy, tuy nhiên giáo viên còn rất yếu trong việc tiếp  
cận và sử dụng những thiết bị này đặc biệt giáo viên GDCD. 
Thứ  năm,  do  tâm  lí  môn  GDCD  là   môn  phụ,  là  môn  chỉ   để  xét  tốt  
nghiệp: Học sinh hiện nay chạy theo thành tích thi cử, các em chỉ  quan tâm 
16


đến những môn học thi để  xét Đại học. Chính tâm lí này làm cho học sinh 
không hứng thú, nặm mà lắm trong việc học tập bộ  môn. Nhiều giáo viên 
cũng có suy nghĩ môn GDCD là môn phụ  chỉ  cần học có đủ  điểm, đủ  điều 

kiện để  lên lớp hay xét tốt nghiệp nên giáo viên chỉ  cần đọc ­ chép cho đủ 
kiến thức theo yêu cầu không cần phải đổi mới làm gì cho vất vả.
Thứ  sáu, thiếu biện pháp tích cực hóa học sinh; cơ  sở  vật chất, trang  
thiết bị thiếu, lỗi thời… Nhiều học sinh có thói quen lười làm bài tập, học bài, 
ngại tư duy trong quá trình học, nhất là những học sinh lớp 10 khi tiếp xúc với 
những môn học có tính lý luận, trừu tượng cao như Triết học, ... học sinh phần  
nhiều ảnh hưởng lớn của phương pháp dạy học cũ, vẫn là trong giờ học, thầy  
giảng trò nghe và ghi chép. Sự thiếu tích cực trong học tập của học sinh cũng 
làm giảm sự nhiệt tình của giáo viên và như vậy việc dạy và học trở nên nhàm 
chán, mang tính đối phó. Phương pháp dạy học tích cực thực chất là đi vào 
khắc phục những hạn chế, thiếu sót đó. Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả  lại  
phụ thuộc vào khả năng tích cực hóa sinh viên của giáo viên.
Giáo viên hiện nay không chỉ là người truyền thụ kiến thức mà còn là người 
hỗ trợ học sinh, hướng dẫn tìm chọn và xử lý thông tin. Vị trí của nhà giáo không 
phải được xác định bằng sự độc quyền về thông tin và tri thức có tính đẳng cấp mà 
bằng trí tuệ và sự từng trải của mình trong quá trình dẫn dắt học sinh tự học.
Để  áp dụng phương pháp dạy học tích cực có hiệu quả  đòi hỏi cơ  sở 
vật   chất,   trang   thiết   bị   phải   đầy   đủ   và   đáp   ứng   phù   hợp   với   thực   tiễn.  
Chương trình, nội dung đào tạo đổi mới phải đồng bộ với hệ thống cơ sở vật  
chất, trang thiết bị. Nhưng hiện nay kinh phí đầu tư  còn hạn hẹp. Nhiều bài  
dạy giáo viên muốn có thêm một số phương tiện, vật dụng, đồ dùng khác thì 
gặp khó khăn, trong khi áp lực công việc tại trường học ngày càng nhiều.
Lớp học diện tích hẹp số lượng học sinh lại đông (khoảng 40 ­ 45 học 
sinh/ 1 lớp), các lớp học không có cách âm, không có hệ thống cửa khép kín.  
Khi thực hiện đổi mới giờ học, học sinh cần phải tham gia vào các hoạt động  
nên sẽ  tạo ra sự   ồn ào, mất trật tự  sẽ   ảnh hưởng đến các lớp bên cạnh.  
Phòng học đã được trang bị  công nghệ  thông tin nhưng chưa đồng đều và 
đồng bộ, chưa khai thác được các tiện ích của những thiết bị  dạy học hiện  
đại vào giờ  dạy. Tất cả  những lý do đó phần nào khiến chất lượng một bài 
giảng bị giảm đi và trở thành rào cản trong việc vận dụng phương pháp dạy 

học tích cực của giáo viên.

