Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Quản lý nhà nước đối với di tích lích sử cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ MAI

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DI TÍCH
LỊCH SỬ CẤP QUỐC GIA TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG

ĐẮK LẮK - NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ MAI

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DI TÍCH
LỊCH SỬ CẤP QUỐC GIA TRÊN ĐỊA BÀN


TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 8340403
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRỊNH ĐỨC HƯNG
ĐẮK LẮK - NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập, do tôi tự
nghiên cứu, không sao chép từ các tài liệu sẵn có. Các số liệu thu thập được là
hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy
định.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Mai


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập, nghiên cứu chương trình cao học chuyên
ngành Quản lý công và hoàn thành luận văn tốt nghiệp tại Học viện Hành
chính quốc gia tôi đã luôn nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện của lãnh đạo
Học viện Hành chính Quốc gia; sự giảng dạy, hướng dẫn nhiệt tình của các
thầy cô giáo đã cung cấp cho tôi những kiến thức nền tảng, phương pháp tư
duy nghiên cứu khoa học vô cùng bổ ích. Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo
Học viện Hành chính Quốc gia; các khoa, phòng, ban của Học viện và các
thầy cô đã trực tiếp giảng dạy trong thời gian tôi học tập, nghiên cứu. Đặc

biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trịnh Đức Hưng - Người đã
dành nhiều thời gian tâm huyết hướng dẫn về mặt khoa học để tôi nghiên cứu
hoàn thành bản luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn gia đình, cảm ơn các đồng chí lãnh đạo,
đồng nghiệp đang công tác tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk,
Bảo tàng tỉnh, Giáo viên chủ nhiệm và các bạn học viên lớp cao học Quản lý
công HC22.TN11 đã giúp đỡ động viên và cung cấp tư liệu giúp tôi hoàn
thành tốt chương trình học và luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng và tâm huyết để hoàn thành luận văn, tuy
nhiên luận văn sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong
nhận được những đóng góp ý kiến của các quý thầy cô, đồng nghiệp và các
bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Mai


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TT

Nguyên nghĩa

Viết tắt

1

BQL

Ban Quản lý


2

DSVH

Di sản văn hóa

3

DTLS

Di tích lịch sử

5

HĐND

Hội đồng nhân dân

7

Nxb

Nhà xuất bản

8

VHTTDL

Văn hóa, Thể thao và Du lịch


12

UBND

Ủy ban nhân dân

13

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

14

XHH

Xã hội hóa

15

ĐH

Đại học

16

TC

Trung cấp



MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DI
TÍCH LỊCH SỬ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2. Đặc điểm và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về di tích lịch
sử
1.3. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về di tích lịch sử
1.4. Cơ sở pháp lý của hoạt động quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử
1.5. Chủ thể và nội dung quản lý nhà nước về di tích lịch sử
1.6. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về di tích lịch sử
Tiểu kết chương 1
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI DI TÍCH LỊCH SỬ CẤP QUỐC GIA TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về di tích lịch sử cấp quốc gia
2.3. Đánh giá chung
2.4. Các vấn đề đặt ra từ thực trạng quản lý nhà nước về di tích lịch sử cấp
quốc gia trên địa bàn tỉnh
Tiểu kết chương 2
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DI TÍCH LỊCH SỬ CẤP
QUỐC GIA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK

3.1. Phương hướng quản lý nhà nước về di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với di tích lịch
sử cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh
3.3. Một số khuyến nghị
Tiểu kết chương 3

1
8
8
11
15
50
23
32
34
35
35
41
56
61
62
63
63
65
73
75


KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

76
78
80


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Di tích lịch sử là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa dân tộc.
Ngày nay, chúng càng trở nên quan trọng hơn trước những thay đổi của thời
đại trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Kinh nghiệm xây
dựng và phát triển văn hóa - xã hội ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy,
dân tộc nào giữ được những giá trị di sản văn hóa thì dân tộc đó sẽ giữ được
bản sắc văn hóa của mình. Vì thế, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước
đã ban hành nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo tồn,
tôn tạo hệ thống DTLS. Tuy nhiên, để giữ gìn di tích tồn tại lâu dài và việc
khai thác giá trị của chúng đạt hiệu quả, công tác quản lý nhà nước đối với
DTLS cũng cần được quan tâm một cách cân xứng; bởi lẽ, nếu quản lý tốt thì
mới có thể bảo tồn và phát huy giá trị của hệ thống di tích thực sự đúng lúc,
đúng chỗ và đúng cách. Để làm được điều đó một cách hiệu quả, đòi hỏi công
tác quản lý nhà nước phải nắm bắt được thực trạng cũng như các giá trị của hệ
thống DTLS một cách toàn diện, từ đó tạo cơ sở khoa học để điều chỉnh và
tác động tích cực đến quá trình định hướng và xây dựng các kế hoạch, giải
pháp tốt nhất cho công tác bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị các
DTLS. Điều này càng trở nên cần thiết đối với tỉnh Đắk Lắk, một tỉnh trung
tâm của vùng Tây Nguyên, có vị trí chiến lược quan trọng. Tính tới ngày 24
tháng 12 năm 2018, toàn tỉnh Đắk Lắk đã có 32 di tích được xếp hạng. Trong
đó có 02 di tích Quốc gia đặc biệt, 17 di tích Quốc gia, 13 di tích cấp tỉnh và
nhiều di tích có đủ tiêu chí xếp hạng nhưng đang trong quá trình hoàn thiện

