Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

Hình tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của thạch lam và rabindranath tagore

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.16 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––––––––

VI THỊ THỎA

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA THẠCH LAM VÀ
RABINDRANATH TAGORE

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––––––––

VI THỊ THỎA

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA THẠCH LAM VÀ
RABINDRANATH TAGORE
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM


Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG THỊ THẬP

THÁI NGUYÊN - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Vi Thị Thỏa
Xác nhận của khoa chuyên môn

Xác nhận của người hướng dẫn khoa học

TS. Hoàng Thị Thập

i


LỜI CẢM ƠN
Bằng tình cảm trân trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin cảm ơn cô giáo, TS.
Hoàng Thị Thập đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, quý thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa
Sau đại học - trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ, đóng góp
nhiều ý kiến quý báu và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và
nghiên cứu tại trường.

Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã động viên, khích
lệ, giúp đỡ tôi hoàn thành tốt khóa học này.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Vi Thị Thỏa

ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan.............................................................................................................................................. i
Lời cảm ơn.................................................................................................................................................. ii
Mục lục....................................................................................................................................................... iii
Danh mục các bảng................................................................................................................................ iv
MỞ ĐẦU..................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề...................................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................... 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................... 10
5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................... 11
6. Dự kiến đóng góp của luận văn.......................................................................... 11
7. Cấu trúc luận văn............................................................................................... 11
Chương 1: THẠCH LAM VÀ R.TAGORE: THỜI ĐẠI - NHỮNG ĐIỂM
TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT......................................................................... 12
1.1. Thời đại........................................................................................................... 12
1.1.1. Xã hội....................................................................................................... 12
1.1.2. Văn hóa.................................................................................................... 15
1.2. Cuộc đời, sự nghiệp của Thạch Lam và R.Tagore........................................... 20
1.2.1. Cuộc đời, con người................................................................................. 20

1.2.2. Sự nghiệp sáng tác.................................................................................... 25
Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 34
Chương 2: HÌNH TƯỢNG

NHÂN VẬT PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG

TRUYỆN NGẮN CỦA THẠCH LAM VÀ R.TAGORE NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG................................................................................. 35
2.1. Nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore....35
2.1.1. Khái niệm nhân vật và hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học.......35
2.1.2. Nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore
........................................................................................................................... 37
2.2. Hình tượng nhân vật phụ nữ............................................................................ 44

iii


2.2.1. Phụ nữ - hiện thân của vẻ đẹp tự nhiên..................................................... 44
2.2.2. Phụ nữ và khát vọng hạnh phúc................................................................ 48
2.2.3. Phụ nữ - hiện thân của bi thương.............................................................. 51
2.3. Hình tượng nhân vật trẻ em............................................................................. 55
2.3.1. Trẻ em - hiện thân của sự trong sáng........................................................ 55
2.3.2. Trẻ em - hiện thân của sự bất hạnh.......................................................... 57
Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 60
Chương 3: HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG
TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM VÀ R.TAGORE NHÌN TỪ PHƯƠNG
DIỆN HÌNH THỨC THỂ HIỆN............................................................................ 61
3.1. Ngoại hình của nhân vật.................................................................................. 61
3.1.1. Những chân dung ngoại hiện hoàn chỉnh.................................................. 61
3.1.2. Những chân dung ngoại hiện không hoàn chỉnh....................................... 64

3.2. Tâm lý của nhân vật........................................................................................ 66
3.2.1. Chân dung tâm lý hoàn chỉnh................................................................... 66
3.2.1. Những mảnh vỡ tâm lý............................................................................. 69
3.3. Giọng điệu kể chuyện...................................................................................... 74
3.3.1. Giọng điệu thương cảm............................................................................ 74
3.3.2. Giọng điệu trân trọng................................................................................ 79
3.3.3. Giọng điệu triêt lý..................................................................................... 82
Tiểu kết chương 3...................................................................................................... 85
KẾT LUẬN.............................................................................................................. 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 89

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Khảo sát nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam....37
Bảng 2.2: Khảo sát nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của R.Tagore........40

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1.1. Thạch Lam (1910 - 1942) là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện
đại giai đoạn 1930 - 1945. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tỏa sáng
nhất nhóm Tự lực văn đoàn. Tuy nhiên, khác các nhà văn Tự lực văn đoàn, Thạch
Lam tìm cho mình một hướng đi riêng: kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực và lãng
mạn. Hướng đi ấy thể hiện bản lĩnh, cá tính của một cây bút giàu tính nhân văn, một
tâm hồn nhạy cảm, một văn phong trong sáng, tinh tế.

Đóng góp của Thạch Lam khá khiêm tốn về số lượng, nhưng ông đã để lại di sản
văn học quý báu ở nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, ký. Làm nên tên tuổi của nhà
văn là truyện ngắn. Những tác phẩm của ông không chỉ khẳng định sự nghiệp của một
nhà văn mà còn có ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển của văn học Việt Nam.

