Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.53 KB, 12 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI VĂN SỸ

Công trình được hoàn thành tại: Hà Nội

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
Phó giáo sƣ, tiến sĩ Bùi Xuân Đức

Phản biện 1: ...........................................................
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG THỜI
KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
MÃ SỐ

Phản biện 1:............................................................

Luận văn sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ họp tại:..................................................
................................................................................

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2005

1


vào hồi......giờ........ngày......tháng.......năm 200

Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội
2


KẾT LUẬN

MỤC LỤC

2

PHẦN MỞ ĐẦU

Chương 1
Những vấn đề cơ bản quản lý nhà nƣớ c
về hoạt động khoa học và công nghệ

1.1.

Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động khoa học và
công nghệ

1.2.

Đặc điểm, nội dung quản lý nhà nước về khoa học và công
nghệ
Chương 2
Thực trạng quản lý nhà nƣớc

về hoạt động khoa học và công nghệ

1. Lý do chọn đề tài
7
7
9

11
11

2.1.

Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động
KH&CN

2.2.

Những vấn đề cơ bản của cơ chế quản lý hoạt động KH&CN

11

2.3.

Quy trình tiến hành hoạt động khoa học và công nghệ

12

2.4.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra hoạt động khoa học và công

nghệ

13

Đánh giá thực trạng quản lý hoạt động khoa học và công nghệ
Chương 3
Phƣơng hƣớng giải pháp nhằm đẩy mạnh
quản lý nhà nƣớc về hoạt động khoa học
và công nghệ trong giai đoạn hiện nay

13

3.1.

Giải pháp hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về KH&CN

15
15

3.2.

Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch về KH&CN

15

3.3.

Đổi mới quy trình thực hiện đối với hoạt động nghiên cứutriển khai

16


3.4.

Đổi mới cơ chế, chính sách đối với hoạt động nghiên cứutriển khai

17

3.5.

Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động
KH&CN

19

3.6.

Tăng cường quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế đối với
KH&CN

19

3

PHẦN MỞ ĐẦU
Lý luận quản lý nhà nước về KH&CN (KH&CN) có cơ sở học
thuật dựa trên những kết quả nghiên cứu về quy luật vận động của hoạt
động KH&CN. Nhờ những hiểu biết ngày càng phong phú hơn về các
quy luật vận động đó mà người ta có những chính sách tương ứng hợp
quy luật, giảm bớt những việc làm duy ý chí không phù hợp với quy luật,
để mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu quả của toàn bộ nhân, tài, vật lực

đầu tư cho KH&CN.
Việc nghiên cứu những xu thế, hiện tượng trong các hoạt động
KH&CN từ lâu đã thu hút chú ý của bản thân các nhà khoa học và các
chính trị gia. Tự nhận thức về hoạt động khoa học như một hiện tượng
cần nghiên cứu đã làm nẩy sinh sự tranh luận về một bộ môn mới của
khoa học. Đặc biệt phải kể đến sự ra đời của những phương pháp lượng
hóa hoạt động nghiên cứu, điều mà làm cho nghiên cứu có căn cứ khoa
học đầy đủ của nó. Chẳng hạn, Science Citation Index, các công cụ thông
tin thư mục, hệ thống thống kê khoa học của UNESCO và các quốc gia
trên thế giới là những công cụ không thể thiếu của những nghiên cứu
khoa học luận nghiêm túc. Qua hàng loạt nghiên cứu như vậy người ta
hiểu rõ hơn về đặc thù của nghề nghiệp khoa học, thái độ của các Chính
phủ đối với khoa học, làm phong phú thêm kho tàng tri thức của xã hội
về hoạt động khoa học, giúp cho các chuyên gia hoạch định chính sách
KH&CN, các chính trị vơí những cơ sở có ích để đề ra quyết định quản
lý một cách phù hợp. Chẳng hạn, những quy luật nội tại của hoạt động
khoa học như tính kế thừa, sự thâm nhập lẫn nhau giữa phương pháp của
các bộ môn khoa học, mối quan hệ giữa lý thuyết và thực nghiệm, quy
luật hình thành các cuộc cách mạng trong khoa học giữa tích tụ và nhảy
vọt-đột biến và vô số các quy luật riêng trong giao
4


tiếp của cộng đồng khoa học, quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa
khoa học và sản xuất vật chất, giữa khoa học và kỹ thuật, v..v đều cần
phải được tính đến trong quá trình ra các quyết định về tổ chức và quản
lý hệ thống các cơ quan khoa học, các chính sách của chính phủ đối với
KH&CN.
Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển bền vững đất nước. Đảng và Nhà