hồ sơ khoa học. Tuy nhiên, khá nhiều trong số đó đang ở trong tình trạng
xuống cấp; vì thế, công tác quản nhà nước đối với DTLS hiện đang là vấn đề
cấp bách đặt ra của địa phương này.
Trong những vừa năm, qua công tác quản lý nhà nước đối với DTLS
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã được quan tâm và đạt được những kết quả cụ
1


thể; tuy nhiên, công tác này vẫn còn gặp nhiều khó khăn và vướng mắc: Chưa
có một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh, việc triển khai và tổ
chức thực hiện các văn bản pháp luật về DTLS chưa hiệu quả, việc tổ chức,
chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị DTLS còn hạn chế.
Với mục đích góp phần vào việc nghiên cứu, tìm hiểu và nâng cao
chất lượng trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị của hệ thống DTLS của
tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới. Tác giả đã lựa chọn vấn đề “Quản lý nhà
nước đối với di tích lịch sử cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” làm đề
tài luận văn tốt nghiệp Cao học, chuyên ngành Quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về di tích
lịch sử, quản lý nhà nước về di tích lịch sử. Có thể chia thành 02 nhóm:
Những nghiên cứu về di sản văn hóa, di tích lịch sử và quản lý nhà
nước về di tích lịch sử.
Cuốn sách “Di sản văn hóa - bảo tồn và phát triển”, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh (2008) của nhóm tác giả Nguyễn Đình Thanh, Lê Minh Lý cũng
đưa ra những vấn đề lý luận chung về di sản văn hóa, công tác bảo tồn và phát
triển di sản văn hóa, đánh giá thực trạng bảo tồn, phát triển di sản văn hóa ở
nước ta trong thời gian qua, bước đầu đưa ra một số giải pháp để bảo tồn và
phát triển di sản văn hóa trong tình hình mới.
Cuốn giáo trình “Bảo tồn di tích lịch sử”, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội (2008) của tác giả Trịnh Minh Đức đã đưa ra những kiến thức tổng quan,

đầy đủ về các lĩnh vực trong công tác bảo tồn di tích lịch sử.
Cuốn sách “Giáo trình quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch”,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2010) do nhóm tác giả Lê Hồng Lý, Dương
Văn Sáu, Đặng Hoài Thu thực hiện đã giới thiệu những kiến thức cơ bản về
một số vấn đề liên quan đến văn hóa, di sản văn hóa, du lịch văn hóa và
những sản phẩm du lịch văn hóa, những quan điểm quản lí và khai thác di sản
2


văn hoá. Từ đó chỉ ra những nội dụng và nguyên tắc quản lí các di sản văn
hóa nhằm phục vụ việc phát triển du lịch. Cuốn sách cũng trình bày một cách
cơ bản quy trình tổ chức và quản lí nhằm tạo ra những sản phẩm du lịch văn
hóa.
Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Lưu Trần Tiêu, Chủ tịch Hội Di sản Việt
Nam, Chủ tịch Hội đồng Di sản Quốc gia là nhà nghiên cứu chuyên về công
tác di sản văn hóa. Ông đã có nhiều công trình nghiên cứu về công tác di sản
nói chung và di tích nói riêng. Những nghiên cứu của ông được công bố trên
Tạp chí Di sản Văn hóa về lĩnh vực di sản văn hóa có: “Mấy vấn đề về nguồn
nhân lực trong hoạt động bảo tồn di sản văn hoá” (Tạp chí Di sản Văn hoá,
số 3 (40), năm 2012), “Mấy vấn đề về hoạt động tu bổ, phục hồi di tích lịch
sử - văn hoá” (Tạp chí Di sản Văn hoá, số 3 (36), năm 2011),... Những
nghiên cứu này đã đưa ra những gợi mở quan trọng về công tác bảo tồn và
phát huy di tích.
Bài viết “Quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử - văn hóa tại Thành
phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp”,đăng trên Tạp chí Quản lý nhà
nước của ThS. Phạm Thành Vao, Học viện Hành chính quốc gia, 2019.
Đề án “Tăng cường công tác quản lý nhà nước và phát huy giá trị di
tích lịch sử - văn hóa, cách mạng, danh lam thắng cảnh trên địa bàn huyện
Tĩnh Gia, giai đoạn 2016 - 2020”.
Những nghiên cứu trên đã cung cấp những kiến thức mang tính lý

luận cơ bản về công tác quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa.
Luận văn tiến sỹ Quản lý văn hóa “Quản lý nhà nước đối với di tích
lịch sử lịch sử ở Bắc Ninh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của
Trần Đức Nguyên bảo vệ tại Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam
năm 2015. Luận văn thạc sỹ Quản lý công “Quản lý nhà nước về di tích lịch
sử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của Phạm Thị Thùy bảo vệ năm 2015 tại
Học viện Hành chính Quốc gia Việt Nam. Những công trình trên nghiên cứu
3