Ngòi bút Thạch Lam luôn hướng về phía những người nghèo khổ với tấm lòng
trắc ẩn chân thành. Khung cảnh thường thấy trong các truyện ngắn của ông là những
vùng quê bùn lầy nước đọng, những phố chợ tồi tàn, những khu ngoại ô nghèo khổ,
buồn vắng... Trong khung cảnh ấy, nhân vật hiện ra với vẻ thảm đạm, lầm than đặc
biệt là phụ nữ và trẻ em. Họ không chỉ là hình ảnh nổi bật mà đã trở thành những
hình tượng trong tác phẩm. Qua đó, người đọc cảm nhận được thế giới hiện thực,
thấu hiểu được nhân sinh quan của nhà văn. Nhờ thế, dù truyện ngắn của Thạch Lam
ra đời đã hơn 50 năm vẫn luôn hấp dẫn người đọc và giới nghiên cứu.
Rabindranath Tagore (1861 - 1941) là hiện tượng kiệt xuất của văn học Ấn Độ
thế kỷ XX. Sau khi nhận giải Nobel văn học năm 1913, tên tuổi của R.Tagore được cả
thế giới biết đến. Ông thuộc số không nhiều những vĩ nhân mà tự bản thân họ đã trở
thành biểu tượng cho năng lực sáng tạo của con người trên trái đất. Suốt cuộc đời
cầm bút miệt mài, ông đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ gồm nhiều
thể loại: thơ, kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn... lĩnh vực nào ông cũng thành công xuất
sắc. Riêng truyện ngắn, với hơn 100 tác phẩm, ông được xem là bậc thầy của thể loại
truyện ngắn thế kỷ XX.
Gần giống Thạch Lam, truyện ngắn của R.Tagore viết về nhiều đề tài nhưng
ám ảnh nhiều nhất với độc giả là những truyện viết về phụ nữ, trẻ em. Sinh ra trong
một gia đình quý tộc, nhưng ông đã nhìn cuộc sống của họ không phải bằng sự hiếu
kỳ mà bằng sự quan tâm và mối thiện cảm đặc biệt của một “nhà nhân đạo chủ
nghĩa”. Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về R.Tagore nhưng chủ yếu

1



nghiên cứu về thơ và tiểu thuyết. Các công trình nghiên cứu truyện ngắn chưa nhiều
nên đây vẫn còn là mảnh đất giàu tiềm năng để tiếp tục khai thác.
Đến với truyện ngắn của R.Tagore, người đọc bắt gặp ở đó những thân phận
phụ nữ bất hạnh, những đứa trẻ không có được niềm vui dù là nhỏ nhất. Những nhân
vật ấy không chỉ phản ánh hiện thực của một thời mà còn gợi bao ý nghĩa về thân
phận con người nói chung. Nghiên cứu hình tượng phụ nữ và trẻ em trong truyện
ngắn R.Tagore sẽ cho chúng ta một cái nhìn toàn diện hơn về thiên tài vĩ đại này.
1.2. Văn học so sánh là tên gọi một hệ phương pháp luận, không chỉ cho phép
người nghiên cứu so sánh các hiện tượng văn học ở các quốc gia khác nhau theo quan
hệ giao lưu mà còn có thể so sánh văn học theo quan hệ tương đồng. Ấn Độ và Việt
Nam là hai quốc gia Châu Á. Dù có rất nhiều khác biệt nhưng cũng có những điểm
gần giống nhau. Văn học hiện đại của hai nền văn học đều có cơ sở xã hội là những
nước thuộc địa của các đế quốc phương Tây. Tuy không hoàn toàn trùng khít thời
gian sinh trưởng, sáng tác nhưng Thạch Lam và R.Tagore đều sáng tác vào những
thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Với tư cách sáng tạo cá nhân, hai nhà văn này thành công
ở thể loại truyện ngắn. Những điều kiện trên là cơ sở cho phép chúng tôi nghiên cứu,

so sánh truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore ở phương diện hình tượng nhân vật
trong quan hệ tương đồng. Thực tế, có thể có những nghiên cứu độc lập về tác phẩm
của Thạch Lam và R.Tagore, nhưng đặt hai nhà văn này trong thể đối sánh để thêm
một cách đọc hiệu quả hơn vẫn là chuyện hết sức mới mẻ, cần thiết.
1.3. Tác phẩm của Thạch Lam và R.Tagore đã được đưa vào chương trình Ngữ
văn Trung học cơ sở, Ngữ văn Trung học phổ thông và chuyên ngành văn ở các
trường Đại học ở Việt Nam từ lâu. Trong xu thế đổi mới giáo dục và xu hướng toàn
cầu hóa, việc mở rộng, giao lưu, hội nhập rất quan trọng. Việc dạy - học tác phẩm
trong nhà trường ở Việt Nam không chỉ bó hẹp trong phạm vi các tác phẩm đơn lẻ mà
cần phải mở rộng, tích hợp để tăng hiệu quả thẩm mĩ, giáo dục. Chọn “Hình tượng
nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore” làm
đối tượng nghiên cứu, chúng tôi muốn góp phần vào việc dạy - học tác phẩm của hai
nhà văn này ở Việt Nam một cách hiệu quả hơn.

2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu hình tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện
ngắn Thạch Lam
2.1.1. Nghiên cứu hình tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn Thạch Lam

Sự xuất hiện của Thạch Lam trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX gắn
liền với chặng đường mới trong văn xuôi nghệ thuật nói chung và truyện ngắn nói