17


Thứ  bảy, về  phía các nhà lãnh đạo có thẩm quyền. Lãnh đạo nhiều nhà 
trường và sở  hiện nay chưa nhận thức đúng về  việc đổi mới dạy học và bản 
chất của vấn đề đổi mới phương pháp. Chỉ đề cao những môn thi học sinh giỏi,  
xét Đại học mà không quan tâm đến các môn được cho là môn phụ. Trong triển 
khai đổi mới còn chứa nhiều mâu thuẫn như vừa muốn học sinh học theo hướng  
phát triển năng lực, kĩ năng lại vừa muốn học sinh nắm bắt được thật nhiều  
kiến thức từ cơ bản đến nâng cao để phục vụ cho thi cử. Khuyến khích đổi mới  
phương pháp dạy học nhưng khi nhận xét giờ học thiên về nhận xét giáo viên,  
về nội dung kiến thức xem giáo viên dạy đúng hay sai, đủ hay thiếu.
5.6.1.4. Một  số  giải  pháp khắc phục hạn chế  trong việc  đổi mới  
phương pháp dạy học môn GDCD ở trường THPT.
a, Đối với giáo viên
Thầy, cô giáo phải được đào tạo nghiêm ngặt để thích nghi với những đổi 
thay về chức năng, nhiệm vụ rất khó khăn và phức tạp của mình, nhiệt tình với  
công cuộc đổi mới giáo dục. Thầy giáo vừa phải có kiến thức chuyên môn sâu 
rộng, có kiến thức sư  phạm lành nghề, biết  ứng xử  tinh tế, biết sử  dụng các  
công nghệ  tin vào dạy học, biết định hướng phát triển của học sinh theo mục  
tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được sự tự do của học sinh trong hoạt động 
nhận thức.
Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống
Trước hết người giáo viên cần nắm vững những yêu cầu và sử  dụng 
thành thạo các kỹ thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng như  tiến hành bài 
lên lớp, chẳng hạn như kỹ thuật mở bài, kỹ thuật trình bày, giải thích trong khi  
thuyết trình, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử  lý các câu trả  lời trong đàm thoại, 
hay kỹ  thuật làm mẫu trong luyện tập.  Tuy nhiên, các phương pháp dạy học 

truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy 
học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới, đặc biệt 
là những phương pháp và kỹ  thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo 
của học sinh.
Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học
Việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn 
bộ  quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để  phát huy tính tích cực và  
nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đôi và dạy 
học cá thể là những hình thức xã hội của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi một 
18


hình thức có những chức năng riêng. Tình trạng độc tôn của dạy học toàn lớp và 
sự lạm dụng phương pháp thuyết trình cần được khắc phục, đặc biệt thông qua 
làm việc nhóm.
Tuy nhiên hình thức làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ  giới hạn  ở 
việc giải quyết các nhiệm vụ  học tập nhỏ  xen kẽ  trong bài thuyết trình, mà 
còn có những hình thức làm việc nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp,  
có thể  chiếm một hoặc nhiều tiết học, sử dụng những phương pháp chuyên 
biệt như phương pháp đóng vai, nghiên cứu trường hợp, dự án.Mặt khác, việc 
bổ sung dạy học toàn lớp bằng làm việc nhóm xen kẽ trong một tiết học mới  
chỉ  cho thấy rõ việc tích cực hóa “bên ngoài” của học sinh. Muốn đảm bảo 
việc tích cực hóa “bên trong” cần chú ý đến mặt bên trong của phương pháp  
dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề  và các phương pháp dạy học  
tích cực khác.
 Đổi mới cách đánh giá kết quả học hỏi của học sinh. Đánh giá là một khâu 
quan yếu chẳng thể thiếu được trong qúa trình giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai 
đoạn sau cuối của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở nên khởi điểm của một giai đoạn  
giáo dục tiếp theo với đề nghị cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một qúa trình 
giáo dục.