về công tác quản lý nhà nước về di tích lịch sử tại một địa phương cụ thể là
những gợi mở quan trọng để tôi tiếp thu trong luận văn của mình.
Những nghiên cứu về di tích lịch sử ở Đắk Lắk có:
Chuyên luận “Góp phần Bảo tồn văn hóa người Bih” của TS. Lương
Thanh Sơn (2011), nguyên Giám đốc Bảo tàng Đắk Lắk phác dựng bức tranh
toàn cảnh di sản văn hóa người Bih và sự cần thiết phải bảo tồn, phát triển giá
trị di sản văn hóa của các dân tộc sinh sống trên địa bàn Đắk Lắk nói riêng,
trên các tỉnh Tây Nguyên nói chung. Công trình chỉ dừng lại ở việc bảo tồn di
sản văn hóa của một tộc người, chưa khái quát chung cho toàn ngành di sản
văn hóa nói chung và di tích lịch sử nói riêng.
Năm 2015, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk phát hành
cuốn sách Địa chí Đắk Lắk - bộ sách tổng hợp ghi chép một cách khá toàn
diện các đặc điểm tự nhiên, dân tộc, dân cư, hành chính, chính trị, lịch sử,
kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh và cũng là một công trình khoa học có quy
mô lớn. Ở phần thứ tư: Văn hóa, xã hội với 14 chương trình bày toàn diện,
phong phú về nền văn hóa vật chất, tinh thần của cộng đồng các dân tộc sinh
sống trên địa bàn Đắk Lắk qua các thời kỳ lịch sử hình thành, phát triển và
định hình như ngày nay. Song cuốn sách cũng chỉ dừng lại ở việc giới thiệu
các di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh, chưa đi sâu vào công tác quản lý Nhà
nước về di tích lịch sử - văn hóa.

Bên cạnh đó còn rất nhiều Tài liệu tham khảo như sách “Bảo tồn di
sản tại những nước đang phát triển kinh nghiệm cho Việt Nam”... là những tài
liệu tham khảo đưa ra một số khía cạnh trong công tác bảo tồn DTLS.
Một công trình ít nhiều có liên quan đến hệ thống di tích lịch sử của
tỉnh Đắk Lắk là đề tài khoa học cấp tỉnh “Điều tra, khảo sát, đề xuất giải pháp
bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk”. Tuy
nhiên, do mục đích và yêu cầu đặt ra nên đề tài chỉ dừng lại ở việc điều tra,
khảo sát, thống kê di tích ở tỉnh Đắk Lắk và đưa ra một số giải pháp ở tầm vĩ
4


mô trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích chứ không đi vào nghiên cứu
thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử ở tỉnh Đắk Lắk.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lí luận và thực tiễn đề đề ra hệ thống các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu công tác quản lý nhà nước về di tích lịch sử cấp quốc gia ở địa
phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn cụ thể như sau:
- Hệ thống hóa các kiến thức về di tích lịch sử và quản lý nhà nước về
di tích lịch sử;
- Phân tích thực trạng di tích lịch sử, quản lý nhà nước đối với di tích
lịch sử cấp quốc gia tại tỉnh Đắk Lắk;
- Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà
nước đối với di tích lịch sử cấp quốc gia của tỉnh Đắk Lắk.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Quản lý nhà nước đối với di tích
lịch sử cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài tập trung khảo sát, nghiên cứu thực trạng công
tác quản lý DTLS trong phạm vi tỉnh Đắk Lắk. Giới hạn trong các di tích lịch
sử đã được xếp hạng di tích quốc gia.
- Về thời gian: Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu công tác quản lý
DTLS ở tỉnh Đắk Lắk từ năm 2009 đến 2019.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Trên cơ sở các quan điểm duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
5


quan điểm của Đảng về di sản văn hóa dân tộc, tác giả vận dụng vào việc
nghiên cứu công tác quản lý DTLS trên một địa bàn cụ thể (tỉnh Đắk Lắk).
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Khảo sát cụ thể tại các di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh; đánh giá và
phân tích thực trạng hệ thống di tích lịch sử Đắk Lắk.
- Phương pháp điền dã, quan sát thực tế tại một số di tích nhằm nắm
bắt các thông tin về thực trạng hệ thống di tích và tình trạng quản lý nhà nước
về DTLS.
- Khảo sát tư liệu: khảo cứu kinh nghiệm các tỉnh có hệ thống DTLS,
các thiết chế văn hóa đặc trưng, tương đồng với Đắk Lắk.
- Phương pháp phân tích: Trên cơ sở nghiên cứu điều kiện tự nhiên
cũng như thực trạng của hoạt động quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử
lịch sử hiện nay, định hướng hướng phát triển của địa phương, luận văn sẽ
phân tích những điểm mạnh, những hạn chế để chỉ ra những thuận lợi và
thách thức trong hoạt động quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử. Từ đó, tác
giả luận văn có thể bước đầu đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của công tác quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử ở Đắk Lắk trong thời

gian tới.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng để so sánh các mô hình quản lý
tại các địa phương để tìm ra các điểm mạnh, hạn chế để khắc phục trong việc
xây dựng tổ chức bộ máy một cách hợp lý và có hiệu quả cao.
- Phương pháp tổng hợp tài liệu, số liệu: sử dụng tổng hợp các tài liệu
dưới dạng các văn bản, sách, tạp chí liên quan đến di tích lịch sử; các số liệu,
thống kê và phân loại di tích, các nguồn lực cho việc bảo tồn và số lượng du
khách tham quan một số năm.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về lý luận
6


