Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

THỰC TRẠNG THU NGÂN SÁCH GIAI ĐOẠN 2001-2005 CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.61 KB, 36 trang )

THỰC TRẠNG THU NGÂN SÁCH GIAI ĐOẠN 2001-2005 CỦA
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THÀNH PHỐ HÀ
NỘI GIAI ĐOẠN 2001-2005
Trong 5 năm 2001-2005 mặc dù tình hình thế giới diễn biến phức tạp, xảy
ra dịch SARS và dịch cúm gia cầm, giá cả nhiều mặt hàng tăng cao ngoài dự
kiến, thời tiết có năm không thuận lợi... nhưng kinh tế Thủ đô vẫn đạt được
nhiều thành tựu, mức tăng trưởng cao và tương đối ổn định. Tổng sản phẩm nội
địa (GDP) trong 5 năm tăng bình quân 11,12%, cao hơn mức tăng trưởng bình
quân 5 năm trước (10,72%) và vượt mục tiêu do HĐND đề ra là 10,0-11,0%,
đóng góp khoảng 8% GDP cả nước. Các ngành kinh tế đều tăng trưởng khá,
trong đó GTGT ngành công nghiệp tăng 13,2%/năm, ngành dịch vụ tăng
10,3%/năm, ngành nông nghiệp tăng 2,6%/năm.
Sự phát triển của các ngành, các thành phần kinh tế cùng quy mô chung
của kinh tế Thủ đô phần nào cho thấy quy mô nguồn thu NSNN trên địa bàn
thành phố là tương đối lớn.
1. Kinh tế Thủ đô chia theo ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế có chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỷ trọng
ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Chất lượng và
khả năng cạnh tranh của một số lĩnh vực và sản phẩm có chuyển biến góp phần
tăng kim ngạch xuất khẩu của Thành phố, tạo nguồn thu cho NSNN. Đến cuối
năm 2005 dự kiến ngành công nghiệp chiếm 40,5% GDP của Thành phố, dịch
vụ chiếm 57,5%, nông nghiệp chiếm 2%.
- Lĩnh vực dịch vụ
Hoạt động thương mại diễn ra sôi động, phát triển theo hướng hiện đại,
văn minh. Công tác xúc tiến thương mại được Thành phố quan tâm chỉ đạo. Đến
cuối năm 2005 Hà Nội đã có Văn phòng đại diện tại Thụy Sỹ, Nhật Bản, Mỹ và
Nam Phi. Mô hình tổ chức quản lý chợ chuyển sang hình thức công ty cổ phần,
góp phần nâng cao hiệu quả quản lý. Trên địa bàn Thành phố hiện có khoảng 11
Trung tâm thương mại, 51 siêu thị hoạt động. Hình thành một số Trung tâm
thương mại lớn kết hợp siêu thị, văn phòng cho thuê; Tràng Tiền, Đại Hà, tháp


