Tải bản đầy đủ (.docx) (108 trang)

luận văn thạc sĩ pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra từ thực tiễn thanh tra huyện đình lập, tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.71 KB, 108 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra
– Từ thực tiễn thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn” là công trình
nghiên cứu thực sự của bản thân tôi, không trùng lặp với các công trình
nghiên cứu có liên quan đã được công bố. Số liệu và các kết quả nghiên cứu
trong luận văn là trung thực, hoàn toàn dựa theo số liệu thu thập và điều tra.
Các thông tin trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn
tài liệu tham khảo.
Hà Nội, ngày 15 tháng 02 năm 2020
Tác giả luận văn

Vi Th ị Đƣơng


LỜI CẢM ƠN
Sau quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn với đề tài:
“Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra - từ thực tiễn thanh tra huyện
Đình Lập tỉnh Lạng Sơn” , em đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình
của các thầy giáo, cô giáo, các anh chị, và các bạn. Với lòng kính trọng và biết
ơn sâu sắc, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới:
Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia, Khoa Sau đại học Học
viện Hành chính Quốc gia, tập thể đội ngũ cán bộ, giảng viên Học viện Hành
chính Quốc gia đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong quá trình học
tập và hoàn thành luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Đinh Văn Minh đã nhiệt tình chỉ bảo,
giúp đỡ và tạo điều kiên thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập và hoàn
thành luận văn tốt nghiệp.
Xin cảm ơn đến Thanh tra huyện Đình Lập - tỉnh Lạng Sơn đã tạo điều
kiện thuận lợi, cung cấp số liệu khách quan trong quá trình nghiên cứu và
thực hiện đề tài.
Xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, các anh chị đã động viên, giúp


đỡ em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.

Tác giả luận văn

Vi Th ị Đƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG THANH TRA....................................................................................10
1.1. Khái quát về Thanh tra.............................................................................10
1.2. Nội dung pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra huyện........................22
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra
huyện...............................................................................................................30
Kết luận chương 1...........................................................................................34
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG Ở THANH TRA HUYỆN ĐÌNH LẬP TỈNH LẠNG
SƠN................................................................................................................ 35
2.1. Khái quát chung về huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn......................................... 35
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tổ chức ở Thanh tra huyện huyện Đình
Lập, tỉnh Lạng Sơn từ 2017 đến năm 2019.....................................................37
2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về hoạt động ở Thanh tra huyện Đình Lập,
tỉnh Lạng Sơn từ 2017 đến 2019............................................................................................ 39
2.4.Nhận xét, đánh giá.................................................................................................................. 48
Kết luận chương 2...........................................................................................63
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA TỪ THỰC
TIỄN HUYỆN ĐÌNH LẬP, TỈNH LẠNG SƠN......................................... 64

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của thanh tra
huyện...............................................................................................................64
3.2.Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của thanh tra
huyện...............................................................................................................68
3.3. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của Thanh tra huyện Đình Lập,
tỉnh Lạng Sơn..................................................................................................85
Kết luận chương 3...........................................................................................95
KẾT LUẬN....................................................................................................96


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Kết quả thanh tra kinh tế - xã hội từ năm 2017 đến năm 2019
Bảng 2.2. Báo cáo kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị
hàng năm của UBND huyện Đình Lập từ năm 2017 đến năm 2019
Bảng 2.3. Kết quả tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra
huyện Đình Lập từ năm 2017 đến năm 2019


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
U
B
N
D

Q
L
N
N
P
C

T
N
T
Q

Uỷ ban
nhân dân
Quản lý
nhà nước
Phòng
chống tham
nhũng
Thẩm
quyền


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Công tác thanh tra là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động
quản lý nhà nước, là một chức năng quản lý thiết yếu của quản lý nhà nước, là
công cụ phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý nhà nước. Ngay từ những
ngày đầu lập nước chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú ý tới việc sử dụng, phát huy
vai trò của công tác thanh tra. Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc
lệnh 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt tiền thân của các tổ chức Thanh
tra ngày nay.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực thì tổ chức và hoạt động thanh
tra vẫn còn bộc lộ những bất cập như: Tổ chức các bộ máy cơ quan thanh tra
chưa đáp ứng được yêu cầu của quản lý nhà nước. Bên cạnh đó quyền hạn
thanh tra còn hạn chế các kết luận, kiến nghị thanh tra chưa được thực hiện
một cách nghiêm chỉnh và còn thiếu nhiều biện pháp cứng rắn, chế tài đủ