nước ta đã sớm xác định vai trò then chốt của cách mạng khoa học và kỹ
thuật. Trong thời gian qua, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, nhiều văn
bản quan trọng về định hướng chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển
KH&CN đã được ban hành: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá
VIII (1996); Kết luận Hội nghị trung ương 6 Khoá IX (2002); Luật
KH&CN (2000); Chiến lược phát triển KH&CN việt nam đến năm 2010
(2003) và nhiều chính sách cụ thể khác về xây dựng tiềm lực và đổi mới
cơ chế quản lý nhà nước về KH&CN. Qua nghiên cứu và quan sát, tác
giả thấy để đưa các chủ trương chính sách của Đảng, các quy định của
Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo cơ
chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đồng thời nhằm nâng cao vai trò, hiệu quả của quản lý nhà nước
về KH&CN. Chính điều này khiến tác giả quyết định lựa chọn đề tài
“Quản lý nhà nước về hoạt động KH&CN trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá” để làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay có rất nhiều đề tài đã nghiên cứu về cơ chế, chính sách,
quản lý nhà nước về KH&CN, nhưng nhìn chung các đề tài đã tập chung
nghiên cứu sâu từng lĩnh vực cụ thể của hoạt động quản lý nhà nước về
KH&CN như: Nghiên cứu chính sách KH&CN của Việt Nam phục vụ hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực (đề tài cấp Bộ 2003 do TS. Nguyễn Danh
Sơn làm chủ nhiệm đề tài); Nghiên cứu hoàn thiện chức năng,
5

nhiệm vụ quản lý KH&CN của các Bộ trong tiến trình cải cách hành
chính (đề tài cấp bộ 2002 do TS. Ngô Tất Thắng làm chủ nhiệm đề tài);
Nghiên cứu quá trình tổ chức hoạt động KH&CN của các Viện nghiên
cứu – triển khai thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc
gia (đề tài cấp Bộ 2000 doTS Nguyễn Thanh Thịnh làm chủ nhiệm đề
tài). 50 năm KH&CN Việt Nam 1945-1995, NXB Khoa học và Kỹ thuật,

Hà Nội 1995; GS, Viện sĩ Đặng Hữu (chủ biên) KH&CN với sự phát
triển kinh tế – xã hội, NXB Sự thật, 1989; Nghiên cứu khoa học phương
pháp luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999; GS Vũ
Cao Đàm (chủ biên) Phương pháp luận nghiên cứu khoa học , NXB
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2000
Dưới góc độ nguồn nhân lực KH&CN đã có một số công trình
nghiên cứu liên quan đến vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động
KH&CN Chính sách phát triển nguồn nhân lực KH&CN trong hệ thống
y tế ngành công nghiệp (luận văn thạc sĩ 2004 của tác giả Ninh Văn
Thức); Luận cứ khoa học cho việc đổi mới một số chính sách sử dụng
nguồn nhân lực KH&CN trong cơ quan nghiên cứu - triển khai (đề tài
cấp bộ 1999 do Ths Trần Trí Đức làm chủ nhiệm đề tài); TS. Hoàng
Xuân Long: Đặc điểm quản lý nhân lực khoa học trong tổ chức nghiên
cứu và phát triển nhà nước, tạp trí hoạt động KH&CN số 05/2000. Ths.
Trần Quốc Tuấn: Chính sách thu hút nhân lực KH&CN phục vụ phát
triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh (tính Hưng Yên) Tạp trí khoa động
KH&CN số 6/2004. Nghiên cứu những cơ sở khoa học để thực hiện chế
độ hợp đồng làm việc đối với cán bộ nghiên cứu khoa học (Luận văn thạc
sĩ -2004 của tác giả Trần Văn Tùng).
Khai thác dưới góc độ tài chính cho hoạt động KH&CN có một số
công trình nghiên: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xác
định mức thù lao lao động khoa học trong nhiệm vụ khoa học công nghệ
của nhà nước (đề tài cấp Bộ 2004 do TS Nguyễn Thị Anh Thu là chủ
nhiệm đề tài); Các giải pháp hoàn thiện việc phân bổ và quản lý ngân
6


sách nhà nước cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (Luận văn thạc sĩ2004 của tác giả Nguyễn Đức Thọ).
Các tài liệu tham khảo nước ngoài nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến quản lý nhà nước về hoạt động KH&CN gồm có Hưng thịnh và suy

vong của các cường quốc của tác giả Paul Kenedy, NXB Thông tin lý
luận, 1992; Những nguồn lực tác giả E.F Schumacher, NXB Lao động,
1994; Những vấn chủ yếu về KH&CN Hàn Quốc, tủ sách Ban công nghệ
cao Hoà Lạc, Bộ KH&CN Hà Nội, 1997.
3. Mục đích đề tài và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn của hoạt động quản lý nhà nước về hoạt động KH&CN
với cách tiếp cận ở các lĩnh vực khác nhau liên quan đến hoạt động
KH&CN nhưng chủ yếu dưới góc độ pháp lý nhằm tăng cường hiệu quả
quản lý nhà nước về hoạt động KH&CN. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
chỉ nghiên cứu giới hạn trong phạm vi quản lý nhà nước về hoạt động
KH&CN.