Hà Nội, Vincom... Một số trung tâm bán buôn, bán lẻ qui mô lớn đã được xây
dựng và đi vào hoạt động: Metro, Bourbon.
Tính bình quân 5 năm, tổng mức lưu chuyển hàng hóa trên thị trường dự
kiến là 81.350 tỷ đồng/năm, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ là 31.330 tỷ
đồng/năm, tăng trung bình 14%/năm. Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn dự kiến
tăng 12,43%/năm, trong đó xuất khẩu địa phương tăng 22%/năm. Cơ cấu hàng
xuất khẩu có chuyển biến: tỷ trọng hàng nông sản giảm từ 31,8% năm 2000
xuống còn 23,3% năm 2005; hàng điện tử tăng tương ứng từ 6,5% lên 16,8%.
Kim ngạch nhập khẩu tăng 19%/năm, trong đó nhập khẩu địa phương tăng
31%/năm. Thị trường xuất khẩu chủ yếu như EU, Mỹ, Nhật Bản, ASEAN tiếp
tục được mở rộng; thị trường mới châu Phi được khai thác; thị trường truyền
thống Nga và SNG từng bước được khôi phục.
Du lịch phát triển khá tốt với nhiều loại hình. Đến nay các doanh nghiệp
Hà Nội đang khai thác khoảng trên 300 tour nội địa và 30 tuyến quốc tế. Hệ
thống cơ sở vật chất khách sạn của Hà Nội đứng đầu cả nước với 7 khách sạn 5
sao, 5 khách sạn 4 sao, 22 khách sạn 3 sao, 124 khách sạn từ 2 sao trở xuống.
Giai đoạn 2001-2005, công suất sử dụng buồng của hệ thống khách sạn ước đạt
trong bình trên 70%. Một số khu vui chơi giải trí được triển khai xây dựng; dự
án Công viên nước Hồ Tây, Công viên Thanh Nhàn giai đoạn 1, khu du lịch
sinh thái - văn hóa Sóc Sơn, khu di tích Cổ Loa, khu du lịch Cầu Đôi, khu du
lịch Mễ Trì. Năm 2005 lượng khách du lịch đạt trên 5000 nghìn lượt, trong đó
du lịch quốc tế đến Hà Nội là 1.100 nghìn người, tăng khoảng 2 lần so với năm
2000. Trong 5 năm khách du lịch quốc tế tăng bình quân 15,7%/năm, khách du
lịch nội địa tăng 11%/năm, tổng doanh thu du lịch tăng 15%/năm.
Các ngành dịch vụ khác như bưu chính viễn thông, ngân hàng tài chính,
phát triển khá tốt. Thị trường bưu chính viễn thông có 6 nhà cung cấp dịch vụ:
Mobiphone, Vinaphone, S-phone, Viettel, Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội,
VP Telecom (Công ty thông tin viễn thông điện lực). Hoạt động ngân hàng
chuyển biến tích cực. Đến cuối năm 2005 trên địa bàn Hà Nội có trên 100 ngân
hàng và tổ chức tín dụng hoạt động; trong 5 năm 2001-2005 tổng nguồn vốn

huy động của ngành ngân hàng Hà Nội tăng trung bình 23,6%/năm, năm 2004
đạt 173.646 tỷ đồng; tốc độ tăng dư nợ 23,9%/năm, năm 2005 đạt 93.710 tỷ
đồng. Các loại dịch vụ bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn, chăm sóc sức khỏe... có
những tiến bộ cơ bản so với thời kỳ trước. Dịch vụ đô thị đã có bước phát triển
khá với sự tham gia mạnh mẽ của các thành phần kinh tế trong vận tải hành
khách, vệ sinh môi trường, phát triển nhà ở, góp phần hình thành, phát triển đô thị
hiện đại.
- Lĩnh vực công nghiệp
Trong 5 năm qua, Thành phố đã hình thành 6 cụm công nghiệp (Vĩnh
Tuy, Phú Thị, Từ Liêm, Đông Anh, Cầu Giấy, Hai Bà Trưng; đang hoàn thiện
các cụm Phú Thị, Ngọc Hồi, Hapro, Ninh Hiệp). Giải quyết cho 130 doanh
nghiệp vào thuê đất, trong đó có 80 DN được di dời từ nội đô. Thực hiện Quyết
định 86/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, cuối năm 2005 thành phố đã đổi
mới tổ chức các DNNN, cổ phần hoá 112 doanh nghiệp, sáp nhập 36 DN, giải
thể 4 DN, phá sản 3 DN, giao 2 DN cho tập thể người lao động, chuyển 29
DNNN thành công ty TNHH một thành viên, lập 4 tổng công ty (Tổng công ty
Du lịch Hà Nội, Tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, Tổng công ty vận
tải, Tổng công ty thương mại), chuyển 2 DNNN thành Công ty mẹ con.
Sản xuất công nghiệp Thủ đô giữ tốc độ tăng trưởng cao so với dịch vụ
và nông nghiệp. Tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp mở
rộng bình quân giai đoạn 2001-2005 13,4%/năm, giá trị sản xuất là 18,7%. Cơ
cấu sản phẩm chuyển dịch, ngoài những sản phẩm công nghiệp truyền thống
được củng cố, xuất hiện một số mặt hàng mới, như máy in phun Canon, công
nghiệp phần mềm... Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến, xây dựng tăng,
các ngành khai thác mỏ, sản xuất, phân phối điện nước giảm. Năm nhóm ngành
công nghiệp chủ lực có tốc độ tăng trưởng trung bình 19,7%/năm. Một số sản
phẩm đã nâng cao sức cạnh tranh, đứng vững ở thị trường trong nước và không
ngừng tăng xuất khẩu, như máy in phun, hàng điện tử.
Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được quan tâm khôi phục và phát
triển. Thời gian qua Thành phố tập trung chỉ đạo xây dựng qui hoạch phát triển