2


riêng. Hơn nửa thế kỷ trôi qua kể từ ngày văn phẩm đầu tay của Thạch Lam ra đời,
nhiều công trình đã nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp, tác phẩm của ông. Các công
trình đó khẳng định đóng góp của ông vào công cuộc hiện đại hóa văn học nước nhà.
Trong đó, có một số công trình viết về hình tượng phụ nữ và trẻ em. Chúng tôi sẽ
điểm qua một số tài liệu liên quan trực tiếp đến đề tài.
Nguyễn Hoành Khung trong Thạch Lam - một khuynh hướng truyện ngắn
(Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945, 1989) nhận xét: “Thạch Lam đặc biệt
quan tâm, cảm thông và xót thương đối với cuộc đời vất vả mỏi mòn và những hy
sinh thầm lặng của người phụ nữ nghèo” [dẫn theo 22, tr.297]. “Họ dường như sinh ra
để yêu thương, nhường nhịn và chỉ sống bằng nhường nhịn, hy sinh, và cuộc đời chỉ
là những chắp vá lo âu, sầu tủi, ngày nọ nối tiếp ngày kia (Cô hàng xén). Họ còn là
nạn nhân thê thảm của những tập tục phong kiến tàn ác, bị hành hạ đến mức phải tìm
đến cái chết, nhưng vẫn cứ phải sống để chịu đựng, chỉ được chết ngay trong lúc
sống” (Hai lần chết, Một đời người) [dẫn theo 22, tr.297].
Nguyễn Công Thắng đã nhận định ở bài viết Thạch Lam trong Gió lạnh đầu
mùa (1992): “Qua lăng kính nhân bản của Thạch Lam, những mẹ Lê, cô Tâm, Lan,
Nga... hiện ra trong dáng vẻ buồn rầu, lặng lẽ nhưng dịu dàng, tha thiết đến kỳ lạ”
[dẫn theo 22, tr.374].
Bùi Việt Thắng trong Người chắt chiu cái đẹp (1994) khẳng định: “Nhân vật nữ trong

truyện ngắn Thạch Lam thường mang vẻ đẹp của sự kín đáo, tế nhị. Có vẻ họ hơi cũ một tý
nhưng thật ra đó là nữ tính đậm đà của người phụ nữ Việt Nam” [dẫn theo 22, tr.353].

Trong Thế giới nhân vật của Thạch Lam (1997), Hà Văn Đức nhận xét: “Trong
tác phẩm của mình, Thạch Lam thường viết về người dân nghèo với một niềm cảm
thương chân thành, man mác. Niềm cảm thương đó trở nên đặc biệt sâu sắc khi ông
nói đến thân phận của những người mẹ, người vợ Việt Nam đảm đang, tần tảo, giàu
đức hy sinh”. Và “Trong tác phẩm của Thạch Lam ta bắt gặp khá nhiều những khuôn
mặt trẻ thơ. Những đứa trẻ ấy mang một kiếp sống nghèo khổ từ tấm bé, cuộc sống
của chúng thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần” [dẫn theo 22, tr.335].
Giáo sư Phong Lê trong Thạch Lam - Tinh tế và đằm thắm tình người (Vẫn
chuyện văn và người, 1999) nhận xét: “Ngòi bút Thạch Lam tinh tế và đằm thắm biết
bao trên những trang văn về người phụ nữ và con trẻ... Từ ngày tập truyện ngắn đầu
tay Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam ra đời cho đến nay, nhiều truyện ngắn của ông
vẫn làm ta xúc động, xót xa, thương cảm cho số phận con người. Dù ở xã hội nào,
người chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ hơn cả chính là phụ nữ và trẻ em. Có lẽ bởi vậy

3


mà họ luôn là đối tượng được các thế hệ nhà văn quan tâm nhất. Thạch Lam cũng
vậy, hình ảnh phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của ông luôn khắc sâu vào ký ức
người đọc về sự tồn tại của kiếp người” [dẫn theo 22, tr.289].
Góp tiếng nói vào vấn đề này, Lê Tâm Chính trong Thế giới trẻ thơ qua đôi
mắt Thạch Lam (2000), nhận xét: “Các nhân vật trẻ thơ của Thạch Lam có những
khuôn mặt riêng: đẹp nhưng buồn” [dẫn theo 22, tr.419]; “Những trang viết về trẻ thơ
của Thạch Lam bao giờ cũng man mác một thứ tình âu yếm. Nó nhẹ nhàng mà ám
ảnh. Cái tình âu yếm ấy không chỉ là cái nhìn nhân hậu, yêu thương của người lớn
giành cho lứa tuổi này mà còn là sự hóa thân của nhà văn vào lũ trẻ, là sự ám ảnh của
tuổi thơ Thạch Lam gắn với cái phố huyện Cẩm Giàng” [dẫn theo 22, tr.427]. Lê Tâm

Chính đã chú trọng đến cái nhìn của nhà văn đối với trẻ em trong các sáng tác trữ tình
đượm buồn của tác giả. Theo Lê Tâm Chính, đây cũng chính là nhân tố tạo nên phong
cách, tính nhân văn đằm sâu cho trang viết Thạch Lam.
Luận văn của Nguyễn Thị Mộng Thơ: “Hình tượng nhân vật trẻ em trong các
sáng tác của Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng trước cách mạng tháng Tám
1945” (2011) nghiên cứu về mối quan hệ của trẻ em với hoàn cảnh sống và mối quan
hệ với chính mình. Trong đó, Nguyễn Thị Mộng Thơ cho rằng: những đứa trẻ dù sống
trong cảnh lầm than, đói khổ nhưng khao khát, ước mơ của những tâm hồn trẻ thơ ấy
vẫn không bao giờ lụi tắt, cứ âm ỉ chờ dịp phát sáng.
Phạm Thị Quyên trong luận văn: “Người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam”
(2013), đã đi vào khám phá đời sống, thân phận người phụ nữ trong quan hệ với đời sống
xã hội, trong mối quan hệ với gia đình, với tình cảm và khao khát riêng tư. Tác giả nhận
định: “Bằng ngòi bút của mình, Thạch Lam đã cho người đọc hình dung về cuộc đời
chung của những người phụ nữ trong xã hội những năm 1930 - 1945. Ở đó, người phụ nữ
luôn là người chịu nhiều cơ cực, bất hạnh. Chính nét vẽ này khiến văn Thạch Lam mang
chất hiện thực và thấm đẫm tinh thần nhân đạo” [35, tr.63].