- Luận văn sẽ bổ sung nguồn tài liệu cho việc nghiên cứu thực trạng
cũng như giải pháp cho công tác quản lý nhà nước trong công tác quản lý nhà
nước đối với DTLS của tỉnh Đắk Lắk.
6.2. Về thực tiễn
- Tái hiện một bức tranh tổng thể về thực trạng hệ thống DTLS của
tỉnh Đắk Lắk;
- Những đánh giá tổng quan thực trạng quản lý nhà nước về DTLS của
tỉnh Đắk Lắk là cơ sở cho việc đánh giá kết quả triển khai, thực hiện các quy
định về công tác quản lý nhà nước về di tích lịch sử tại một địa phương;
- Các giải pháp quản lý nhà nước về DTLS của tỉnh Đắk Lắk có thể sẽ
trở thành những cứ liệu khoa học quan trọng để tham khảo trong quá trình tổ
chức triển khai thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước tại địa phương;
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy,
học tập, nghiên cứu về lịch sử địa phương, tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ
quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử ở cơ sở.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ

lục, nội dung chính của luận văn được trình bày thành 3 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về di tích lịch sử.
Chương 2. Thực trạng di tích lịch sử và quản lý nhà nước đối với di
tích lịch sử cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước đối với di tích lịch sử cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

7


Chương 1.
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Di tích lịch sử
Sở dĩ gọi là DTLS, vì chúng được tạo ra bởi con người (tập thể hoặc
cá nhân), là kết quả của hoạt động sáng tạo lịch sử, văn hóa của con người.
Văn hóa ở đây bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Các nước trên thế giới đều đặt chung cho DTLS là dấu tích, vết tích
còn lại. Trong tiếng Anh viết là “Vestige”; tiếng Pháp cũng viết “Vestige”;
tiếng Nga viết “Pomiatnik”; tiếng Trung Quốc viết “Cổ tích”, do đó mỗi quốc
gia đã đưa ra những khái niệm, qui định về DTLS của dân tộc mình. Trong
điều I của Hiến chương Venice (Italia) đã quy định rằng: “DTLS bao gồm
những công trình xây dựng đơn lẻ, những khu di tích ở đô thị hay nông thôn,
là bằng chứng của một nền văn minh riêng biệt, của một sự tiến hóa có ý
nghĩa hay là một biến cố về lịch sử”.
Hiện nay, ở Việt Nam đã có nhiều khái niệm quy định về DTLS
nhưng theo Từ điển tiếng Việt đưa ra thì: “Di tích là dấu vết xưa còn lại” [53,
tr.292], hoặc “Di tích là cái của người xưa để lại”, tất cả những thuật ngữ trên
đều có nghĩa: Di tích là dấu vết hoặc di vật của con người và những giai đoạn

lịch sử đã qua còn hiện hữu đến tận ngày nay thì được gọi là di tích.
Pháp lệnh số 14 - LCT/HĐNN của Hội đồng Nhà nước, nước
CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 31/3/1984 về bảo vệ và sử dụng DTLS
và danh lam thắng cảnh quy định rõ: “DTLS là những công trình xây dựng,
địa điểm, đồ vật, tài liệu và tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật
cũng như có giá trị văn hóa khác hoặc có liên quan đến những sự kiện lịch sử,
quá trình phát triển văn hóa, xã hội”.

8


Luật Di sản văn hóa do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành
năm 2001, tại điều 4 quy định: “DTLS là công trình xây dựng, địa điểm và
các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học”.[24]
Như vậy, đã có nhiều khái niệm về DTLS nhưng các khái niệm đều
chỉ ra rằng: DTLS là những không gian vật chất cụ thể, khách quan, trong đó
có chứa đựng các giá trị điển hình của lịch sử, do tập thể hoặc cá nhân sáng
tạo ra trong lịch sử để lại. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, đối chiếu
với cơ sở lý thuyết về quản lý di sản có thể xác định DTLS là đối tượng quản
lý cần bàn tới, đối tượng này có những đặc điểm, tính chất khác biệt với các
đối tượng quản lý khác.
Di tích lịch sử phải có một trong các tiêu chí sau đây:
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong
quá trình dựng nước và giữ nước;
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh
hùng dân tộc, danh nhân của đất nước;
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của
các thời kỳ cách mạng, kháng chiến;
- Địa điểm có giá trị tiêu biểu về khảo cổ;

- Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có
giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch
sử.[24]
Căn cứ vào giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, di tích lịch sử, danh lam
thắng cảnh (sau đây gọi là di tích) được chia thành:
- Di tích cấp tỉnh
- Di tích quốc gia
- Di tích quốc gia đặc biệt
Thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích được quy định như sau:
9


- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định xếp hạng di tích cấp
tỉnh, cấp bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh;
- Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định xếp hạng di
tích quốc gia, cấp bằng xếp hạng di tích quốc gia;
- Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt,
cấp bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; quyết định việc đề nghị Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc xem xét đưa di tích tiêu
biểu của Việt Nam vào Danh mục di sản thế giới.”[15]
1.1.2. Di tích cấp quốc gia
Là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia, bao gồm:
- Công trình xây dựng, địa điểm ghi dấu sự kiện, mốc lịch sử quan
trọng của dân tộc hoặc gắn với anh hùng dân tộc, danh nhân, nhà hoạt động
chính trị, văn hóa, nghệ thuật, khoa học nổi tiếng có ảnh hưởng quan trọng
đối với tiến trình lịch sử của dân tộc;
- Công trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến
trúc đô thị và địa điểm cư trú có giá trị tiêu biểu trong các giai đoạn phát triển
kiến trúc, nghệ thuật Việt Nam;
- Địa điểm khảo cổ có giá trị nổi bật đánh dấu các giai đoạn phát triển

của văn hóa khảo cổ;
- Cảnh quan thiên nhiên đẹp hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh
quan thiên nhiên với công trình kiến trúc, nghệ thuật hoặc khu vực thiên nhiên
có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng sinh học, hệ sinh thái
đặc thù. [điều 29, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa 2009]
1.1.3. Quản lý nhà nước về di tích lịch sử
Quản lý nhà nước về văn hóa
Là thông qua những giải pháp về pháp luật, thể chế, chính sách, kế
hoạch… của nhà nước để quản lý các giá trị vật chất và tinh thần, quản lý các
hoạt động văn hóa theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng đồng thời đảm
10


bảo quyền tự do dân chủ trong hoạt động và sáng tạo văn hóa, xác lập vai trò,
vị trí của văn hóa trong sự phát triển của dân tộc.
Quản lý nhà nước về di tích lịch sử
Từ các khái niệm về Quản lý và DTLS có thể khái quát và đưa ra một
khái niệm về quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử lịch sử như sau: Quản lý
DTLS là sự định hướng, tạo điều kiện tổ chức điều hành việc bảo vệ, giữ gìn
các DTLS, làm cho các giá trị của các di tích lịch sử được phát huy theo chiều
hướng tích cực. Vì DTLS là một bộ phận quan trọng, cấu thành nên hệ thống
di sản văn hóa.
Là sự tác động có định hướng trên cơ sở quyền hành pháp của hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước tới hành vi, hoạt động của cá nhân hoặc
tổ chức trong lĩnh vực văn hóa nhằm mục tiêu bảo vệ, gìn giữ di sản, các di
tích lịch sử và làm cho các giá trị di sản, di tích lịch sử được phát huy theo
chiều hướng tích cực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu cầu về
vật chất và tinh thần của nhân dân.
Việc quản lý DTLS cũng cần tiến hành theo nội dung quản lý nhà
nước về di sản văn hóa được qui định tại điều 54 của Luật Di sản Văn hóa do

Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành năm 2001. Các nội dung quản
lý nhà nước về di sản văn hóa sẽ được áp dụng như các tiêu chí để khảo cứu
thực trạng công tác quản lý nhà nước về DTLS ở tỉnh Đắk Lắk.
1.2. Đặc điểm và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước vê di
tích lịch sử
1.2.1. Đặc điểm di tích lịch sử
Các di tích lịch sử có những đặc điểm như sau:
Di tích lịch sử là những bằng chứng lịch sử còn lưu giữ lại
Hệ thống di tích lịch sử mang trên mình nhiều dấu ấn lịch sử. Qua di
tích, người ta có thể biết và hiểu về lịch sử của địa phương hay của dân tộc.
Thậm chí, qua di tích, giúp cho thế hệ sau hình dung ra cả một chặng đường
11


lịch sử của dân tộc. Chẳng hạn như, di tích lịch sử Khu căn cứ kháng chiến
của tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 1965-1975, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
Khu căn cứ là nơi đứng chân của Cơ quan Tỉnh ủy, các cơ quan, ban, ngành
tỉnh, là đầu mối của nhiều tuyến hành lang trọng yếu thuộc đường hành lang
chiến lược Bắc - Nam, Đông - Tây đảm bảo cho sự lãnh đạo của Trung ương
Đảng đối với chiến trường miền Nam kịp thời; đảm bảo sự chi viện sức
người, sức của và các phương tiện chiến tranh cho chiến trường miền Nam.
Di tích lịch sử mang trong mình những giá trị văn hóa đậm nét
Được ra đời từ trong đời sống của nhân dân, trải qua những biến thiên
của lịch sử dân tộc. Các di tích lịch sử thể hiện rõ tôn giáo, tín ngưỡng, những
đặc điểm văn hóa của từng vùng miền và của dân tộc. Ví như hệ thống các
đền thờ Mẫu thể hiện rõ tín ngưỡng thờ mẫu của dân tộc Việt. Tuy nhiên, ở
mỗi địa phương, tín ngưỡng thờ mẫu vẫn có những nét riêng biệt thể hiện sắc
thái văn hóa của địa phương. Ngay cả những di tích chiến tranh, cách mạng
vẫn có những giá trị văn hóa đậm nét.
Các di tích lịch sử rất dễ dàng bị phong hóa theo thời gian