nghề và làng nghề, đầu tư các dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật các cụm làng
nghề sản xuất tập trung tại Gia Lâm, Thanh Trì, Đông Anh... Hiện nay Hà Nội có
83 làng nghề sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chiếm 10,8% so với tổng
số làng ở ngoài thành. Phát triển nghề và làng nghề đã góp phần đẩy mạnh tốc độ
tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn
ngoại thành Hà Nội.
- Về lĩnh vực nông nghiệp
Mặc dù có nhiều khó khăn do thời tiết diễn biến phức tạp, dịch cúm gia
cầm diễn ra đầu năm 2004, 2005, giá phân bón tăng cao, đất nông nghiệp giảm
mạnh, giá trị xản xuất ngành nông nghiệp vẫn đạt tốc độ tăng trưởng trung bình
khoảng 2,4%/năm. Tỷ trọng ngành trồng trọt giảm từ 58,2% năm 2001 xuống
còn 53,2% năm 2005; tỷ trọng ngành chăn nuôi tăng tương ứng từ 33,9% lên
38,2%, ngành thủy sản tăng từ 4,8% lên 5,4%. Giá trị sản xuất nông-lâm-thủy
sản bình quân trên 1 ha đất nông nghiệp tăng trung bình 5,04%/năm, năm 2005
đạt 56,2% triệu đồng/ha tính theo giá thực tế. Năng suất lao động nông nghiệp
tăng trung bình 10,0%/năm; năm 2005 đạt 7,5% triệu đồng (giá thực tế).
Các mô hình sản xuất - kinh doanh mới theo hướng nông nghiệp đô thị -
sinh thái bước đầu phát triển. Hình thành mội số vùng sản xuất nông nghiệp tập
trung, có tỷ trọng hàng hóa lớn như: vùng hoa Tây Tựu (Từ Liêm), vùng trồng
rau sạch Văn Đức, Đặng Xá, Đông Dư (Gia Lâm), Vân Nội (Đông Anh), Lĩnh
Nam (Thanh Trì), vùng cây ăn quả Phú Diễn, Minh Khai (Từ Liêm). Chăn nuôi
cũng xuất hiện mô hình chăn nuôi tập trung: chăn nuôi bò sữa ở Gia Lâm, Đông
Anh; nuôi trồng thủy sản ở Đông Mỹ (Thanh Trì).
2. Kinh tế Thủ đô chia theo thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế đều được Thành phố khuyến khích phát triển. Khu
vực kinh tế nhà nước tiếp tục giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu GDP Thành phố;
năm 2005 tỷ trọng trong GDP Thành phố là 59,2% GDP (cuối năm 2005). Các
doanh nghiệp Nhà nước trung ương có tốc độ tăng trưởng khá: 5 năm 2001-
2005 khu vực kinh tế Nhà nước trung ương có mức tăng trưởng 10,3%/năm, cao
hơn các doanh nghiệp Nhà nước địa phương (9,97%/năm). Để đẩy nhanh quá