mạnh. Một số cán bộ thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ, kĩ
năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị trong thực hiện
nhiệm vụ được giao.
Luật thanh tra đã được Quốc hội thông qua ngày 15/11/2020 và có hiệu
lực kể từ ngày 01/07/2011. Qua hơn sáu năm triển khai thực hiện, Luật thanh
tra đã tạo hành lang pháp lý quan tọng trong việc hoàn thiện tổ chức và nâng
cao hoạt động thanh tra. Luật thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn
thi hành đã quy định tương đối cụ thể, rõ ràng cơ cấu tổ chức nhiệm vụ quyền
hạn của các cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên nghành, mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra nhà nước
và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên nghành.
Luật thanh tra đã quy định đầy đủ vị trí, vai trò và chức năng của cơ
quan thanh tra nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay là sự phụ thuộc quá lớn của cơ
1


quan thanh tra nhà nước vào cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp về tổ chức,
nhân sự, kinh phí, trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, trong
quá trình tiến hành thanh tra cũng như giai đoạn kết thúc, kết luận, kiến nghị
xử lý. Các cơ quan thanh tra phụ thuộc gần như toàn bộ vào cơ quan và thủ
trưởng cơ quan quản lý cùng cấp. Sự phụ thuộc quá nhiều vào thủ trưởng cơ
quan quản lý cùng cấp đã ảnh hưởng đến sự chủ động, tính độc lập cần thiết
trong hoạt động thanh tra.
Vị trí vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong bộ máy hành
chính nhà nước chưa được xác định tương xứng với nhiệm vụ được giao.
Theo luật thanh tra , các cơ quan thanh tra nhà nước được giao nhiệm vụ
thanh tra các cơ quan, tổ chức cá nhân trực thuộc quyền quản lý của Thủ
trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp trong việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Tuy nhiên, Luật Thanh tra quy
định, các cơ quan thanh tra nhà nước là cơ quan hoặc cơ quan chuyên môn

của cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp có vị trí tương đương với cơ quan , tổ
chức là đối tượng thanh tra. Thủ trưởng cơ quan thanh tra cũng chỉ tương
đương với Thủ trưởng cơ quan tổ chức là đối tượng thanh tra, thậm chí trong
một số trường hợp còn kém vị thế hơn( như trường hợp thanh tra Bộ thanh tra
đối với Tổng cục thuộc bộ). Do đó, cũng gây ra những khó khăn trong quá
trình thanh tra và kết luận, kiến nghị xử lý về thanh tra.
Khái niệm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên nghành chưa rõ
ràng dẫn đến một số lĩnh vực hiểu thanh tra hành chính và thanh tra chuyên
nghành giống nhau, chưa phân định rõ thẩm quyền hành chính( quản lý, điều
hành hoạt động của cơ quan thanh tra) với thẩm quyền thực thi pháp luật (tiến
hành thanh tra và ra kết luận thanh tra).
Về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức cá nhân là đối tượng thanh tra và
cơ quan, tổ chức cá nhân khác có liên quan trong hoạt động thanh tra đã được
2


Luật thanh tra và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành quy định
tương đối đầy đủ, cụ thể. Tuy nhiên, các biện pháp chế tài xử lý các trường
hợp không chấp hành quyết định thanh tra, có thái độ không hợp tác, không
cung cấp đầy đủ, cố tình kéo thời gian cung cấp…chưa được quy định, hướng
dẫn cụ thể, nên có khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành.
Tuy nhiên pháp luật về thanh tra còn nhiều hạn chế, bất cập. Quy định
về vị trí, vai trò địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra
còn chưa thật sự rõ ràng, còn có sự chồng chéo, trùng lắp trong việc xác định
đối tượng thanh tra giữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên nghành.
Quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước chưa tương xứng với nhiệm vụ
được giao, việc đảm bảo thực hiện quyền cũng còn nhiều hạn chế. Qua hoạt
động thanh tra, các cơ quan thanh tra phát hiện sai phạm , vi phạm pháp luật
nhưng hầu như không có quyền quyết định xử lý mà chủ yếu kiến nghị, đề
xuất nên gặp khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ, làm giảm hiệu lực, hiệu quả

công tác quản lý nhà nước. Phạm vi, nội dung, trình tự, thủ tục, tiến hành các
cuộc thanh tra còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Riêng quy định về thanh tra huyện chưa phát huy được vai trò của thanh tra
huyện trong tình hình hiện nay.
Tình hình trên đặt ra đòi hỏi phải nghiên cứu một cách tổng thể cả về lý
luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra
huyện nói riêng. Cần phải hoàn thiện quy định của pháp luật về thanh tra.
Hiện Thanh tra chính phủ cũng đang nghiên cứu , sửa đổi luật thanh tra năm
2010. từ đó, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này.
Xuất phát từ những lý do trên, em đã chọn đề tài: “Pháp luật về tổ
chức và hoạt động thanh tra - Từ thực tiễn thanh tra huyện Đình Lập tỉnh
Lạng Sơn” làm đề tài luận văn tốt nghiệp trương trình sau đại học chuyên