2.1.2. Nghiên cứu so sánh Thạch Lam với nhà văn nước ngoài
Việc so sánh truyện ngắn Thạch Lam với các tác giả khác đã được đề cập đến
nhưng so sánh truyện ngắn của Thạch Lam với tác giả nước ngoài còn rất ít công
trình thực hiện. Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy, phần lớn việc so sánh tác giả
Thạch Lam với các tác giả nước ngoài chỉ tập trung ở một số bài viết, cụ thể như sau:
Nguyễn Công Thắng trong bài: Thạch Lam trong Gió lạnh đầu mùa (1992)
nhận định: “Thạch Lam làm ta nhớ đến Tchékhov, Paustovsky, Saroya, chậm rãi buồn
buồn, như thoáng qua mà níu kéo da diết” [dẫn theo 22, tr.372].

4


Bùi Việt Thắng trong Người chắt chiu cái đẹp (1994) nhận xét: “Đọc Thạch

Lam, tôi cứ nghĩ đến câu nói của Rômanth Rôlăng đại ý: có những nhà văn mà tác
phẩm của họ làm thành người”[dẫn theo 22, tr.352]. Và “Đọc Thạch Lam chúng ta
thấy văn của ông tựa hẳn vào cảm giác mà thành. Nhân vật của ông nhận biết thế giới
xung quanh và giao hòa tâm hồn người khác chủ yếu nhờ cảm giác, thông qua cảm
giác. Nhân đọc lại Thạch Lam, chúng tôi nhớ ngay đến Pauxtốpxki (Nga),
Hêminhuây (Mỹ), Môroa (Pháp)... những bậc thầy truyện ngắn mà sức mạnh của ngòi
bút chính nhờ vào trực giác” [dẫn theo 22, tr.357].
Tác giả Thụy Khuê trong bài viết Thạch Lam (2004) đã tìm ra điểm tương đồng
giữa Thạch Lam và Tchekhov: như Tchekhov, Thạch Lam cũng chỉ viết được đoản thiên
(truyện dài duy nhất Ngày mới chỉ là một truyện ngắn kéo dài) và Thạch Lam không viết
luận đề cũng không bịa ra những tình huống éo le cho hợp với “chủ đề”.

Luận văn: Truyện ngắn Thạch Lam - truyện ngắn Pauxtôpxki - sự gặp gỡ về
phong cách nghệ thuật (2010) của tác giả Trần Thị Thắm đã làm rõ những đặc điểm
về quan niệm nghệ thuật, nội dung tự sự trong truyện ngắn của Thạch Lam so sánh
với Pauxtôpxki để thấy sự “giao thoa” trong đặc sắc truyện ngắn giữa họ.
Tác giả Vi Li trong bài viết: Gặp Thạch Lam ở Cẩm Giàng thì nhận định:
“Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương. Mỗi chữ Thạch Lam là sương
ngọc, từ tâm hồn mẫn cảm, nước mắt cho ta thanh lọc tinh thần. Truyện không có
chuyện mà chữ có hồng cầu, Thạch Lam như Ivan Bunin (1870 - 1953) của Nga, văn
khiết tình, thê mỹ” [19, tr.2].
Tác giả Thanh Huyền trong bài viết: Cảm nhận về những em bé trong Gió lạnh
đầu mùa, Trong lòng mẹ, Bố của Xi mông (2014) đã so sánh những nhân vật trẻ em trong
các sáng tác của Thạch Lam với Nguyên Hồng và Mô-pa-xăng để thấy những em bé ấy
đều đáng yêu, đáng quý, đáng thương. Thanh Huyền nhận định: Qua hình ảnh các em,
các nhà văn đã cất lên tiếng nói phê phán xã hội vô nhân đạo đã chà đạp lên cả những
tâm hồn trẻ thơ trong sáng, cướp đi cả cuộc sống và ước mơ bình dị của các em.

Nguyễn Thanh Phong ở bài viết: Cảm nhận về hình tượng người bà trong “Bà
tôi” của M.Goocki và “Về thăm bà” của Thạch Lam (2016) đã so sánh hình tượng

người bà trong hai tác phẩm để chỉ ra điểm giống và khác nhau của người phụ nữ ở
hai nền văn hóa. Tác giả cảm nhận: “Bà ngoại của Mácxim Gooki là người Nga hẳn
khác bà của Thạch Lam về hình thể nhưng lại giống nhau ở tấm lòng nhân hậu, giống
nhau về tình cảm trìu mến, yêu thương giành cho con cháu” [59]. Cuối cùng tác giả
đã nhận định: cả hai hình tượng người bà đều có sức lay động lớn bởi nó chạm được

5


tới nhịp đập nóng hổi của nhân sinh, đánh thức sự rung động trước niềm yêu của bao
người bởi cái tình họ giành cho nhau.
2.2. Tình hình nghiên cứu hình tượng phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn R.Tagore