trình CNH, HĐH, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, Thành
phố đã đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới DNNN, gắn việc sắp xếp với việc thực hiện
tách chức năng quản lý nhà nước và chức năng sản xuất kinh doanh của một số
Sở, Ngành; thành lập một số Tổng công ty của Thành phố.
Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước đã có bước phát triển đáng kể. Trong 5
năm số DN ngoài nhà nước mới thành lập là 31700 DN với số vốn đăng ký
68000 tỷ đồng: vốn trung bình đăng ký mỗi doanh nghiệp năm 2004 gấp 2,8 lần
năm 2000. Các doanh nghiệp đã tham gia vào hầu hết các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, trong đó có những lĩnh vực trước đây chỉ do DNNN đảm nhận. Nhiều
loại hình doanh nghiệp mới được hình thành và phát triển khá hiệu quả: công ty
cổ phần có vốn Nhà nước dưới 50%, hợp tác xã dịch vụ, môi trường, doanh
nghiệp nông nghiệp... Khu vực này góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và
giải quyết việc làm, đóng góp trên 20% GDP, 4,4% thu ngân sách, trên 10% kim
ngạch xuất khẩu và thu hút khoảng 60% lao động đang việc làm ở Hà Nội
(trong đó kinh tế cá thể, hội gia đình thu hút 44%). Đây là khu vực năng động,
sức tăng trưởng mạnh, là nhân tố quan trọng thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh
tế.
- Công tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài được Thành phố tích cực triển
khai; môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài với tiềm lực về vốn, công nghệ có tốc độ tăng trưởng khá: 5 năm
2001-2005 tốc độ tăng GDP khu vực này đạt 12,7%/năm. Giai đoạn 2001-2005
tổng vốn FDI đăng ký đạt 1947 triệu USD, vốn thực hiện đạt 1335 USD. Các
doanh nghiệp tập trung trong các ngành sử dụng công nghệ cao, trong đó công
nghiệp chiếm 42%, dịch vụ chiếm 41,5%. Số dự án hoạt động có lãi 154 dự án,
chiếm 73% số dự án FDI hoạt động trên địa bàn. Năm 2005, tỷ trọng đóng góp
của khu vực có FDI trong GDP thành phố bằng 16,9%, thu ngân sách khoảng
16,3%, kim ngạch xuất khẩu khoảng 18%, giải quyết việc làm mới 10%. Ngoài
ra, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc
thực hiện chuyển dịch cơ cấu công nghệ theo hướng đồng bộ, hiện đại, góp phần
nâng cao trình độ quản lý, tay nghề của người lao động.

Bảng 1: Tổng sản phẩm nội địa Hà Nội chia theo thành phần kinh tế
(giá so sánh)
Đơn vị: Tỷ đồng
2001 2002 2003 2004 2005
GDP 21999,5 24280 27472 30652,6 34073,5
Kinh tế Nhà nước 13463.7 14713.7 16496.9 18311.9 20171.5
Trong đó: Trung ương 11747.7 13062.6 14516.2 16123.3 17786.4
Địa phương 1715.9 1651.0 1980.7 2188.6 2385.1
Kinh tế ngoài NN 4465.9 5171.6 5961.4 6636.3 7428.0
KT có VĐT nước ngoài 3365.9 3496.3 4107.1 4711.3 5383.6
Nguồn: Cục Thống kê Thành phố Hà Nội
Bảng 2: Tốc độ tăng tổng sản phẩm nội địa Hà Nội
chia theo thành phần kinh tế (giá so sánh)
Đơn vị: %
2001 2002 2003 2004 2005
GDP 10.02 12.04 11.10 11.12 11.30
DNNN 14.92 9.28 12.12 11.00 10.16
Trong đó: DNNN TƯ 15.87 11.19 11.13 11.07 10.31
DNNN DP 8.83 -3.78 19.97 10.49 8.98
DN ngoài nhà nước 9.69 15.80 15.27 11.32 11.93
DN có VĐT nước ngoài -0.21 3.87 17.47 14.71 14.27
Nguồn: Cục Thống kê Thành phố Hà Nội
Với những kết quả trên, mặc dù hiện chỉ chiếm 3,7% về dân số và 0,3% về
diện tích lãnh thổ, Hà Nội đóng góp khoảng 8% vào GDP cả nước, 10,1% giá trị
sản xuất công nghiệp, 8,3% giá trị kim ngạch xuất khẩu, 10,8% vốn đầu tư xã
hội. Sự phát triển của kinh tế thành phố những năm qua là điều kiện thuận lợi,
tạo nguồn thu lớn cho ngân sách (đóng góp tới 14,5% vào thu ngân sách quốc
gia).
II. THỰC TRẠNG THU NGÂN SÁCH THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI
ĐOẠN 2001-2005

Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn bao gồm thu nội địa, thu từ hoạt
động xuất nhập khẩu, thu viện trợ không hoàn lại, ngoài ra thu bổ sung từ ngân
sách trung ương, đối với ngân sách Thành phố, còn có một số khoản thu từ
thưởng vượt thu ngân sách, thu từ viện trợ không hoàn lại, các nguồn huy động
khác (vay dưới nhiều hình thức: phát hành trái phiếu, ODA,…). Tuy nhiên, với
mục tiêu tìm ra những giải pháp tăng cường khả năng thu từ thực lực của thành
phố, luận văn chỉ đi sâu phân tích số thu từ nỗ lực thu của thành phố, tức là loại
bỏ những khoản thu từ huy động (các khoản vay dưới nhiều hình thức như phát
hành trái phiếu, tín phiếu,…), từ bổ sung ngân sách trung ương, từ viện trợ,...
Như vậy, thu ngân sách nhà nước trên địa bàn chỉ tính số thu từ hoạt động xuất
nhập khẩu và các khoản thu nội địa.
Cũng nhằm nâng cao hiệu quả việc phân tích kết quả thu, luận văn tính
toán toàn bộ các số liệu thu theo giá so sánh năm 1994, thông qua số liệu về chỉ
số giá và chỉ số giảm phát. Tuy nhiên, do việc ước tính các chỉ số giá, chỉ số
giảm phát hàng năm chỉ mang tính tương đối, nhất lại là chỉ số giá của riêng Hà
Nội, nên kết quả có thể không chính xác như mong muốn. Với những quan điểm
trên, ở phần sau, luận văn sẽ phân tích thực trạng thu ngân sách giai đoạn 2001-
2005 theo một số tiêu chí như khoản mục, sắc thuế và phân cấp nguồn thu.
1. Đánh giá tổng quát kết quả thu ngân sách 2001-2005
Kết quả thu ngân sách thành phố Hà Nội trong 5 năm qua đạt khá, với mức
tăng trưởng bình quân là 13.2%/năm, trong 5 năm, số thu ngân sách đạt 64035.79
tỷ đồng (giá 1994), đóng góp vào NSNN đạt 14-16%. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân, mức biến động thu ngân sách trong giai đoạn qua là rất lớn.
Năm 2001, Hà Nội gặp nhiều khó khăn về thời tiết, đặc biệt chịu ảnh
hưởng suy thoái của kinh tế thế giới, giá cả hàng hóa xuất khẩu giảm nhiều, thu
ngân sách trên địa bàn chỉ đạt mức tăng 19,8 tỷ đồng, tương đương 0,23%.
Năm 2002, kết quả thu tăng mạnh, đạt 3042.96 tỷ đồng, tương đương
mức tăng 34,9% so với năm 2001. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
mức 10,92%. Sở dĩ có sự tăng đột biến về thu này là do những thay đổi về cơ
chế chính sách thu, làm phát sinh những khoản thu mới cho thành phố (từ năm