chính sách của Đảng, các quy định của nhà nước. Ngoài ra tác giả còn sử
các phương pháp khác như: nghiên cứu tổng hợp, phân tích, so sánh, quy
nạp, diễn dịch một số lĩnh vực của hoạt động quản lý nhà nước về
KH&CN
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Luận
văn gồm có 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản quản lý nhà nước về hoạt động
KH&CN.
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động KH&CN.
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về hoạt động KH&CN trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Để đạt được những mục tiêu nêu trên, tác giả cần phải làm rõ được
những vấn đề sau:
-


Đưa ra được những cơ sở lý luận của hoạt động KH&CN.

-

Nghiên cứu, xác định được những đặc trưng cơ bản của hoạt
động quản lý nhà nước về KH&CN.

-

Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động KH&CN.

-

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về hoạt động
KH&CN.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài luận văn được tác giả nghiên cứu với cách tiếp cận ở các lĩnh
vực khác nhau của hoạt động quản lý KH&CN dựa trên cơ sở phương
pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương
7

8


Các dạng quản lý
- Đối tượng quản lý là các vật vô tri vô giác
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN VĂN
Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ HOẠT ĐỘNG KH&CN

Trong chương này, tác giả tập trung làm rõ một số vấn đề ở góc độ
lý luận về những khái niệm cơ bản quản lý nhà nước về hoạt động
KH&CN ở nước ta và trên thế giới.
1. 1. Khái niệm quản nhà nƣớc về khoa học và công nghệ
Trên cơ sở nghiên cứu những khái niệm, định nghĩa, tác giả đã rút
ra được những nhận xét sau:
Trên thực tế có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau để giải thích về
khái niệm, về bản chất, về lý luận và về các kỹ thuật làm cơ sở cho sự
thực hành quản lý: theo Học thuyết quản lý theo khoa học (Frederisk
Winslow Talor, 1856-1915), quản lý là biết được chính xác điều bạn
muốn người khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công
việc một cách tốt nhất và rẻ nhất; Thuyết Quản lý hành chính (Henry
Fayol, 1841-1925), quản lý hành chính là sự dự đoán và lập kế hoạch, tổ
chức điều khiển, phối hợp với kiểm tra; Thuyết quản lý tổ chức (Chester
Irwing Barnard, 1886-1961), quản lý bao giờ cũng cũng là việc quản lý
một hệ thống tổ chức nhất định, nó có tính hệ thống và mục đích của nó
là làm tăng sức mạnh hệ thống của một tổ chức.

- Đối tượng quản lý là các vật hữu sinh .
- Đối tượng quản lý là con người (bao gồm tổ chức, đoàn thể, xã
hội và trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa học và công nghệ…).
Quá trình quản lý
Quản lý là quá trình thực hiện những hoạt động (chức năng riêng
biệt nhưng có quan hệ mật thiết với nhau và theo một trình tự nhất định,
hướng tới việc phối hợp các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực, thông
tin) để đạt được mục tiêu với hiệu quả cao nhất, đó là các hoạt động 1)
Lập kế hoạch (phải làm gì); 2) Tổ chức (ai làm và làm cách nào); 3) Điều

khiển (gây ảnh hưởng lên cách làm) và 4) Kiểm tra (bảo dảm kế hoạch
được thực thi).
Như vậy, quản lý khoa học và công nghệ mà chúng ta đề cập ở đây
là quản lý công tác khoa học và công nghệ, nó bao gồm một nội dung
rộng lớn và đa dạng hơn nhiều so với quản lý nghiên cứu khoa học với
nghĩa hẹp.
Quản lý hoạt động khoa học và công nghệ, là một hoạt động bao
trùm, có tính chất vĩ mô, bao gồm những động tác như hoạch định chiến
lược phát triển khoa học và công nghệ, kế hoạch và qui hoạch dài hạn,
xây dựng chính sách, thể chế cho hoạt động khoa học và công nghệ, ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật khoa học và công nghệ, sắp xếp tổ
Các nguyên tắc quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ

Và như vậy để có thể trả lời được câu hỏi quản lý là gì? từ các
điểm chung nhất của các cách tìm hiểu khác nhau về quản lý như đã nêu
ở trên, có thể hiểu quản lý như sau: Quản lý là sự tác động của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong điều
kiện biến động của môi trường

Xuất phát từ đặc điểm của đối tượng quản lý là hoạt động khoa học
và công nghệ. Mỗi nguyên tắc trên thực tế không vận dụng riêng rẽ mà
phối hợp nhuần nhuyễn với các nguyên tắc khác mới có thể phát huy tác
dụng trong thực tế.