Các di tích đều được làm từ chất liệu gỗ, đá. Trong khi đó, đặc điểm
thời tiết Việt Nam là nóng ẩm, mưa nhiều. Do đó, các di tích dễ dàng bị
phong hóa. Đây là một đặc điểm đòi hỏi trong công tác quản lý nhà nước đối
với di tích lịch sử cần hết sức quan tâm đến bảo tồn, trùng tu các di tích lịch
sử. Nhiệt độ không khí gia tăng sẽ tác động rất lớn đến loại hình di tích kiến
trúc nghệ thuật, đặc biệt là các công trình sử dụng vật liệu gỗ. Các công trình
kiến trúc nghệ thuật và tín ngưỡng thường được xây dựng bằng nguyên vật
liệu truyền thống như gỗ, gạch..., nên rất khó đương đầu với thách thức của
thời tiết khắc nghiệt. Sự tác động của nhiệt độ tăng cao, nắng gắt, mưa nhiều
kèm theo gió bão sẽ làm cho vật liệu kiến trúc nhanh xuống cấp, hư tổn, giảm
tuổi thọ của công trình. Các hiện vật thường được làm từ giấy, gỗ, tre, sắt…
rất dễ bị tác động bởi thay đổi thời tiết, độ ẩm, ánh sáng, nhiệt độ… Thời tiết
12


nhiệt đới, khí hậu nóng ẩm tạo điều kiện cho các loại vi sinh vật sinh trưởng,
làm hại hiện vật.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với di tích
lịch sử
Sự thay đổi về đơn vị hành chính, gắn liền với đó là sự thay đổi của bộ
máy tổ chức chính quyền
Điều này đã tác động lớn đến công tác quản lý nhà nước đối với di
tích lịch sử. Các tỉnh miền núi phía Bắc với nhiều lần được chia tách và sát
nhập tỉnh phẩn nào ảnh hưởng không nhỏ đến các DTLS cũng như quản lý
các di tích. Với địa giới hành chính rộng và nhiều lần thay đổi nên các huyện,
các xã vùng sâu vùng xa chưa có sự quan tâm trong quản lý nhà nước đối với
di tích lịch sử lịch sử, nhiều tài liệu, cứ liệu liên quan đến các di tích bị thất
lạc.
Các di tích lịch sử trải qua các cuộc đấu tranh giải phóng đất nước.
Giặc ngoại xâm với những cuộc nổi dậy, chiến đấu bảo vệ bờ cõi của quân và

dân các dân tộc Đắk Lắk. Chiến tranh đã tàn phá các di tích dẫn đến sự biến
dạng và nhiều di tích chỉ còn là phế tích và bị thất lạc hoặc bị cháy, mất các
hiện vật, các chứng cứ lịch sử liên quan đến di tích.
Sự tàn phá của chiến tranh
Sự tàn phá của chiến tranh đã dẫn đến nhiều di tích lịch sử chỉ còn là
phế tích. Hoạt động phục dựng di tích dựa vào chính nhân dân địa phương,
những người cao niên là những người có thể hồi tưởng, truyền miệng lại để
làm cơ sở cho việc phục dựng lại những di tích lịch sử.
Điều kiện tự nhiên
Các tỉnh miền núi, với những đặc điểm về địa chất, môi trường tự
nhiên, khí hậu khắc nghiệt, biến đổi liên tục theo mùa đã khiến cho quá trình
phong hóa các di tích diễn ra nhanh. đặc biệt là sự nóng lên toàn cầu.
Yếu tố văn hóa
13


Phong tục, tập quán, tín ngưỡng và tôn giáo đã có những ảnh hưởng
lớn đến các di tích lịch sử và hoạt động quản lý nhà nước đối với di tích lịch
sử lịch sử. Mỗi dân tộc có những tín ngưỡng, tôn giáo riêng đã tác động đến
phát triển hệ thống các di tích đền, đình, miếu, chùa, nhà thờ ở mỗi địa
phương.
Yếu tố xây dựng
Không phù hợp với quy hoạch truyền thống, bị lấn át do những công
trình xây dựng bao quanh có quy mô lớn hơn cả về chiều cao, không gian di
tích lịch sử bị lấn chiếm, không gian di tích lịch sử bị biến dạng, môi trường
của di tích bị ô nhiễm.
Yếu tố xã hội
Các di tích nói chung và di tích lịch sử nói riêng đang chịu sự tác động
của nhiều dự án quy hoạch quy mô lớn nhỏ khác nhau. Do khâu quy hoạch
không thống nhất, thiếu tổng thể, đồng bộ và có sự thay đổi quy hoạch theo