2.2.1. Nghiên cứu hình tượng phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn R.Tagore ở
nước ngoài
Trên thế giới và ở quê hương R.Tagore, có rất nhiều công trình nghiên cứu về
truyện ngắn của ông nhưng vì trình độ ngoại ngữ có hạn, chúng tôi chưa thể bao quát.
Xét về mặt số lượng, chúng tôi thấy các công trình nghiên cứu về ông vô cùng lớn,
điều đó chứng tỏ giới nghiên cứu rất quan tâm tới tác phẩm của R.Tagore. Sự nghiệp
của ông nói chung, thể loại truyện ngắn nói riêng được cả thế giới trân trọng và
ngưỡng mộ.
Các công trình nghiên cứu chuyên sâu truyện ngắn của ông có thể kể đến:
Truyện ngắn Rabindranath Tagore (Rabindranath Tagore’s Short Stories, 1961) của
Nirmalkumar Sidhanta; Nghiên cứu so sánh truyện ngắn của Chekhov và Tagore
(Chekhov and Tagore: A Comperative Study of their Short Stories, 1985) của Sankar
Basu; Tác phẩm viết bằng tiếng Anh của Ấn Độ (Indian writing in English, 2001) của
Srinivasa Iyengar; Nghiên cứu phê bình truyện ngắn Tagore (Tagore’s Short Stories:
A Critical Study, 2004) của Hariom Prasad; Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn
Tagore (Pathos in the Short Stories of Rabindranath Tagore, 2009) của K.V
Dominic… Nhìn chung, các công trình này đều tập trung nghiên cứu chuyên sâu về

mặt nội dung và nghệ thuật truyện ngắn R.Tagore. Nghệ thuật truyện ngắn của ông
được đánh giá rất cao, Sukuma Sen cho rằng: “Tagore là nhà văn đầu tiên viết truyện
ngắn thực sự bằng tiếng Bengali và cho đến nay vẫn là nhà văn viết truyện ngắn hay
nhất”. Các nhà nghiên cứu đều khẳng định R.Tagore là nhà văn đã khai sinh ra thể
loại truyện ngắn trong nền văn học Ấn Độ vào những năm 90 của thế kỷ XIX. Cũng
chính ông là người đã đưa thể loại này đến đỉnh cao bằng những sáng tác của mình.
B. Chaudhuri nhận định: “Truyện ngắn bằng tiếng Bengali đã có được những
mùa hoa thật rực rỡ đầu tiên trong tác phẩm của Tagore. Văn học hiện đại của Bengal
đã bước vào một kỷ nguyên mới với sự khởi đầu của thời kỳ Rabindranath viết truyện
ngắn” [dẫn theo 9, tr.92]. Lời nhận định này được viết vào những năm 60 của thế kỷ
XX, từ đó đến nay kỹ thuật viết truyện ngắn tại quê hương R.Tagore đã có những
bước tiến rất xa nhưng nền móng ban đầu mà R.Tagore xây dựng cùng vị trí tiên
phong của ông vẫn còn giữ nguyên giá trị.

6


Giáo sư phê bình người Bengal Promonthonath Bishi năm 1961 cũng góp
tiếng nói khẳng định tài năng của R.Tagore: Không có một nhà văn Bengal nào có thể
tạo ra nhiều nét đặc sắc như R.Tagoge đã làm đối với tác phẩm của mình... không chỉ
là từ việc điểm những con số, mà trong sự khác biệt ở những nét đặc sắc này là cả
một sự sáng tạo tuyệt vời.
Năm 1967, ở bài viết Truyện ngắn của R.Tagore in trong tập Rabindranath
Tagore, do nhà xuất bản Twayne (New York) phát hành, tác giả Mary. M. Lago cho
rằng: truyện ngắn của R.Tagore được xem là những truyện ngắn hiện đại đầu tiên
trong nền văn học Bengal. Ông nêu một vài chủ đề chính trong truyện ngắn của
R.Tagore: Sự tương phản giữa nông thôn và thành thị; giá trị của giáo dục; chủ nghĩa
dân tộc và chính trị; phụ nữ và cộng đồng.
Năm 1989, Bhattacharya trong bài viết của mình đã đề cập đến những yếu tố
siêu nhiên trong 10 truyện ngắn của R.Tagore. Theo ông, điều đó đã tạo nên phong vị

đặc biệt của các câu chuyện. Bhattacharya cho rằng: đằng sau những yếu tố siêu
nhiên đó, R.Tagore muốn đưa độc giả đến một tầm sâu hơn về ý nghĩa xã hội, về mặt
văn hóa. Ông muốn trình bày sự phản kháng của mình đối với những thực tế đang tồn
tại dựa trên sự tàn bạo, nhẫn tâm, vô nhân tính và phi lý của xã hội Ấn Độ và khiến
độc giả nhìn sâu hơn vào thực tế đó.
Lansing Evans Smith năm 1997 đã có bài viết bàn về những yếu tố hoang
đường trong truyện Đá đói của R.Tagore trong sự so sánh với truyện ngắn của
Hoffmann và Charlotte Perkins Gilman.
Qua những tài liệu đã sưu tầm được, chúng tôi thấy: các công trình nghiên cứu đã
phân tích sâu sắc về truyện ngắn R.Tagore nhưng còn rất ít công trình nghiên cứu hình
tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của ông. Đây là vấn đề cần được
nghiên cứu nhiều hơn để có thêm cơ sở khẳng định tầm vóc truyện ngắn của R.Tagore.