2002, một số đơn vị hạch toán toàn ngành chuyển về thu tại Hà Nội, là khoản
thu nộp 100% NSNN: Tổng công ty đường sắt, Hãng hàng không quốc gia…).
Năm 2003, kinh tế thành phố tiếp tục phát triển, đạt mức tăng trưởng cao
hơn 2 năm trước, 11,11%. Có thể nói, việc Hà Nội ráo riết chuẩn bị chào mừng
SEAGAME 22 tổ chức tại Thủ đô đã là một cú hích phát triển kinh tế. Đây là
điều kiện thuận lợi để tăng nguồn thu ngân sách. Tuy nhiên, do sự tác động của
cuộc chiến tranh Irac và dịch viêm đường hô hấp cấp (SARS), cùng nhiều
nguyên nhân khác, thu ngân sách trên địa bàn chỉ đạt mức tăng 1096.33 tỷ đồng,
tương đương 9,32%, chỉ bằng hơn 1/3 mức tăng năm 2002.
Năm 2004, kinh tế Thủ đô tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao hơn những
năm trước, 12,59%, chấm dứt được dịch SARS tạo điều kiện phát triển các
ngành hàng không du lịch, dịch vụ nhà hàng khách sạn,... Mặc dù vậy, do phải
đối diện với dịch cúm gia cầm, giá cả tăng tới 8,88% nên theo giá so sánh, thu
ngân sách chỉ tăng 2064,3 tỷ đồng, đạt 16,05%, mức tăng chưa bằng năm 2002,
nhưng đây cũng là một thành tích rất tốt. Bên cạnh điều kiện phát triển kinh tế
thuận lợi, năm 2004 cũng là năm đầu tiên thực hiện Luật ngân sách sửa đổi,
năm có nhiều thay đổi trong lĩnh vực Thuế (các quy định mới về sắc thuế VAT,
TNDN, quy định về mặt hàng XNK),... nên các khoản thu ngân sách có những
biến động nhất định, có khoản thu tăng, có khoản thu giảm, kết quả chung vẫn
là thu ngân sách trên địa bàn đạt mức tăng cao.
Năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 11,62%, giảm nhẹ so với năm
2004. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, Thành phố Hà Nội đã phải đối diện
với nhiều khó khăn mới phát sinh như thời tiết hạn hán kéo dài, dịch cúm gia
cầm bùng phát trở lại, giá cả nhiều mặt hàng quan trọng tăng cao (chỉ số giá
tăng 9,46%) ảnh hưởng tới phát triển kinh tế và công tác thu ngân sách. Vì thế,
kết quả thu ngân sách theo giá so sánh chỉ tăng 852,98 tỷ đồng tức 5,72%.
Dưới đây là những thống kê về số thu ngân sách 5 năm qua:
Bảng 3. Kết quả thu NSNN trên địa bàn Hà Nội 2001-2005 (giá so sánh)
Đơn vị: Tỷ đồng
2001 2002 2003 2004 2005

Tổng thu NSNN trên
địa bàn
8718.97 11780.8 12861.8 14923.8 15783.2
Tốc độ tăng 0.23% 34.90% 9.32% 16.05% 5,72%
Nguồn: Tính toán từ Báo cáo Quyết toán ngân sách thành phố hàng năm
Nhìn chung 5 năm vừa qua thu ngân sách có rất nhiều biến động do nhiều
nguyên nhân. Có những năm thu ngân sách tăng rất cao, cũng có những năm rất
thấp. Ví dụ năm 2002 và 2005, đặc biệt là 2002, tốc độ tăng thu rất cao, cao hơn
nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, có những năm như 2001 và
2003, tốc độ tăng thu ngân sách lại thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Hình 2: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng thu ngân sách
Nguyên nhân sự biến động này ngoài yếu tố kinh tế, còn do trong những
năm qua đã có khá nhiều thay đổi về cơ chế chính sách thu, nhằm hoàn thiện và
đi vào ổn định trong những năm hội nhập sắp tới. Chính vì vậy, nếu loại bỏ sự tác
động của các cơ chế chính sách, thì thu ngân sách thành phố giai đoạn qua không
thể đạt được con số bình quân 13,24%/năm như hiện nay. Điều đó cũng có nghĩa,
thực chất công tác thu ngân sách còn chưa đúng với tiềm năng (tốc độ phát triển
kinh tế hàng năm đạt trung bình 11,3%).
2. Kết quả thu NSNN trên địa bàn thành phố Hà Nội chia theo từng khoản
mục
Trong nghiên cứu về mức thu ngân sách, thông thường chúng ta rất quan
tâm đến tỷ lệ động viên từ GDP vào NSNN, đánh giá mức độ phù hợp trong cơ
cấu các nguồn thu. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu công tác thu ngân sách
của thành phố Hà Nội, do giới hạn phạm vi lãnh thổ không đồng nhất với giới
hạn các nguồn thu. Ví dụ, nhiều công ty, doanh nghiệp nhà nước tuy không nằm
trên địa bàn Hà Nội, cũng có nghĩa hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
đó không được tính vào GDP thành phố, nhưng lại đóng thuế trên địa bàn, do
vậy là một nguồn thu của ngân sách nhà nước. Vì thế, luận văn không lấy tỷ lệ
động viên GDP vào ngân sách để đánh giá công tác thu. Tính hợp lý trong cơ
cấu nguồn thu phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như quan điểm giải quyết mối