các năm dẫn đến các dự án quy hoạch chồng chéo như: quy hoạch của tỉnh,
huyện; quy hoạch nông thôn mới; quy hoạch phát triển du lịch... Các dự án
quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết với mục đích phục vụ quản lý xây
dựng, mà chưa lồng ghép nhiệm vụ bảo tồn di sản văn hoá lịch sử vào các
chương trình thực hiện quy hoạch; Các dự án quy hoạch trong quá trình dự
thảo chưa chú ý đúng mức đến các dữ liệu, số liệu điều tra kỹ về quỹ đất di
tích lịch sử văn hoá và danh thắng cũng như những yếu tố văn hoá kiến trúc
của khu vực có khả năng ảnh hướng đến quy hoạch và thực thi quy hoạch.
Trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ công chức
Trình độ chuyên môn của đội ngũ các bộ quản lý nhà nước về DTLS
còn hạn chế: Với các tỉnh miền núi, công chức quản lý nhà nước đối với di
tích lịch sử nói chung và di tích lịch sử nói riêng đa số không được đào tạo về
chuyên môn nghiệp vụ liên quan đến quản lý cũng như bảo tồn di tích. Nhận

14


thức của các ngành, cấp chính quyền địa phương về quản lý di sản văn hóa
chưa được đầy đủ.
Nguồn lực tài chính
Kinh phí ngân sách hỗ trợ, đầu tư cho trùng tu, tôn tạo di tích lịch sử
xuống cấp còn chưa được quan tâm và đáp ứng được nhu cầu thực tế. Các
mục tiêu, dự án phát triển kinh tế luôn được đặt cao hơn các mục tiêu về văn
hóa nói chung và di tích lịch sử nói riêng.
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế tạo điều
kiện cho việc giao lưu, học hỏi góp phần vào hoạt động bảo tồn và phát huy
giá trị di tích; tuy nhiên những mặt trái của cơ chế thị trường cũng có những
ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến các di tích.
Nhận thức xã hội
Các cấp, các ngành chưa nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò, tầm quan

trọng của văn hóa nói chung và di tích lịch sử nói riêng trong quá trình đổi
mới đất nước và hội nhập quốc tế.
1.3. Sự cần thiết quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử
1.3.1. Xuất phát từ vai trò, giá trị của di tích lịch sử
Đất nước Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và
giữ nước với bao thăng trầm, biến cố. Trong khoảng thời gian dài của lịch sử,
văn hóa Việt Nam được hình thành và khẳng định với bản lĩnh, bản sắc riêng.
Nối tiếp các thế hệ, nền văn hóa ấy dần được hình thành, tôi luyện, nhào nặn
qua bao thử thách, được bồi đắp, tô điểm thêm nhiều sắc màu và ngày nay trở
thành “Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Trong xu thế
giao lưu hội nhập và toàn cầu hoá hết sức sôi động hiện nay, vấn đề bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa lại càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm gìn
giữ và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc, để hội nhập mà không bị hòa tan.
Di sản văn hóa trở thành điểm tựa quan trọng, tạo thế đi vững chắc cho hiện
tại và tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc.
15


Việt Nam là một quốc gia có lịch sử lâu đời với những trang sử chói
lọi trong cuộc đấu tranh dựng nước, giữ nước, giành độc lập. Trong suốt quá
trình dựng nước và giữ nước, các thế hệ trước đã để lại cho chúng ta một kho
tàng di sản văn hóa vô cùng quý giá, được lưu giữ lại ở các di tích lịch sử.
Việc bảo vệ, gìn giữ các di tích lịch sử quốc gia để truyền lại cho muôn đời
sau là một việc quan trọng và cần thiết. Chiến lược văn hóa đến năm 2020 đã
xác định: Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc là nhiệm vụ then chốt
của Chiến lược phát triển văn hóa”.
Nhưng hiện nay, một bộ phận vô vùng quan trọng của di sản văn hóa
đó là các di tích lịch sử kể cả cấp quốc gia hay ở địa phương có nguy cơ bị
hủy hoại và nhiều di tích đang đối mặt với nguy cơ biến mất. Nhiều di tích đã
xuống cấp nghiêm trọng, chưa kể một số di tích được trùng tu, tôn tạo không

đúng khoa học.
Trong xã hội hiện đại, khi mà những giá trị văn hóa mới được du nhập
cùng với tiến trình toàn cầu hóa thì di sản văn hóa đứng trước một thách thức
lớn trong nguy cơ bị mai một hoặc mất đi vĩnh viễn. Nhằm để biến cái mới
thành nguồn lực nội sinh của một dân tộc, văn hóa phải trải qua sự giao lưu
tiếp biến và kế thừa, hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đóng một
vai trò quan trọng trong quá trình này. Bảo tồn và phát huy giá trị của di tích
lịch sử là hoạt động thiết thực giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
nâng cao ý thức dân tộc và niềm tự hào truyền thống lịch sử của dân tộc.
Di tích lịch sử là bộ phận quan trọng hợp thành nền tảng tinh thần của
xã hội. Di tích lịch sử thường gắn kết với cộng đồng xã hội ở những cấp độ
khác nhau. Quan trọng nhất, di sản văn hóa là của dân tộc - quốc gia vì đó là
cộng đồng chính trị - xã hội hình thành trên cơ sở đoàn kết của số đông người,
cùng chung lưng đấu cật với nhau trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ
nước.