2.2.2. Nghiên cứu hình tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của
R.Tagore ở Việt Nam
Từ những năm đầu thế kỷ XX, báo chí Việt Nam đã bắt đầu giới thiệu với bạn
đọc về R.Tagore. Trên tờ báo Tiếng chuống rè (La Cloche Fêlée), số 18 ra ngày
16/6/1924 đăng bài Lòng ái quốc ở R.Tagore. Có lẽ đây là một trong những bài đầu
tiên trân trọng giới thiệu về R.Tagore và phân tích triết luận của ông cho bạn đọc ở
Việt Nam. Từ đó, các sáng tác của ông bắt đầu được dịch và quảng bá rộng rãi với
công chúng Việt Nam.

7


Giữa năm 1929, R.Tagore ghé thăm Sài Gòn ba ngày. Báo chí Việt Nam đã
liên tiếp đăng tin, lời phát biểu của R.Tagore và đăng một số bản dịch luận thuyết, thơ
của ông. Trong đó, các nhà báo đã hết lời ca ngợi tài năng trác việt của R.Tagore.
Năm 1961, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của R.Tagore, việc dịch các tác
phẩm của ông sang tiếng Việt đã được nhiều người quan tâm. Trong năm này đã xuất

hiện liền một lúc hai cuốn sách giới thiệu thân thế, sự nghiệp kèm theo phần tuyển
dịch các tác phẩm của R.Tagore các nhà thơ, dịch giả tham gia dịch, trong đó có
nhiều nhà thơ hàng đầu Việt Nam như Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi,
Hoàng Trung Thông, Chế Lan Viên... Và hai nhà văn - dịch giả hàng đầu Việt Nam
Cao Huy Đỉnh và La Côn. Ngoài ra, việc dịch các tác phẩm của ông được đưa vào kế
hoạch lâu dài của Nhà xuất bản Văn học.
Ngày nay, nhiều tác phẩm của R.Tagore đã được dịch sang tiếng Việt và được
đưa vào chương trình dạy học ở bậc đại học và các bậc học phổ thông, được in thành
các tuyển tập. Cuộc đời và sáng tác của ông được nhiều chuyên gia văn học nghiên
cứu. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ điểm qua những tài liệu liên quan trực
tiếp đến đề tài:
Trong cuốn Tagore - Văn và Người (2005), Đỗ Thu Hà nhận định: “Trong số
các nhân vật của Tagore, gần như những nhân vật đáng ghi nhớ nhất đều là phụ nữ.
Qua các tác phẩm, R.Tagore đã phản kháng mạnh mẽ một thực tế đáng buồn là những
phẩm chất và tài năng quý báu của người phụ nữ Bengal đã bị bỏ phí và bóp nghẹt
qua nhiều thế hệ. Thật đáng ngạc nhiên là nếu như chúng ta có thể tìm được một đặc
điểm chung của các nhân vật nữ trong các tác phẩm của R.Tagore thì chính là đặc
điểm rằng họ có tính cách mạnh mẽ hơn nam giới” [9, tr.112 - 113].
Lê Thanh Huyền trong luận văn: Thế giới nhân vật trong Mây và Mặt trời R.Tagore (2007) nghiên cứu tính cách, số phận nhân vật trẻ em và khám phá vẻ đẹp
của người phụ nữ ở cả hình thức và nội tâm. Tác giả kết luận: “R.Tagore dành nhiều
tình cảm cho nhân vật trẻ em, phụ nữ, những người dân nghèo khổ, những trí thức
Tây học. Ông lên án xã hội với những quan niệm lạc hậu, với sự phân biệt đẳng cấp,
sự bất công cùng sự áp bức, bóc lột của thực dân đã khiến họ phải chịu bao đau khổ”
[13, tr.132].
Nguyễn Thị Thanh Thủy ở bài viết Hình ảnh người phụ nữ mới Ấn Độ trong
văn xuôi Tagore (2011), đã nhận xét: “Hình ảnh phụ nữ trong văn xuôi Tagore luôn ý
thức được giá trị của bản thân, tràn đầy một năng lượng sống và khát khao được yêu
đích thực, thậm chí sẵn sàng tranh đấu để có được tình yêu ấy” [43, tr.95].

8



Năm 2013, Lý Văn Nghĩa trong luận văn: Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn
của Rabinđranath Tagore đã nghiên cứu về nhân vật trẻ em và phụ nữ trong truyện
ngắn của R.Tagore. Theo tác giả, những biểu hiện của giá trị nhân đạo trong truyện
ngắn của R.Tagore là tình yêu thương đối với trẻ em và lòng ưu ái đối với phụ nữ.
Tác giả khẳng định: “Trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ, R.Tagore đã san sẻ, đã hiểu nỗi
đau thương thầm lặng tràn trề của nhân dân, nhất là những người phụ nữ, những đứa
trẻ bơ vơ, những con người cùng cực, khốn khổ, để rồi cùng khóc, cùng đau, cùng
bước chung một con đường của nhân vật” [23, tr.110].
Nghiên cứu lịch sử vấn đề Hình tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong
truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore chúng tôi nhận thấy:
1. Về Thạch Lam: Các nhà nghiên cứu đã quan tâm tới nhân vật phụ nữ, trẻ em

trong truyện ngắn của ông và xuất hiện nhiều bài viết, công trình có giá trị. Nhưng đặt
hình tượng nhân vật ấy trong thể so sánh với truyện ngắn của các nhà văn nước ngoài
còn rất ít công trình thực hiện một cách hệ thống, chủ yếu chỉ ở dạng bài viết thể hiện
cảm nhận chung
2. Về R.Tagore: Ở nước ngoài, các công trình nghiên cứu truyện ngắn của