3


nghành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính tại Học viện Hành chính Quốc
gia.
1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học,
nhiều bài viết chuyên khảo trên các Báo thanh tra, tạp chí thanh tra và các
Báo, Tạp chí chuyên ngành khác đề cập đến pháp luật về tổ chức và hoạt động
của thanh tra nhà nước ở những khía cạnh và mức độ khác nhau, trong đó có
đưa ra những đánh giá nhận xét về thực trạng tổ chức và hoạt động của thanh
tra nhà nước trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước.
Thứ nhất, về các đề tài nghiên cứu khoa học:
“Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra nhằm nâng cao hiệu lực quản lí
nhà nước”, đề tài khoa học cấp nhà nước độc lập do tiến sĩ Trần Đức Lượng
làm chủ nhiệm. Đề tài đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản, chung nhất về các

thiết chế, khái niệm, đặc điểm, vai trò, mối quan hệ giữa các thiết chế thanh
tra, kiểm tra, giám sát ở Việt Nam. Từ đó đề xuất các giải pháp trước mắt
cũng như lâu dài nhằm hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát ở Việt
Nam phù hợp với yêu cầu đổi mới cơ chế quản lí kinh tế xã hội và tiến trình
hội nhập quốc tế của Việt Nam [31].
“Đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra trong cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – Luận cứ khoa học phục vụ sửa
đổi luật Thanh tra và hoàn thiện pháp luật về Thanh tra”, đề tài nghiên cứu
khoa học cấp bộ, năm 2007 do đồng chí Trần Văn Truyền – Tổng Thanh tra
Chính phủ, làm chủ nhiệm. Đề tài đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở
thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ
sở phân tích thực trạng và những hạn chế trong tổ chức và hoạt động của
4


nghành thanh tra, đề tài đã đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm đổi
mới tổ chức và hoạt động của Ngành trong cơ chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa mang tính toàn diện, khả thi, trong đó các kiến nghị
về sửa đổi và bổ sung Luật thanh tra [32].
“Cơ sở xác định trách nhiệm của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp
trong công tác Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham
nhũng” đề tài nghiên cứu cấp Bộ, năm 2010 do đồng chí Nguyễn Tuấn Khanh
– trưởng phòng nghiên cứu và đào tạo, viện khoa học thanh tra làm chủ
nhiệm. Đề tài nêu lên một số cơ sở lí luận của vấn đề trách nhiệm pháp lí của
chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng; đánh giá thực trạng thực hiện nhiệm
vụ quyền hạn của chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp, thực trạng thanh tra trách
nhiệm, đưa ra định hướng giải quyết, hệ thống giải pháp và một số kiến nghị
cụ thể [14].

Thứ hai, về các đề tài luận án, luận văn đã bảo vệ:
Luận án tiến sỹ “Tổ chức và hoạt động của các tổ chức Thanh tra ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay – thực trạng và giải pháp” của nghiên cứu
sinh Trịnh Xuân Thiện; Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện pháp luật thanh tra trong
giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Thương Huyền …Các luận án đã đề cập
những vấn đề bất cập trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức thanh tra,
phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật thanh tra.
Luận văn thạc sỹ “Nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra chuyên
ngành” của Nguyễn Thị Kim Ngọc; “Vai trò của Thanh tra Nhà nước trong quản
lý việc thực hiện dự án ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thanh Hải; “Đối mới tổ
chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành giáo dục” của Bùi Ngọc Âu; …
Các đề tài này chỉ tập trung phân tích thực trạng về hoạt động thanh tra chuyên
ngành hoặc vai trò của thanh tra nhà nước trong lĩnh vực cụ thể.

5


Hầu hết các công trình chỉ nghiên cứu về tổ chức và hoạt động nói
chung của các tổ chức Thanh tra, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
cơ bản và hệ thống chuyên sâu pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra các
huyện nói chung và thanh tra huyện Đình Lập nói riêng. Vì vậy, đề tài của
luận văn không trùng với các công trình đã công bố trước đây.
Trên cơ sở kết quả các nghiên cứu trước đây và các quy định của pháp
luật hiện hành quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra, tác giả cho rằng
việc chọn nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần làm phong phú và sâu sắc thêm
những luận cứ khoa học, cũng như cơ sở thực tiễn cho việc đổi mới tổ chức,
hoạt động thanh tra huyện mà nhu cầu thực tiễn đang đặt ra.
2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục

đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp
luật hiện hành về tổ chức và hoạt động thanh tra, trong đó tập trung nghiên
cứu, phân tích đánh giá hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về
tổ chức và hoạt động thanh tra nói chung và thực trạng thanh tra huyện Đình
Lập, tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
Từ đó đưa ra những phương hướng, giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy
định của pháp luật về thanh tra và các văn bản có liên quan để phù hợp với
tình hình thực tế, nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra huyện. Đồng thời
kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng đội ngũ
cán bộ công chức thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.
-

Nhiệm vụ nghiên cứu

Phân tích, đi từ cơ sở lý luận về thanh tra, thanhh tra huyện.
Luận văn có nhiệm vụ làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò thanh tra nói
chung và vị trí, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra huyện.
Đánh giá quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra
huyện. Thực trạng thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra từ
6


thực tiễn huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn từ đó chỉ ra những kết quả đạt được
và những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân trong việc thực hiện pháp luật về
thanh tra .
Trên cơ cơ đó kiến nghị các phướng hướng, giải pháp hoàn thiện pháp
luật về thanh tra và các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của thanh tra
huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.
4.