9

10

Nguyên tắc về sự thống nhất giữa khoa học và kinh tế



Nguyên tắc kết hợp với cơ chế tác động của thị
trường Nguyên tắc kết hợp tập trung với dân chủ
Nguyên tắc phân công, phân cấp
Nguyên tắc tham gia của cộng đồng
Nguyên tắc kế thừa và phát triển, tuần tự kết hợp với nhảy vọt
Động lực của khoa học và công nghệ đối với công nghiệp
hoá, hiện đại hoá
Xem xét vai trò động lực của khoa học và công nghệ đối với sự
phát triển kinh tế – xã hội nói chung và phát triển kinh tế nói riêng, đa số
các nhà khoa học đều cho rằng động lực là cái thúc đẩy sự vận động và
phát triển. Khoa học và công nghệ, nói cụ thể hơn là hoạt động đem lại
thành tựu về khoa học và công nghệ vừa là kết quả của sự phát triển kinh
tế – xã hội, văn hoá, vừa là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,. Theo
tính toán của Solow, giáo sư trường đại học Công nghệ Massachuset,
người được giải thưởng Nobel về kinh tế, thì 80% tăng trưởng của các
nên kinh tế phương Tây, nhất là Mỹ, là kết quả của đổi mới công nghệ.
1.2. Đặc điểm, nội dung quản lý nhà nƣớc về khoa học và công
nghệ
Đặc điểm quản lý nhà nước về khoa học và công
nghệ Tính đặc thù của lao động khoa học và công
nghệ
Lao động khoa học và công nghệ là hiện tượng lịch sử xã hội phức
tạp, là quá trình lao động xã hội đặc thù. Nó là hoạt động của những
người có tri thức chuyên môn đặc biệt, tiến hành thu thập, xử lý, gia công
thông tin về các sự vật trong giới tự nhiên hoặc nhân tạo để có được tri
thức lý luận, phương pháp tác động, đường lối nhận biết thế giới và cải
tạo thế giới. Do đó, lao động khoa học và công nghệ có tính qui luật
khách quan và tính đặc thù của nó.


Đặc tính kế thừa của lao động khoa học và công nghệ.
Trong mỗi khâu, mỗi bước nghiên cứu, tính tích luỹ này cũng được
biểu hiện đầy đủ từ đầu đến cuối. Đo đạc thử nghiệm lặp đi lặp lại cùng
với phân tích so sánh số liệu thực nghiệm là biểu hiện quan trọng của tính
tích luỹ. Cho nên, những người làm công tác khoa học và công nghệ,
trong lao động khoa học và công nghệ cần cù gian khổ, đều phải chú ý kế
thừa, tích luỹ, tiêu hoá và tiếp thu tri thức, mà “dũa đá của người thành
ngọc của ta”, chính là con đường dẫn tới thành công của những người lao
động khoa học và công nghệ.
Các công cụ quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ, bao gồm
các công cụ sau:
-

Công cụ pháp luật;

-

Các công cụ hành chính;

-

Các công cụ kinh tế.
Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công nghệ

Nếu phân theo nội dung quản lý nhà nước khoa học và công nghệ
thì gồm có: hoạch định chính sách khoa học và công nghệ, hoạch định
chiến lược khoa học và công nghệ, lập kế hoạch khoa học và công nghệ,
quản lý nhân lực khoa học và công nghệ, quản lý kinh phí khoa học và
công nghệ, quản lý các điều kiện đảm bảo khoa học và công nghệ, quản
lý thông tin khoa học và công nghệ, quản lý hợp tác quốc tế khoa học và

công nghệ và các nội dung khác liên quan đến quá trình sản xuất, nâng
cao, truyền bá và sử dụng kiến thức khoa học và công nghệ.

12
11


khai từng lĩnh vực, xu hướng phát triển của nghiên cứu – triển khai trong
tiến trình phát triển theo chiến lược khoa học và công nghệ.
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

2.1. Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nƣớc về hoạt động khoa
học và công nghệ
Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan quản lý nhà nước về khoa
học và công nghệ thống nhất trên phạm vi cả nước, các Bộ, cơ quan
ngang bộ là cơ quan quản lý khoa học và công nghệ theo ngành, lĩnh vực
mình quản lý, các Sở khoa học và công nghệ là cơ quan chuyên môn giúp
UBND quản lý KH&CN ở địa phương mình.
2.2. Những vấn đề cơ bản của cơ chế quản lý hoạt động khoa
học và công nghệ giai đoạn hiện nay
2.2.1. Thể chế hoá những quan điểm chỉ đạo đối với hoạt động
nghiên cứu – triển khai Những quan điểm chỉ đạo này được thể chế hoá
trong các văn kiện quan trọng sau đây:
- Các văn bản quy phạm pháp luật; các định hướng chiến lược,
các kế hoạch hành động, vv.
2.2.2. Tạo lập môi trường pháp lý rõ ràng cho hoạt động khoa học
và công nghệ nói chung và hoạt động nghiên cứu – triển khai nói riêng,
thông qua hệ thống các chính sách, trong đó có:

- Chính sách đầu tư;

- Các chính sách ưu tiên và khuyến khích đối với nghiên cứu –
triển khai
2..2..3. Xác lập các điều kiện tổ chức và thiết chế cho hoạt động
nghiên cứu –triển khai
- Xây dựng quy định và quy chế về thành lập và hoạt động của
hệ thống mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước, của
các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế.
- Quy định về hệ thống cơ quan quản lý nghiên cứu – triển khai
từ trung ương cho đến các cấp, và ở các đơn vị cơ sở.
- Xác định các mối quan hệ giữa tổ chức nghiên cứu – triển khai
với các cơ quan quản lý, các đơn vị khác, với các cơ sở sản xuất kinh
doanh, giữa các tổ chức nghiên cứu và triển khai và triển khai với nhau.
- Ban hành các quy chế quản lý nghiên cứu – triển khai tạo thuận
lợi cho sự phát triển rộng khắp hoạt động nghiên cứu – triển khai trong
các ngành, các địa phương, các cơ sở.
2.3. Quy trình tiến hành hoạt động khoa học và công nghệ
Để thực hiện được sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động khoa
học và công nghệ có hiệu quả và đồng bộ trên phạm vi toàn quốc nhất
thiết cần phải tuân theo những trình tự thủ tục nhất định Qua nghiên cứu
tác giả xin đưa ra các giải đoạn của quá trình tổ chức hoạt động của một
nhiệm vụ nghiên cứu – triển khai, thường gồm 4 giai đoạn sau:
- Xây dựng, lựa chọn và xét duyệt nhiệm vụ.

- Chính sách nghiên cứu – triển khai, định rõ quan hệ tỷ lệ giữa
nghiên cứu cơ bản - nghiên cứu ứng dụng - nghiên cứu triển khai trong
từng lĩnh vực khoa học, những định hướng cụ thể của nghiên cứu – triển

- Tổ chức chỉ đạo thực hiện.

- Đánh giá nghiệm thu kết quả.
- Công bố và ứng dụng kết quả.

13

14


Tuỳ thuộc vào loại hình tổ chức của mỗi hoạt động nghiên cứu –
triển khai, các việc trong 4 giai đoạn đó không hoàn toàn giống nhau, có
những khâu việc có thể được thực hiện đơn giản hơn. Trong các loại hoạt
động nghiên cứu – triển khai, hoạt động của các Chương trình, Đề tài, Dự
án là phức tạp nhất, thực hiện các khâu việc trong 4 giai đoạn của quá
trình tổ chức hoạt động có tính hệ thống nhất. Những diễn giải dưới đây
chủ yếu dựa vào yêu cầu tổ chức quản lý đối với các Đề tài, Dự án để dễ
thấy tính hệ thống trong quá trình tổ chức hoạt động nghiên cứu – triển
khai. Các hoạt động nghiên cứu – triển khai khác có thể theo đó vận dụng
linh hoạt thích hợp với yêu cầu và hình thức hoạt động cụ thể.
2.4. Hoạt động thanh tra, kiểm tra hoạt động khoa học và công
nghệ
- Thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động nghiên cứu khoa học và
công nghệ thanh tra, kiểm tra đối với với hoạt động nghiên cứu khoa học
và công nghệ được tiến hành từ giai đoạn xây dựng và xét duyệt chương
trình đề tài, dự án; tổ chức thực hiện chương trình, đề tài, dự án; sử dụng
và quản lý kinh phí, cũng như đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học và
công nghệ.
- Thanh tra, kiểm tra tài chính- kế toán đối với hoạt động khoa học
và công nghệ
2.5. Đánh giá thực trạng quản lý hoạt động khoa học và công
nghệ

Những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về khoa học
và công nghệ
Thứ nhất, chức năng quản lý nhà nước còn chưa được xác định rõ
ràng và tách bạch với các chức năng khác, như hoạt động tác nghiệp,
dịch vụ.
Thứ hai, việc thực thi các chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước
về KH&CN trong thời gian qua của các cơ quan quản lý nhà nước về
15