Đánh giá kết quả học tập là qúa trình thu nhặt và xử lí thông tin về trình  
độ, khả  năng thực hành mục đích học tập của học trò về  tác động và căn 
nguyên của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư  phạm của 
giáo viên và nhà trường cho bản thân học trò để  học trò học tập càng ngày  
càng phát triển theo hướng đi lên hơn.
Đổi mới biện pháp dạy học được chú trọng để  đáp ứng những đề  nghị 
mới của mục đích nên việc kiểm tra, đánh giá phải biến chuyển mạnh theo 
hướng phát triển trí sáng dạ sáng tạo của học trò, xứng đáng được đề nghị hoặc 
đề xuất áp dụng mẫn tiệp các tri thức năng lực đã học vào những cảnh huống  
thực tiễn, làm biểu lộ những xúc cảm, thái độ hoài nghi của học trò trước những  
vấn đề nóng hổi của hoàn cảnh sống cá nhân chủ nghĩa , gia đình và cộng đồng.  
Chừng nào việc kiểm tra, đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo học tập bị động thì 
chưa thể phát triển dạy và học tích cực. Hợp nhất với quan điểm đổi mới đánh 
giá như  trên việc kiểm tra, đánh giá sẽ  hướng vào việc bám sát mục đích của 
từng bài, từng chương và mục đích giáo dục của môn học ở tầng lớp cấp. Các  
câu hỏi bài tập sẽ đo được mức độ thực hành các mục đích được xác định.

19


Hướng tới đề  nghị  kiểm tra đánh giá công bình, khách quan kết quả  học  
tập của học trò, bộ  công cụ  đánh giá sẽ  được sửa sang các hình thức đánh giá  
khác như đưa thêm dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm; chú ý hơn tới đánh giá cả 
qua trình lĩnh hội tri thức của học trò, quan tâm tới mức độ hoạt động hăng hái,  
chủ động của học trò trong từng tiết học, kể cả  ở tiết hấp thu tri thức mới lẫn  
tiết thực hành, thử nghiệm. Điều này đòi hỏi giáo viên bộ môn đầu tư nhiều công 
sức hơn cũng như công tâm hơn. Lãnh đạo nhà trường cần quan hoài và giám sát  
hoạt động này.
  Khai thác yếu tố  tích cực của biện pháp dạy học truyền thống.   Đối 
mới biện pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học  

sinh không có nghĩa là gạt bỏ, loại trừ, thay thế hoàn toàn các biện pháp dạy 
học truyền thống, hay phải “nhập nội” một số biện pháp xa lạ  vào qúa trình 
dạy học. Mà là  ở  chỗ  cần kế  thừa, phát triển những mặt tích cực của biện 
pháp dạy học hiện có, song song phải học hỏi, áp dụng một số biện pháp dạy 
học mới một cách có hiệu quả  nhằm phát huy tính tích cực, chủ  động sáng 
tạo của học sinh trong học tập, phù hợp với tình cảnh điều kiện dạy và học 
cụ thể.
Có quan điểm đúng đắn về vai trò môn GDCD, về phương pháp học tập  
và làm việc, có quan điểm lập trường vững chắc với suy nghĩ và sự  lựa chọn  
của mình. Xác định được động cơ học tập cho bản thân từ đó đưa ra mục tiêu  
phấn đấu.
Những yếu tố  của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ  4 đã đặt con 
người trước cuộc cạnh tranh việc làm và chinh phục trí tuệ  nhân tạo, robot. 
Để có thể đương đầu với thách thức khi nước ta thực sự bước vào cuộc cách 
mạng công nghiệp này, học sinh phải chuẩn bị  cho mình tri thức về  công 
nghệ  thông tin và trình độ  ngoại ngữ  tốt, kỹ  năng mềm thành thạo và kinh 
nghiệm làm việc thực tế để mở ra cánh cửa bước vào sân chơi toàn cầu hóa.
 Khi đã xác định được động cơ, mục tiêu học tập cần phải quyết tâm thực  
hiện. Học sinh hứng thú, yêu thích môn học, tham gia các hoạt động nhiệt tình hiệu  
quả. Vận dụng tốt những kiến thức đời  sống và trong học tập để  thực hiện các 
hoạt động của giáo viên yêu cầu, sao cho tiếp thu được kiến thức một cách tối đa,  
chủ động.
b, Đối với cơ quan lãnh đạo các cấp
Đối với lãnh đạo Nhà trường
20


×