-

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ
chức và hoạt động thanh tra nói chung và Thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh
Lạng Sơn nói riêng.
-

Phạm vi nghiên cứu về mặt không gian được giới hạn trên địa bàn huyện Đình
Lập, tỉnh Lạng Sơn.

-

Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian là 3 năm , được giới hạn từ năm 2017
đến năm 2019.

-

Về nội dung, nghiên cứu về tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước nói
chung là vấn đề rất rộng và phức tạp, có tầm bao quát lớn. Trong khuôn khổ
của luận văn này tập trung nghiên cứu một số vấn đề chính là thực hiện pháp
luật về thanh tra huyện trên địa bàn huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.
Nghiên cứu pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra nói
chung và thanh tra huyện nói riêng.
Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn từ năm 2017 đến
năm 2019.
Trên cơ sở nhận xét những ưu điểm và hạn chế, bất cập của những quy

định hiện hành từ đó đề xuất một số giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả
tổ chức và hoạt động thanh tra huyện.
7


5.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận

-

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật nói chung và
công tác thanh tra nói riêng. Quan điểm của Đảng, pháp luật của nhà nước về
công tác thanh tra, đồng thời có tham khảo, kế thừa có chọn lọc một số thành
tựu của khoa học quản lý, khoa học chính trị, pháp luật.
Phương pháp nghiên cứu

-

Để đạt được mục đích nghiên cứu của luận văn tác giả sử dụng một số
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê, phương pháp hệ thống hóa … và một số phương pháp khác để
làm sáng tỏ bản chất của vấn đề.
6.
-

Ý nghĩa nghiên cứu của luận văn


Ý nghĩa lý luận

Luận văn nghiên cứu có hệ thống về tổ chức và hoạt động thanh tra
huyện từ thực tiễn thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. Luận văn đề xuất
những phương hướng, giải pháp phù hợp góp phần làm hoàn thiện hệ thống
pháp luật về thanh tra, pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, pháp luật về
phòng chống tham nhũng. Đặc biệt là tổ chức và hoạt động thanh tra huyện.
-

Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn góp phần làm rõ tính đặc thù về tổ chức và hoạt động thanh
huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động và chất lượng đội ngũ cán bộ cán
bộ công chức cơ quan thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.
Các giải pháp mà luận văn nêu ra có thể vận dụng để nâng cao chất
lượng, hiệu quả về tổ chức và hoạt động thanh tra huyện.
8


Luận văn có thể là tài liệu có giá trị tham khảo, nghiên cứu và vận
dụng trong tổ chức và hoạt động thanh tra huyện.
7.

Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo
luận văn được chia gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của thanh tra.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động ở

thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và
hoạt động thanh tra – Từ thực tiễn thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.

9


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
THANH TRA
1.1.

Khái quát về Thanh tra

1.1.1. Khái niệm thanh tra
Theo từ điển tiếng việt của viện ngôn ngữ học năm 2016 thì thanh tra
có nghĩa là “kiểm soát, xem xét lại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí
nghiệp” [41, tr.1556]. Với nghĩa này thì thanh tra bao hàm cả nghĩa kiểm soát.


nước ta thuật ngữ “Thanh tra” lần đầu xuất hiện tại Sắc lệnh 64/Sl ngày
23/11/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký thành lập Ban thanh tra đặc biệt. Sắc
lệnh nêu rõ: “Chính phủ sẽ lập ngay một ban thanh tra đặc biệt, có
ủy nghiệm là đi giám sát tất cả có công việc và các nhân viên của ủy ban
nhanh dân và các cơ quan chính phủ” [6, tr.1]. Từ sắc lệnh này, quyền thanh
tra được xác lập và được giao cho chính phủ thực hiện. Sau đó khái niệm
“thanh tra” được đề cập trong các bản Hiến pháp của nước ta và các văn bản
pháp luật khác, khẳng định thanh tra là một hoạt động đặc biệt không thể thiếu
trong quản lí nhà nước. Trong bài nói chuyện là Hội nghị cán bộ thanh tra
toàn miền Bắc năm 1961, chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định thanh tra là hoạt