quan hệ tích lũy và tiêu dùng, định hướng khuyến khích phát triển các ngành,
lĩnh vực,... do vậy luận văn không đi sâu nghiên cứu cơ cấu thu ngân sách trên
địa bàn, mà chỉ xem xét cơ cấu nguồn thu trên một số khoản mục trong mối
quan hệ với cơ cấu GDP của thành phố.
Ở phần trên, luận văn đã khái quát tình hình thu ngân sách trong giai đoạn
2001-2005, trong phần này, luận văn sẽ phân tích từng năm thực hiện ngân sách
theo từng khoản mục thu, từ đó tìm hiểu nguyên nhân gây ra những biến động
trong từng lĩnh vực.
Tổng thu ngân sách trên địa bàn chia theo nguồn bao gồm thu nội địa (trừ
dầu thô), thu từ hoạt động xuất nhập khẩu và thu từ dầu thô (là khoản thu đặc
biệt của NSNN, nộp 100% vào NSTƯ). Thu nội địa bao gồm: thu từ hoạt động
sản xuất kinh doanh (thu từ DNNN trung ương, DNNN địa phương, DN có vốn
đầu tư nước ngoài, DN ngoài nhà nước); thu từ nhà và đất; thu từ phí, lệ phí; và
các khoản thu khác như sổ xố kiến thiết, sự nghiệp,...
Bảng 4: Kết quả thu NS trên địa bàn Hà Nội theo từng khoản mục
Đơn vị: tỷ đồng
2001 2002 2003 2004 2005
Bình quân
Tổng 8719.9 11782.2 12862.9 14924.2 14640.2 12585.9
I. Thu từ XNK 1094.0 1587.6 1689.0 1924.0 1443.3 1547.6
II. Thu nội địa 7625.0 10193.2 10310.1 11758.2 12073.2 10392
Thu từ hoạt động
SXKD
5341.4 7198.9 7485.3 8192.9 8706.7 7385.0
Thu từ nhà và đất 290.6 372.2 765.8 1301.7 1222.2 790.5
Thu từ phí, lệ phí 560.2 955.9 942.9 1143.5 1128.9 946.3
Thu nội địa khác 2283.4 1666.2 1116.1 1120.2 1015.5 1440.3
III. Thu từ dầu thô 862.7 1241.6 1020.6 625.0
Nguồn: Tính toán từ Báo cáo Quyết toán ngân sách thành phố hàng năm
Thu nội địa trong 5 năm qua vẫn là khoản thu cơ bản của NSNN trên địa

bàn, số thu đạt bình quân 10392 tỷ đồng, tăng 86,68% so với giai đoạn 1996-
2000, với tốc độ tăng hàng năm 12,68%, ít biến động và là nguồn thu cơ bản, có
tính chất bền vững. Thu nội địa bao gồm các khoản: thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu, thu từ phí và lệ phí, thu từ nhà và đất, và nhiều khoản thu khác. Mỗi
khoản thu có những đặc điểm, tính chất khác nhau, nên việc quản lý, thực hiện
công tác thu đối với mỗi khoản cũng có những đặc trưng riêng. Trong các khoản
thu đó, thu từ hoạt động sản xuất được xem như quan trọng nhất và gắn với sự
phát triển kinh tế. Hình dưới đây cho thấy cơ cấu thu NSNN trên địa bàn.
Nguồn: Tính toán từ Báo cáo Quyết toán ngân sách thành phố hàng năm
- Thu từ hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu 5 năm qua đạt 7737,9 tỷ đồng,
trung bình mỗi năm thu 1547,6 tỷ đồng, chiếm 12,3% tổng thu ngân sách.
Khoản thu từ xuất nhập khẩu là tương đối lớn, đặc biệt đối với một nước có kim
ngạch xuất khẩu cao như Việt Nam. Mặc dù có ý nghĩa rất quan trọng và là
khoản thu không hề nhỏ, nhưng đây là khoản thu chịu biến động lớn của giá cả
quốc tế. Những năm qua giá cả thế giới biến động mạnh do sự tác động của
chiến tranh Trung Đông, (chiến tranh Irac, sự đối đầu của các phe đối lập trong
đó có Mỹ và các nước xuất khẩu dầu mỏ như Iran, Irac...). Điều đó lý giải một
phần vì sao thu từ xuất nhập khẩu 5 năm qua mặc dù đạt tốc độ tăng bình quân
6,1%/năm mà năm 2001 và 2005 thu từ khu vực này giảm và do vậy không
tương xứng với tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 19%, tăng kim ngạch nhập
khẩu 18%.
Bên cạnh lý do khách quan là sự biến động của giá cả quốc tế, có thể
thấy, ngành Hải quan trong những năm vừa qua mặc dù đã có nhiều cố gắng vẫn
chưa hoàn thành tốt công việc. Nạn buôn lậu vẫn diễn ra thường xuyên và thủ
đoạn ngày càng tinh vi. Đặc biệt, trong 5 năm qua, ngành Hải quan cũng đã có
nhiều nỗ lực cải cách hành chính trong khâu làm thủ tục, nhưng kết quả còn
nhiều hạn chế. Nhìn chung có thể đánh giá thu từ xuất nhập khẩu 5 năm qua đạt
khá.
- Thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh đặt trong mối tương quan với tình
hình tăng trưởng kinh tế của từng thành phần kinh tế bao gồm: Thu từ DNNN,