khoa học và công nghệ còn lúng túng, chưa đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn, tính thực thi của các quyết định chưa cao, nhất là vấn đề hoạch định
chính sách phát triển khoa học và công, xây dựng cơ chế quản lý khoa
học và công nghệ.
Thứ ba, bộ phận quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ của
các cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ còn bị thu hút
nhiều vào các công việc trực tiếp thực hiện các hoạt động nghiệp vụ hơn
là soạn thảo chính sách, hướng dẫn thực hiện và tổ chức kiểm tra
Thứ tư, chưa có sự phân công phối hợp và điều phối tốt giữa các bộ
phận quản lý khoa học và công nghệ trong hệ thống quản lý nhà nước
Thứ năm, việc sắp xếp, phân công các bộ phận trong hệ thống quản
lý KH&CN của các bộ và các địa phương chưa thích hợp.
Thứ sáu, chưa thực hiện phân định chịu trách nhiện của các bộ và
địa phương về chính sách phát triển khoa học và công nghệ của ngành,
địa phương.
Thứ bảy, năng lực của cán bộ công chức làm quản lý nhà nước về
khoa học và công nghệ ở trung ương và địa phương còn hạn chế. Điểm
này là nét hạn chế chung của nhân lực trong bộ máy quản lý nhà nước,
không chỉ riêng có của một ngành, lĩnh vực nào.
Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác quản lý khoa học
và công nghệ

Thứ nhất, nhận thức của cán bộ, công chức về vai trò và chức năng
quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ còn chưa
thật rõ ràng, chưa thật thống nhất;
Thứ hai, tiến trình cải cách hành chính nhà nước nói chung còn
chưa được thúc đẩy mạnh mẽ.
Thứ ba, một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức của bộ máy
quản lý nhà nước chưa nhận thức được một cách đầy đủ về vai trò và vị
trí của khoa học và công nghệ đối với phát triển KT-XH.
16


Thứ tư, còn có những lợi ích cục bộ cản trở đổi mới.

Chương 3
PHƢƠNG HƢỚNG GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY

Trong chương này tác giả xin đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh
hiệu quả quản lý nhà nước trên cơ sở những hiện trạng đã được trình bày
ở chương 2 của luận văn.
3.1. Giải pháp hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nƣớc về khoa
học và công nghệ
Thứ nhất, cần tập trung vào việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả
điều phối giữa các cơ quan trung ương đối với hoạt động KH&CN
Thứ hai, thay đổi cách tiếp cận và phương pháp trong quản lý nhà
nước về khoa học và công nghệ của các bộ. Nghĩa là, trong xây dựng các
chính sách khoa học và công nghệ cần lấy việc khoa học và công nghệ
phục vụ doanh nghiệp đổi mới công nghệ làm trọng tâm. Mặt khác, quản
lý nhà nước về khoa học và công nghệ tập trung vào việc đưa ra các định

hướng lớn, hướng dẫn về quy trình, quy định áp dụng trong lĩnh vực khoa
học và công nghệ.
Thứ ba, xây dựng cơ cấu bộ máy tương thích với việc phân công
thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về khoa học và công
nghệ. Để tránh tình trạng trung lắp, nhiều bộ phận, nhiều cấp cùng quản
lý một đối tượng.
3.2. Đổi mới với công tác qui hoạch, kế hoạch về khoa học và
công nghệ

17

Nội dung đổi mới của công tác xây dựng kế hoạch nghiên cứu triển
khai trước hết là xác định đúng phương hướng và nội dung nghiên cứutriển khai, trọng tâm, trọng điểm từng giai đoạn và hàng năm. Đây là căn
cứ để tập trung đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, đào tạo cán bộ và
kinh phí. Cần nhanh chóng đổi mới phương pháp xây dựng kế hoạch
nghiên cứu triển khai , phải tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các yêu cầu kỹ
thuật và kinh tế của sản xuất và đời sống.Tiến tới xây dựng kế hoạch
thông qua đơn đặt hàng thể hiện bằng các hợp đồng cụ thể. Đó là một
bước chuyển tích cực để nâng cao chất lượng của kế hoạch hóa.
Đổi mới công tác xây dựng kế hoạch nghiên cứu triển khai là một
yêu cầu bức thiết, một đòi hỏi của công tác quản lý, một yêu cầu đổi mới
đồng bộ theo đường lối của Đảng đã đề ra, gắn khoa học và công nghệ
với các chương trình mục tiêu phát triển KT-XH của nhà nước. Thực hiện
như vậy sẽ nâng cao hiệu quả của công tác nghiên cứu khoa học.
3.3. Đổi mới quy trình thực hiện đối với hoạt động nghiên
cứu - triển khai
Một là, cần tiếp tục tổ chức công tác nghiên cứu theo chương trình
mục tiêu. Tuy nhiên, cần phải xác định mục tiêu chương trình cho rõ ràng
hơn, sản phẩm khoa học và công nghệ cụ thể hơn để từ đó xây dựng các
chương trình và thiết kế các nhiệm vụ khoa học và công nghệ phù hợp