động “theo dõi, xem xét việc chấp hành đúng đắn đường lối, chính sách, nghị
quyết. chỉ thị của Đảng và Chính phủ” [9, tr.275].
Văn bản pháp lí đầu tiên xác lập một cách đầy đủ và toàn diện về tổ
chức và hoạt động thanh tra là pháp lệnh thanh tra năm 1990. Pháp lệnh đã cụ
thể hóa các quy định của Hiến pháp và khẳng định thanh tra là một chức năng
thiết yếu của cơ quan quản lí nhà nước. Điều 1 pháp lệnh thanh tra quy định:
“thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lí nhà nước: là
phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật quản lý nhà nước, thực
hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa” [10, tr.1].
10


Khái niệm thanh tra lần đầu tiên được định nghĩa trong luật thanh tra
năm 2004 dưới khái niệm thanh tra nhà nước. Theo đó “Thanh tra nhà nước
là việc xem xét đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc
thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan tổ chức cá nhân chịu
sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong luật này và
các quy định khác của pháp luật. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh thanh
tra hành chính và thanh tra chuyên nghành” [22, tr1]
Luật thanh tra năm 2010 ra đời thay thế luật thanh tra năm 2004 cũng
đưa ra định nghĩa về thanh tra tại khoản 1 điều 3 luật thanh tra 2010: “ Thanh
tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực
hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên
ngành” [23, tr.8].
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước

có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật,
quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó.
1.1.2. Đặc điểm của thanh tra
Thứ nhất, hoạt động thanh tra luôn gắn liền với quản lý nhà nước
Với tư cách là một chức năng, là một giai đoạn của chu trình quản lý
nhà nước, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước. Thanh tra là một phạm trù
lịch sử, thanh tra gắn liền với vai trò của Nhà nước trong kiểm soát nhà nước,
kiểm soát xã hội. Chính bản chất của quá trình lao động xã hội đã đòi hỏi tất
11


yếu phải có sự quản lý của Nhà nước để điều hoà những hoạt động đơn lẻ và
thực hiện những chức năng chung.
Như vậy, việc xem xét, định hướng đánh giá kết quả quản lý là một
phương diện của quản lý xã hội. Quản lý nhà nước là một bộ phận quản lý xã
hội và ở đâu có quản lý nhà nước ở đó có thanh tra.
Trong mối quan hệ giữa quản lý và thanh tra thì quản lý nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra (quy định thẩm quyền của
các cơ quan thanh tra, quy định về tổ chức, quyết định và kết luận thanh tra,
sử dụng các kết quả, các thông tin từ phía các cơ quan thanh tra). Mặt khác,
hoạt động chấp hành của quản lý nhà nước thường bao hàm cả sự điều hành,
cho nên trong quá trình thực hiện các văn bản pháp luật đòi hỏi phải có sự
kiểm tra nghiêm ngặt của các cơ quan có thẩm quyền.
Quản lý nhà nước và thanh tra có điểm chung là nhân danh quyền lực
nhà nước thực hiện sự tác động lên các đối tượng bị quản lý. Song xem xét
theo cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh tra chỉ là chức năng, là công cụ,
phương tiện để quản lý nhà nước. Về mối quan hệ giữa thanh tra và công tác
quản lý nhà nước sẽ được phân tích kỹ hơn trong mục III của chuyên đề này.
Thứ hai, thanh tra là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước

Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra có mối liên hệ chặt
chẽ với tính quyền uy - phục tùng của quản lý nhà nước. Là một chức năng
của quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm
thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Nói về
quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra cũng có nghĩa là xác định về mặt
pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức thanh tra. Vì vậy, thanh tra phải được
Nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý.
Có thể nói, thanh tra là một hoạt động luôn luôn mang tính quyền lực
nhà nước. Chủ thể tiến hành thanh tra luôn luôn là cơ quan nhà nước. Thanh
12


tra (ở đây được dùng với tính chất là một danh từ chỉ cơ quan có chức năng
này) luôn luôn áp dụng quyền năng của Nhà nước trong quá trình tiến hành
hoạt động của mình và nó nhân danh Nhà nước khi áp dụng quyền năng đó.
Thanh tra chỉ xuất hiện từ khi Nhà nước ra đời trong lịch sử và nó cũng sẽ tiêu
vong cùng với sự tiêu vong của Nhà nước.
Tóm lại, chủ thể duy nhất tiến hành thanh tra là Nhà nước, thanh tra
xuất hiện, tồn tại và tiêu vong cùng với Nhà nước. Ở các nước trên thế giới,
dù mô hình tổ chức hoạt động thanh tra có khác nhau nhưng đều có chung đặc
điểm này. Ở nước ta, Điều 1 Pháp lệnh Thanh tra 1990 quy định: “thanh tra là
một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước; là phương thức bảo
đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền
dân chủ xã hội chủ nghĩa” [10].
Luật Thanh tra năm 2010 quy định: cơ quan thanh tra nhà nước trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện và giúp cơ quan nhà nước
có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật
[23].

Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra thể hiện ở chỗ, các cơ
quan thanh tra nhà nước có quyền hạn được xác định và khả năng thực hiện
những quyền hạn đó:
-

Quyết định tổ chức các cuộc thanh tra theo chương trình, kế hoạch

được phê duyệt.
- Trình thủ trưởng cơ quan quản lý hành chính phê duyệt hoặc quyết
định thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
-

Yêu cầu đối tượng thanh tra, các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin,
tài liệu có liên quan.
13


-

Niêm phong tài liệu, kiểm kê tài sản, trưng cầu giám định.

-

Tạm đình chỉ hành vi vi phạm, tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép, thu hồi

tài sản.
-

Xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật (đối với thanh tra chuyên
ngành).


-

Yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra, yêu cầu truy cứu
trách nhiệm đối với những người có lỗi gây ra những vi phạm được phát hiện,
kể cả việc chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật có dấu hiệu của tội phạm
sang cơ quan điều tra để xử lý.

-

Trong một số trường hợp trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà
nước.
Tính quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra được cụ thể hoá
trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra, phương thức
tiến hành thanh tra, xử lý kết quả thanh tra, quan hệ giữa cơ quan thanh tra với
đối tượng bị thanh tra... Nếu chỉ chú trọng đến một mặt nào đó mà không thực
hiện đồng bộ tính quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực trên đều dẫn đến hạ
thấp vai trò và hiệu quả của hoạt động thanh tra, hạn chế hiệu lực thanh tra.
Thứ ba, hoạt động thanh tra có tính khách quan.
Bản chất thanh tra là xem xét, đánh giá một cách khách quan việc thực
hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân
nhằm đưa ra kết luận đúng sai, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, phát hiện
những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách pháp luật để kiến nghị với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát
hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan , tổ chức, cá nhân thực
hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan tổ chức, cá nhân [23, tr.7-8].
14



Tính khách quan của hoạt động thanh tra được biểu hiện ở chỗ mọi hoạt
động thanh tra đều dựa trên cơ sở pháp luật và phải tuân theo pháp luật.
Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào
hoạt động thanh tra. Mọi nhận xét đánh giá trong quá trình thanh tra và đưa ra
kết luận thanh tra phải dựa trên chứng cứ có thật, khách quan. Tính khách
quan đảm bảo hoạt động thanh tra được minh bạch, khách quan, đúng pháp
luật.
Thứ tư, thanh tra có tính độc lập tương đối
Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Đặc điểm
này phân biệt thanh tra với các loại hình cơ quan chức năng khác của bộ máy
quản lý nhà nước. Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân các cơ
quan, tổ chức tự thực hiện, hoạt động thanh tra thường được tiến hành bởi một
cơ quan chuyên trách. Ngoài những nhiệm vụ như những cơ quan quản lý nhà
nước khác, các cơ quan thanh tra có nhiệm vụ chủ yếu là xem xét, đánh giá
một cách khách quan việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các
cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Tính độc lập tương đối của thanh tra với cơ quan quản lý nhà nước
cùng cấp thể hiện ở một số nội dung sau:
Các cơ quan thanh tra nhà nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ
truởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng
dẫn về công tác tổ chức, nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Chính phủ; chịu sự
hướng dẫn về công tác, nghiệp vụ của cơ quan thanh tra cấp trên.
-

Chánh Thanh tra do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước bổ nhiệm sau khi
thống nhất với Chánh Thanh tra cấp trên.

-


Trong trường hợp những kiến nghị về thanh tra do Chánh Thanh tra báo cáo,
thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp không nhất trí, Chánh

15


thanh tra có quyền bảo lưu báo cáo với người đứng đầu cơ quan thanh tra nhà
nước cấp trên xem xét, quyết định.
-

Tổng Thanh tra Chính phủ, Chánh Thanh tra các cấp, các ngành có quyền ra
quyết định thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

-

Thủ trưởng các cơ quan thanh tra nhà nước được quyền ra quyết định xử lý
theo quy định của pháp luật đối với những hành vi vi phạm.
Các cơ quan thanh tra nhà nước là bộ phận quan trọng, không thể thiếu
trong cơ cấu bộ máy nhà nước, là công cụ đắc lực để giữ gìn, bảo vệ và tăng
cường trật tự, kỷ cương quản lý, là chức năng thiết yếu của các cơ quan quản
lý nhà nước, nhưng có tính độc lập tương đối với cơ quan quản lý.
1.1.3. Vai trò của thanh tra
Thanh tra mang tính quyền lực nhà nước, nên thanh tra có vai trò rất
quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà
nước thông qua việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng. Thanh tra có vai
trò như sau:
Thứ nhất, hoạt động thanh tra là một trong những chức năng thiết yếu
của hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Thực tiễn chỉ ra rằng: hiệu lực quản lý của Nhà nước phần lớn tuỳ