16


Trong xã hội hiện đại, di tích lịch sử được quan niệm không phải như
những biểu tượng hoài niệm về quá khứ, mà như một lực cố kết cộng đồng
trong cuộc đấu tranh vì sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc.
Di tích lịch sử dân tộc là nguồn lực phi vật thể của sự phát triển kinh
tế - xã hội, là kết tinh của trí tuệ, tư tưởng, thẩm mỹ của các thời kỳ khác
nhau, được lưu truyền qua các thế hệ, tạo nên bề dày văn hóa, tác động đến
con người hiện đại. Di tích lịch sử một mặt đảm bảo sự vận thông của truyền
thống, mặt khác ảnh hưởng trực tiếp đến các vấn đề nhận thức, giáo dục, thẩm
mỹ, nhân cách, thông tin, sự tích lũy, bảo quản kinh nghiệm lịch sử. Đặc biệt,
tính nhân bản của các giá trị di sản văn hóa, các giá trị tinh thần truyền thống
khi được nuôi dưỡng trong tâm hồn dân tộc sẽ góp phần điều chỉnh hành vi

con người, có tác dụng hạn chế những tiêu cực, những mặt trái của cơ chế thị
trường đang làm xói mòn nền tảng đạo đức, tinh thần xã hội hiện nay. Đồng
thời giá trị văn hóa thâm nhập vào con người, khiến nó trở thành một nhân
cách thích hợp có khả năng đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội.
Di tích lịch sử còn đóng vai trò là nguồn lực trực tiếp tham gia vào sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với tư cách là chủ thể trong hoạt động
du lịch văn hóa. Các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể tiêu biểu cùng với
nguồn di sản văn hóa vô cùng phong phú ở các địa phương đã và đang trở
thành những điểm du lịch hấp dẫn, những điểm đến của du khách trong và
ngoài nước, đem lại nguồn lợi đáng kể cho người dân và đóng góp đáng kể
vào ngân sách quốc gia, phát triển các ngành nghề, dịch vụ du lịch, các sản
phẩm thủ công mỹ nghệ và sản phẩm công nghiệp văn hóa khác.
1.3.2. Quản lý để bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử
Bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử tạo cơ sở vững chắc để văn
hóa được giao lưu, tiếp biến và là điều kiện đảm bảo cho dân tộc ta hội nhập,
hợp tác và phát triển.

17


Di sản văn hóa thúc đẩy giao lưu, tiếp biến văn hóa, làm cho văn hóa
dân tộc và nhân loại phát triển đa dạng. Giao lưu, tiếp biến văn hóa là một
hiện tượng mang tính quy luật trong quá trình phát triển của các nền văn hóa
và là quy luật sống của văn hóa. Di tích lịch sử chứa đựng bản sắc văn hóa,
đóng vai trò như một hệ tiêu chí lựa chọn các giá trị văn hóa ngoại sinh, điều
chỉnh quá trình tiếp xúc văn hóa để tạo thành các giá trị văn hóa mới, vừa bảo
tồn được bản sắc, vừa đảm bảo tính chất tiến bộ. Như vậy di tích lịch sử đóng
vai trò quan trọng trong phát triển văn hóa dân tộc, đồng thời thúc đẩy quy
luật giao lưu, tiếp biến văn hóa. Di tích lịch sử là minh chứng của niềm tự
hào, tự tôn dân tộc. Khi nhìn vào các di tích chúng ta phần nào hiểu được lịch

sử của quê hương, đất nước. Có thể nói, di tích lịch sử chính là niềm tự hào
đối với mỗi người dân Việt Nam.
Từ những vai trò của di sản văn hóa nói chúng và di tích lịch sử nói
riêng, chúng ta lại càng thấy rõ vai trò của hoạt động quản lý nhà nước đối với
DTLS. Hoạt động quản lý có tốt thì hiệu quả của công tác quản lý mới được
nâng cao. Từ đó hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử sẽ đi đúng
hướng, đúng giá trị cốt lõi mà hoạt động quản lý hướng tới.
1.3.3. Từ thực trạng kinh tế - xã hội
Việt Nam là một nước đang phát triển, đã trải qua thời kỳ chiến tranh
kéo dài tàn phá nặng nề, vì thế sau khi giành được độc lập, thống nhất đất
nước, ưu tiên hàng đầu của Nhà nước và nhân dân ta là phát triển kinh tế,
nâng cao đời sống xã hội. Tập trung phát triển kinh tế trong khi chưa xây
dựng hoàn chỉnh khung hành lang pháp lý về bảo vệ di sản văn hóa, hơn nữa
Việt Nam là một quốc gia hàng năm chịu nhiều tác động của thiên tai tàn phá.
Đó là những nguy cơ hiện hữu đẩy di sản văn hóa đến với những cơ hội và
thách thức lớn lao. Những sức ép do tác động của sự phát triển kinh tế cộng
với sự xuống cấp của hàng loạt di sản văn hóa, trong đó có di tích lịch sử văn hóa.
18


×