hơn, gắn bó hơn với mục tiêu đề ra. Các nhiệm vụ nghiên cứu thuộc
chương trình phải thực sự là nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp nhà
nước, vừa mang tính liên ngành vừa thể hiện được mục tiêu ưu tiên quốc
gia, là những vấn đề khoa học và công nghệ lớn nhằm nâng cao trình độ
khoa học và công nghệ của đất nước và phục vụ các mục tiêu phát triển
KT-XH.
Hai là, để các đề tài khoa học và công nghệ gắn chặt hơn với sản
xuất và đời sống, các đề xuất về nhiệm vụ khoa học và công nghệ cần
phải được tập hợp từ nhiều nguồn: Từ các bộ ngành, các tổ chức khoa
18


học và công nghệ, các doanh nghiệp, các nhà khoa học và từ các đặt hàng
của Nhà nước.
Ba là, thực hiện công khai, dân chủ, bình đẳng việc tuyển chọn
trong các tổ chức và cá nhân chủ trì đề tài/dự án khoa học và công nghệ
nhằm tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh trong việc nhận các nhiệm vụ khoa
học và công nghệ của Nhà nước, thu hút được nhiều cán bộ giỏi (kể cả
cán bộ trẻ) tham gia các chương trình khoa học và công nghệ cấp nhà
nước, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư cho khoa học và công nghệ.
Bốn là, xây dựng các chính sách và biện pháp khuyến khích cả bên
tạo ra kết quả KH&CN và bên nhận áp dụng các kết quả vào sản xuất và
đời sống.
Năm là, đa dạng hoá các nguồn vốn cho việc thực hiện các đề tài,
trong đó chú ý xem xét các đề tài của các doanh nghiệp có sự đóng góp
vốn của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đổi mới công nghệ, sản xuất
sản phẩm mới, nâng cao chất lượng đồng thời hạ giá thành sản phẩm,
tăng sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập.
Sáu là, đổi mới hơn nữa cơ chế xét duyệt, đánh giá nghiệm thu các
đề tài khoa học và công nghệ: Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá cụ

thể, thành lập quỹ chuyên gia đánh giá, quy định rõ trách nhiệm của hội
đồng xét duyệt và đánh giá nghiệm thu. Nghiên cứu và áp dụng phương
thức đánh giá giữa kỳ và đánh giá sau nghiệm thu đối với các đề tài/dự
án nhằm phổ biến và nhân rộng các kết quả khoa học và công nghệ đã
được tạo ra...
3.4. Đổi mới cơ chế, chính sách đối với hoạt động nghiên cứu triển khai
Để góp phần đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các nhiệm vụ
khoa học và công nghệ, tác giả xin đề xuất một số phương án sau:

- Sửa đổi Thông tư 45 theo hướng tăng một số định mức chi từ 2
đến 3 lần so với hiện nay, Theo tác giả, trong Thông tư chỉ nên quy định
một mức chung, không phân biệt cấp quản lý của đề tài là nhà nước hay
bộ, ngành, tỉnh, thành phố. Nếu cần có sự phân biệt thì dựa vào quy mô,
khối lượng của nhiệm vụ khoa học và công nghệ và dựa trên cơ sở đề tài
là R, R-D hay dự án P, hoặc thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn.
- Trao quyền chủ động cho chủ nhiệm đề tài trong việc chi kinh
phí, sau khi đã được hội đồng xét duyệt, cơ quan quản lý duyệt tổng kinh
phí của đề tài, dự án. Nói cách khác, theo phương án này, chủ nhiệm đề
tài có quyền chi kinh phí không theo định mức và tự quyết định phân bổ
kinh phí cho các khoản chi tiêu. Về mặt thủ tục tài chính, chủ nhiệm đề
tài vẫn phải đảm bảo có đầy đủ các chứng từ, hoá đơn cần thiết và phải
lưu giữ, xuất trình các chứng từ đó cho cơ quan chủ trì, cơ quan quản lý
khi giám định, nghiệm thu đề tài làm cơ sở cho việc nghiệm thu, thanh lý
hợp đồng. Các cơ quan này có quyền kiểm tra các loại chứng từ trên
trong quá trình thực hiện đề tài, dự án. Cần lưu ý là, việc quản lý các vấn
đề khác của đề tài như xét duyệt, nghiệm thu... được áp dụng theo các
quy định hiện hành.
- "Khoán" hay còn gọi là phương án "chìa khoá trao tay", tức là cơ
quan quản lý sẽ ký hợp đồng mua sản phẩm khoa học theo nội dung và
kinh phí được thoả thuận. Phương án "khoán" chủ yếu áp dụng cho

những đề tài thuộc dạng đấu thầu (hoặc được tuyển chọn thông qua các
hội đồng tuyển chọn như Bộ khoa học và công nghệ đang thực hiện).
Như vậy, khi tiến hành "đấu thầu" các nhiệm vụ khoa học và công nghệ
sẽ là trọn gói, bao gồm nội dung khoa học, hiệu quả kinh tế - xã hội và
kinh phí thực hiện.
Về triển khai thực hiện tác giả có đề xuất như sau:
- Trước mắt triển khai ngay việc sửa đổi Thông tư

19

20


- Đối với phương án 2 và phương án 3 có thể cho triển khai thí
điểm ở một số tỉnh, thành phố và một số bộ ngành, sau 1 đến 2 năm rút
kinh nghiệm, hoàn chỉnh cơ chế và áp dụng rộng rãi.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ khoa học và công nghệ
tham gia các hội nghị quốc tế tiến hành trao đổi và nghiên cứu khoa học
và giảng dạy ở nước ngoài về các tổ chức quốc tế.