R.Tagore nghiêng về giới thiệu chung, đánh giá tài năng viết truyện ngắn của ông,
trong đó chủ yếu tập trung vào giá trị nội dung, nghệ thuật. Tại Việt Nam, các nhà
nghiên cứu đã quan tâm tới hình tượng nhân vật phụ nữ, trẻ em trong truyện ngắn của
ông, nhưng đặt hình tượng nhân vật ấy so sánh với truyện ngắn của Thạch Lam thì
chúng tôi chưa thấy có công trình chuyên biệt nào thực hiện.
Chúng tôi đặc biệt lưu tâm đến các ý kiến của Hà Văn Đức, Lê Tâm Chính, Đỗ
Thu Hà, Nguyễn Thị Thanh Thủy, Lê Thanh Huyền... Tất cả những gì thu lượm được
từ quá trình nghiên cứu tổng quan vấn đề, ở mức độ ít nhiều đều là những gợi ý để
chúng tôi có cơ sở vững chắc cho hướng triển khai đề tài. Những phát hiện khoa học
của các nhà nghiên cứu sẽ được chúng tôi kế thừa, đồng thời có trao đổi, mở rộng.

Trên cơ sở tìm hiểu thời đại của Thạch Lam và R.Tagore về con người, chủ đề phụ
nữ, trẻ em trong sáng tác của hai nhà văn, chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu, so sánh
hình tượng nhân vật phụ nữ, trẻ em một cách có hệ thống, góp phần khẳng định tầm
vóc và đóng góp về thể loại truyện ngắn của hai nhà văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi hướng tới:
1. Khám phá giá trị thẩm mĩ của các tác phẩm trong sự so sánh nhân vật phụ

nữ, trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore.

9


2. Khẳng định thêm đóng góp của Thạch Lam, R.Tagore ở thể loại truyện ngắn

trong hai nền văn học Việt Nam và Ấn Độ, rộng hơn nữa, trong văn học khu vực
Châu Á và thế giới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt mục đích trên, nhiệm vụ của chúng tôi là:
- Khảo cứu cơ sở lịch sử xã hội, văn hóa Việt Nam, Ấn Độ cuối thế kỷ XIX,

đầu thế kỉ XX trong mối quan hệ với cuộc đời, sáng tác của Thạch Lam và R.Tagore.
- Khảo cứu, so sánh hình tượng nhân vật phụ nữ, trẻ em trong truyện ngắn của
Thạch Lam và R.Tagore từ phương diện nội dung.
- Khảo cứu, so sánh hình tượng nhân vật phụ nữ, trẻ em trong truyện ngắn của
Thạch Lam và R.Tagore từ phương diện hình thức.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


4.1. Đối tượng nghiên cứu
Như tên đề tài đã thể hiện: Hình tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong
truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là
hình tượng nhân vật phụ nữ, trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore
trong sự so sánh tương đồng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề thuộc hình tượng nhân vật phụ

nữ, trẻ em trong truyện ngắn của Thạch Lam và R.Tagore trong sự so sánh ở một số
phương diện nội dung và nghệ thuật.
- Thực hiện đề tài Hình tượng phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của

Thạch Lam và R.Tagore chúng tôi tập trung khảo cứu trên các văn bản:
* Với Thạch Lam, chúng tôi khảo sát các truyện ngắn ở 2 tập:
- Gió lạnh đầu mùa (Tập truyện, NXB Văn học, 2010).
- Thạch Lam tuyển tập (Tập truyện, NXB Văn học, 2012). Gồm 33 truyện ngắn.
* Với R.Tagore, chúng tôi khảo sát trên bản dịch tập R.Tagore - Tuyển tập tác

phẩm, tập II, nhiều người dịch, do Lưu Đức Trung tuyển chọn, giới thiệu, được NXB
Lao động và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội ấn hành năm 2004.
Gồm 37 truyện ngắn.
Trong quá trình khảo cứu truyện ngắn R.Tagore, chúng tôi sẽ so sánh với nguyên
bản tiếng Anh Stories from Tagore (The Macmilan Company, New York, 2010).

10


5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp:

- Phương pháp so sánh văn học: đặt hình tượng phụ nữ, trẻ em trong truyện ngắn

của Thạch Lam và R.Tagore trong cái nhìn tương quan để tìm ra những nét tương đồng,
khác biệt. Vì không có căn cứ về mối quan hệ trực tiếp giữa hai tác giả, chúng tôi chủ
yếu dùng phương pháp so sánh loại hình, lý giải sự tương đồng, khác biệt từ các hiểu biết
về tiểu sử nhà văn, đặc điểm xã hội, môi trường văn hóa mà hai nhà văn sống.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Phương pháp này giúp người nghiên cứu

giải quyết các yêu cầu của đề tài theo hướng đã được xác định bởi đối tượng nghiên
cứu: hình tượng nhân vật. Việc khám phá hình tượng nhân vật nhằm đánh giá khách
quan giá trị của một tác phẩm, tránh được những khái quát tư biện.
- Phương pháp nghiên cứu xã hội học: Phương pháp này giúp người nghiên cứu

xem xét vấn đề trong sự thống nhất các khía cạnh ở “ngoài” và “trong” văn bản tác phẩm
một cách khoa học, lịch sử cụ thể. Nghiên cứu văn bản tác phẩm, hình thức cũng như nội
dung, trong mối quan hệ tương tác với các vấn đề lịch sử xã hội giúp chúng tôi đánh giá
toàn diện hơn giá trị thẩm mĩ truyện ngắn của của Thạch Lam và R.Tagore .
- Phương pháp tiểu sử: phương pháp này quan tâm đến cuộc sống và những

mối quan hệ riêng tư của nhà văn. Nguyên tắc của phương pháp này là dùng các yếu
tố tiểu sử của nhà văn để lý giải tác phẩm văn học của nhà văn.
Chúng tôi đồng thời sử dụng các thao tác cơ bản trong nghiên cứu: Thống kê
- phân loại, phân tích - tổng hợp, so sánh...
6. Dự kiến đóng góp của luận văn