thuộc vào nội dung, chất lượng và biện pháp tổ chức thực hiện các quyết định
quản lý nhà nước. Hiệu lực quản lý nhà nước bị ảnh hưởng nếu quyết định
quản lý nhà nước không đảm bảo tính giai cấp, tính Đảng, tính pháp luật;
không dựa trên những luận cứ khoa học (phù hợp với quy luật và điều kiện
thực tế, khách quan), không phù hợp nguyện vọng của quần chúng và không
đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Hiệu lực quản lý nhà nước cũng bị ảnh
hưởng ngay cả khi nội dung, chất lượng quyết định quản lý đã bảo đảm các
16


yêu cầu cơ bản, nhưng lại thiếu biện pháp bảo đảm cho quyết định đó được
thực hiện. Để các quyết định quản lý nhà nước được các cơ quan, tổ chức và
cá nhân tuân thủ và chấp hành quyết định, phải đề ra qui trình thực hiện quyết
định. Trong quy trình đó không thể thiếu được hoạt động thanh tra, kiểm tra
Thông qua hoạt động thanh tra là để đánh giá, nhận xét tình hình và kết
quả thực hiện quyết định quản lý; để kiểm nghiệm lại chính nội dung và chất
lượng quản lý; khi cần thiết phải bổ sung, sửa đổi, thậm chí phải huỷ bỏ một
phần hay toàn bộ quyết định quản lý. Trong trường hợp nội dung và chất
lượng quyết định quản lý được thực tế kiểm nghiệm là đúng, là phù hợp,
nhưng đối tượng thi hành vẫn không tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh thì
khi đó hoạt động thanh tra phải phục vụ cho việc làm rõ nguyên nhân (cả chủ
quan lẫn khách quan), xác định rõ trách nhiệm thuộc khâu nào, thuộc ai để
chấn chỉnh hoặc xử lý (khi có vi phạm), với ý nghĩa đó thanh tra thực chất đã
góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Trong hoạt động thực tiễn, thanh tra không chỉ là một trong những
phương thức đảm bảo các quyết định quản lý được tuân thủ một cách nghiêm
túc, mà còn góp phần xem xét cả tính hiệu quả của quản lý nhà nước. Hiệu
quả suy đến cùng, là chỉ tiêu so sánh giữa hai yếu tố: kết quả và chi phí. Hiệu
quả trong quản lý là đạt kết quả và mục tiêu đề ra với chi phí ở mức tối thiểu.
Công tác thanh tra không chỉ hướng đến xem xét, đánh giá thực hiện

một quyết định quản lý cụ thể, mà phải hướng đến xem xét kết luận, đánh giá
kết quả thực hiện các mục tiêu, chương trình, nhiệm vụ của chính cơ quan
quản lý nhà nước. Chỉ đánh giá kết quả mà không so sánh với chi phí đã bỏ ra
thì chưa tiếp cận đến khái niệm hiệu quả. Chưa đánh giá được hiệu quả thì
thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu của quản lý.
Chính vì vậy, công tác thanh tra còn hướng đến xem xét và tổ chức việc
hoạt động cụ thể của cơ quan quản lý nhà nước thông qua các yếu tố: cơ cấu
17


tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, năng lực, uy tín, phong
cách của cán bộ; thời gian đầu tư giải quyết các tình huống quản lý; tinh thần
trách nhiệm, tính dân chủ và uy tín chính trị đối với xã hội.v.v... Tất cả những
nội dung đó là nhằm cho công tác thanh tra hướng tới mục tiêu nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Thứ hai, hoạt động thanh tra là phương thức bảo đảm pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong quản lý nhà nước.
Một trong những nguyên tắc cơ bản phải được tuân thủ của hệ thống
chính trị và bộ máy nhà nước ta là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nội
dung của nguyên tắc pháp chế là sự bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ một
cách tuyệt đối, không có một thực thể nào đứng trên pháp luật hay đứng ngoài
pháp luật. Nguyên tắc pháp chế hiện hữu ở việc chấp hành pháp luật cả từ
phía các cơ quan nhà nước và từ phía các cá nhân, tổ chức là đối tượng chịu
sự quản lý của nhà nước. Về phía các cơ quan nhà nước, nguyên tắc pháp chế
thể hiện ở việc các cán bộ, công chức Nhà nước thực thi đúng chức trách,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà pháp luật đã quy định. Ở bình diện rộng
hơn, nó còn là việc mỗi cơ quan nhà nước thực thi đúng phạm vi, thẩm quyền,
trách nhiệm đã được quy định trong các văn bản pháp luật. Ngay trong hoạt
động ban hành các quyết định, các văn bản của cơ quan cấp dưới phải phù
hợp với các quy định trong các văn bản của cơ quan cấp trên, văn bản có hiệu