thu từ DN ngoài nhà nước, thu từ DN có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là khoản
thu chiếm tới gần 60% tổng thu NSNN trên địa bàn, là nguồn thu lớn nhất gắn
liền với tình hình phát triển kinh tế, và là nguồn thu bền vững, lâu dài có thể
nuôi dưỡng được. Hà Nội tập trung số lớn các doanh nghiệp, thuộc nhiều thành
phần, dưới nhiều hình thức tổ chức, với nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau.
Hiện nay, trên địa bàn có 585 DNNN do trung ương quản lý, 222 DNNN do địa
phương quản lý; gần 30000 doanh nghiệp ngoài nhà nước. Trong giai đoạn qua,
tổng thu ngân sách từ hoạt động sản xuất kinh doanh đạt 36925 tỷ đồng, bằng
gần 2 lần giai đoạn trước, chiếm 58,68% tổng thu NSNN trên địa bàn.
Một số bảng biểu sau đây sẽ khái quát tình hình thu từ hoạt động sản xuất
kinh doanh:
Bảng 5: Thu NSNN trên địa bàn từ hoạt động sản xuất kinh doanh (giá 1994)
Đơn vị: tỷ đồng
2001 2002 2003 2004 2005
Tổng thu từ HĐ
SXKD (Tổng)
5341,4 7198.9 7485,3 8192,9 8706,7
Thu từ DNNN
Trong đó: Từ DNNN

Từ DNNN
DP
4373,9
4163,8
210,2
6023,3
5842,3
180,9
6037,0
5837,2

199,7
5821,3
5637,3
184,0
6823,1
6610,8
212,3
Thu từ DN có vồn
đầu tư nước ngoài
619,1 779,8 904,6 1702,0 1722,6
Thu từ DN ngoài nhà
nước
348,4 395,8 543,8 669,6 840,2
Nguồn: Tính toán từ Báo cáo Quyết toán ngân sách thành phố hàng năm
Bảng 6: Tốc độ tăng thu NSNN trên địa bàn từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Đơn vị %
2001 2002 2003 2004 2005
Tổng thu từ HĐ
SXKD
7,98 34.77 3.98 9.45 11.56
Thu từ DNNN
Trong đó: Từ DNNN

Từ DNNN
DP
6,29
11,06
40,31
-14
-0,9

10,38
-3,5
-7,9
17,27
15,36
Thu từ DN có vồn
đầu tư nước ngoài
15,41 25,96 11 88,2 1,21
Thu từ DN ngoài
NN
14,8 13,62 37,38 23,13 25,48
Nguồn: Tính toán từ Báo cáo Quyết toán ngân sách thành phố hàng năm
Những số liệu cả tuyệt đối và tương đối các khoản thu trình bày trong 2
bảng trên kết hợp với tương quan về tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa
của các thành phần kinh tế trong bảng dưới đây sẽ giúp ta phần nào so sánh kết
quả thu ngân sách nhà nước trên địa bàn với tiềm năng phát triển của nền kinh
tế.

×