Trên đây là một số đề xuất mang tính nguyên tắc trong việc đổi
mới cơ chế quản lý tài chính đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Tác giả mong rằng sẽ sớm có những sửa đổi từ phía Nhà nước nhằm đạt
mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà khoa học trong nghiên
cứu, đồng thời các cơ quan quản lý khoa học và công nghệ cũng nâng cao
hiệu quả của công tác quản lý.

- Có các chính sách thu hút cán bộ khoa học và công nghệ xuất
sắc, các chuyên gia người Việt đang sống ở nước ngoài để hỗ trợ sự

nghiệp phát triển khoa học và công nghệ trong nước, mời các chuyên gia
nước ngoài đến Việt Nam nghiên cứu và giảng dạy.

3.5. Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động khoa
học và công nghệ
- Nhanh chóng ban hành các văn bản pháp quy phạm có giá trị
pháp lý cao về công tác thanh tra khoa học và công nghệ;
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao nghiệp
vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra chuyên ngành
của từng lĩnh vực khoa học và công nghệ;
- Tăng cường biên chế, trang thiết bị chuyên dụng cho từng lĩnh
vực khoa học nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thực hiện nay.
- Xử lý nhanh, đúng chính xác các hành vi xâm phạm trong lĩnh
vực khoa học và công nghệ.
3.6. Tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về hợp tác quốc tế đối với
khoa học và công nghệ
- Cần có những những chính sách nhằm đa dạng hoá loại hình
quan hệ và hợp tác nhằm tranh thủ tri thức và công nghệ cần thiết, nhất là
những tri thức và công nghệ cao, thuộc các lĩnh vực, hướng ưu tiên của
quốc gia.
- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân có sự hợp tác quốc tế về kinh
tế kết hợp với hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ.
21

- Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực thông qua hợp tác quốc tế về
khoa học và công nghệ.
- Coi trọng khai thác các nguồn tài trợ quốc tế cho hoạt động khoa
học và công nghệ của Việt Nam.
- Tăng cường khả năng thu thập và trao đổi thông tin khoa học và
công nghệ quốc gia và quốc tế. Triệt để khai thác mạng thông tin quốc tế

Internet.
- Cho phép các tổ chức khoa học và công nghệ mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế.
- Có chính sách và cơ chế ưu đãi và thích hợp tạo điều kiện thuận
lợi khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo và bồi dưỡng nhân lực khoa
học và công nghệ ở nước ngoài.
Trên đây là toàn bộ nội dung của luận văn đã được tác giả trình bày
tóm tắt những vấn đề chính. Có thể trong quá trình thực hiện, luận văn
vẫn còn một số thiếu sót. Vì vậy tác giả rất mong nhận được những ý
kiến đánh giá, đóng góp và nhận xét của các thầy cô, các bạn và những
người người quan tâm.
KẾT LUẬN

Quản lý khoa học và công nghệ là vấn đề lớn, phức tạp, bao hàm
nhiều nội dung. Trong nền kinh tế thị trường, động lực phát triển khoa
22


học và công nghệ là quyền lợi của người ứng dụng nó. Tất nhiên chúng
ta còn có thể đề cập đến những yếu tố khác như: Vì sự tiến bộ và văn
minh xã hội, vì môi trường và an toàn cuộc sống, vì an ninh quốc
phòng... Nhưng một vấn đề rất đáng quan tâm là: Nếu không có lợi thì
không ai muốn ứng dụng tiến bộ kỹ thuật cả. Động viên tinh thần là quan
trọng nhưng quyền lợi kinh tế mới là quyết định.
Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ cần tạo ra được động lực
cho sự phát triển khoa học và công nghệ. Động lực này nằm ở người sản
xuất chứ không phải ở người nghiên cứu. Mọi chính sách quản lý khoa
học và công nghệ phải tạo ra được niềm đam mê ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật trong người sản xuất (các doanh nghiệp). Nếu người sản xuất sẵn
sàng mua kết quả nghiên cứu với giá trị đúng của nó thì các nhà khoa học

sẽ làm việc hết sức mình mà không cần phải động viên. Điều này hiện
nay chúng ta còn chưa làm được.

23

24



×