lực cao hơn và mọi văn bản pháp luật phải phù hợp với Hiến pháp - đạo luật
gốc, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Về phía các đối tượng quản lý, mọi công dân, cá nhân, tổ chức trong
mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội đều phải thực hiện theo các quy định
của pháp luật. Hệ thống pháp luật quy định cho mỗi công dân, mỗi doanh
nghiệp, mỗi tổ chức có những quyền nhất định như quyền tự do kinh doanh,
tự do đi lại, quyền được học tập, quyền có nhà ở... Đồng thời pháp luật cũng
18


quy định cho họ những nghĩa vụ nhất định. Ngoài ra, pháp luật còn có những
qui phạm điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội, pháp chế đòi hỏi tất cả
những quy định đó đều phải được tuân thủ một cách tuyệt đối.
Với tư cách là chức năng quản lý, thanh tra chính là hoạt động xem xét
tại chỗ việc làm của các cơ quan, tổ chức cá nhân có đúng chính sách, pháp
luật hay không. Nếu họ làm sai hoặc làm chậm thì giúp họ sửa chữa và làm
cho đúng. Mục đích của thanh tra là nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý
những vi phạm pháp luật, bảo đảm để các cơ quan, tổ chức và cá nhân tuân
thủ và chấp hành một cách chính xác, đầy đủ và nghiêm chỉnh pháp luật nhà
nước. Muốn có pháp chế cần phải làm cho mọi người hiểu biết pháp luật. Mặc
dù công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật không phải là chức năng chính
của thanh tra, nhưng thông qua hoạt động của mình, công tác thanh tra đã góp
phần tích cực vào việc giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu đúng và chấp
hành nghiêm chỉnh pháp luật và đó cũng là một hoạt động bảo đảm tăng
cường pháp chế.
Tuy nhiên, trong thực tế không ít trường hợp vi phạm pháp luật, nhưng
không phải do không hiểu đúng các quy phạm pháp luật, mà do thiếu trách
nhiệm dẫn đến vi phạm, hoặc cố tình vi phạm. Trong những trường hợp đó
đòi hỏi thanh tra phải có hình thức xử lý nghiêm khắc. Xử lý mạnh mẽ,
nghiêm khắc là để cho đối tượng quản lý phải sửa chữa những vi phạm pháp

luật và việc xử lý đó còn có tác dụng lâu dài đến đối tượng quản lý đó cũng
như mang tính chất răn đe đối với các đối tượng quản lý khác. Do vậy, thanh
tra là một phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, hoạt động thanh tra huyện góp phần đảm bảo việc thực hiện
các quyền, tự do công dân.

19


Với vị trí, vai trò và chức năng nhiệm vụ do pháp luật quy định, thanh
tra là một công cụ quan trọng và hữu hiệu để đảm bảo và thực hiện quyền dân
chủ của nhân dân. Điều đó thể hiện trên các phương diện cơ bản sau:
-

Thông qua hoạt động thanh tra nhân dân gián tiếp thực hiện quyền giám sát
công việc của bộ máy nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà
nước, tham gia công việc quản lý Nhà nước.

-

Qua hoạt động thanh tra mới có thể phát hiện kịp thời những sơ hở, yếu kém
trong cơ chế chính sách, hệ thống pháp luật, những vấn đề liên quan
đến quyền dân chủ của nhân dân. Đây là một trong những cơ sở chính trị,
pháp lý cho việc bảo vệ, bảo đảm và thực hiện các quyền con người, quyền
công dân.

-

Trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật về
quyền dân chủ của nhân dân, nhờ có phạm vi hoạt động rộng khắp trong tất cả

các lĩnh vực quản lý nhà nước, thanh tra góp phần đấu tranh phòng chống các
hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm bảo vệ các quyền tự do, lợi ích hợp pháp
của con người, của công dân.

-

Thông qua khiếu nại, tố cáo của công dân và việc thẩm tra, xác minh giải
quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan thanh tra thì những hành vi tham
nhũng, tiêu cực, hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quyền dân chủ của nhân
dân bị phát hiện và xử lý. Nhờ đó, các quyền dân chủ, lợi ích hợp pháp của
nhân dân được bảo vệ, lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước được
củng cố, Nhà nước có thêm thông tin về hoạt động của bộ máy, đội ngũ cán
bộ công chức của mình, từ đó có biện pháp chấn chỉnh về cơ chế chính sách
và tổ chức, bộ máy, hướng tới mục tiêu ngày càng phục vụ nhân dân tốt hơn.
Thứ tư, hoạt động thanh tra huyện là một biện pháp hạn chế sự lạm
dụng quyền lực, phòng ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp
luật ở cấp huyện.
20


×