Đây là luận văn đầu tiên ở Việt Nam tiếp cận hình tượng nhân vật trong truyện
ngắn của Thạch Lam và R.Tagore bằng phương pháp luận văn học so sánh. Thành công,
nó sẽ là tư liệu tham khảo thiết thực cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập các tác
phẩm truyện ngắn của hai tác giả ở các trường đại học và phổ thông ở Việt Nam.


7. Cấu trúc luận văn
Luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu và Kết luận, gồm 3 chương:
Chương 1: Thạch Lam và R.Tagore:
Thời đại - những điểm tương đồng và khác biệt.
Chương 2: Hình tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của
Thạch Lam và R.Tagore nhìn từ phương diện nội dung.
Chương 3: Hình tượng nhân vật phụ nữ và trẻ em trong truyện ngắn của
Thạch Lam và R.Tagore nhìn từ phương diện hình thức thể hiện.

11


Chương 1
THẠCH LAM VÀ R.TAGORE:
THỜI ĐẠI - NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
1.1. Thời đại
1.1.1. Xã hội
Nửa cuối thế kỷ XIX nửa đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn
tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh đặt
ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Vì thế, các nước đế quốc đua nhau xâm lược Châu
Á, châu Phi, Mỹ La Tinh. Việt Nam và Ấn Độ là hai nước nằm trong khu vực châu Á,
có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, trở thành mục tiêu xâm lược của đế
quốc, thực dân. Năm 1858, thực dân Pháp tiến công quân sự chiếm Việt Nam. Từ
năm 1849, Ấn Độ trở thành thuộc địa của Anh. Dưới chế độ cai trị của thực dân, xã
hội Việt Nam và Ấn Độ có nhiều điểm tương đồng và khác biệt.
1.1.1.1. Những điểm khác biệt
Trước khi thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia phong kiến độc
lập có chủ quyền, dưới sự cai trị của triều đình nhà Nguyễn. Các vua nhà Nguyễn cố
gắng xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia hùng mạnh nhưng chính sách có
nhiều thiếu sót và chưa hợp lý. Đối diện với cuộc xâm lược của Pháp, tình hình trong

nước gặp nhiều khó khăn: nông nghiệp ngày càng sa sút, công thương nghiệp đình
đốn, quân sự lạc hậu, chính sách đối ngoại có những sai lầm… Trước một kẻ xâm
lược đến từ phương Tây với sự vượt trội về tất cả các mặt, triều đình nhà Nguyễn lâm
vào tình trạng tù túng vì tiềm lực dân tộc đã bị suy giảm. Việt Nam thời điểm này rơi
vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Năm 1858, Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam,
sau đó chúng vừa tiến hành công cuộc bình định, vừa bắt đầu bộ máy cai trị tại những
vùng chiến lược.
Tại Ấn Độ, trước khi bị người Anh xâm chiếm, tiểu lục địa Ấn Độ nằm dưới
sự thống trị của triều Moghul. Sự thống trị của họ luôn bị những quốc gia địa phương
của người Hinđu đe dọa và luôn xảy ra những cuộc lật đổ vì bạo loạn, âm mưu cung
đình. Là quốc gia đa dân tộc, tôn giáo nên mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo luôn là vấn đề
nóng của Ấn Độ. Những cuộc chiến tranh liên miên giữa các tập đoàn phong kiến
càng khơi sâu sự chia rẽ dân tộc, làm suy yếu đất nước, cộng với những tập tục lạc
hậu, lễ nghi phức tạp làm cản trở sự thống nhất Ấn Độ. Dưới thời kì suy tàn của triều
đại Moghul, phong trào đấu tranh của nhân dân chống chế độ phong kiến và sự xâm

12


lược từ bên ngoài đánh dấu giai đoạn mạt kì của chế độ phong kiến Ấn Độ. Sau cuộc
nổi dậy của binh lính Xipay, chính quyền Anh xóa bỏ hoàn toàn triều đại phong kiến
Moghul, giải thể công ty Đông Ấn, đặt thuộc địa dưới quyền cai trị trực tiếp của
chính phủ.
Như vậy, cả Việt Nam và Ấn Độ đều nằm dưới sự cai trị của đế quốc thực dân.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên trong cách xây dựng chế độ thuộc địa có nhiều
điểm khác nhau.
Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính của Việt Nam rườm rà hơn Ấn Độ:
Tại Việt Nam, thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương gồm: Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ, Campuchia, Lào. Đứng đầu Liên bang có toàn quyền. Cơ quan
quyền lực tối cao là giám đốc các công sở, các viên quan cai trị đứng đầu 5 xứ, chủ sự

các phòng thương mại và canh nông. Văn phòng phủ toàn quyền gồm rất nhiều phòng
như: chính trị, hành chính, quân sự, nhân sự, văn thư… Ngoài ra, còn có các cơ quan
như: Hội đồng phòng thủ Đông Dương, Ủy ban tư vấn về mỏ...
Tại Ấn Độ, Anh hoàng giao phó quyền thế cho phó vương Ấn Độ, thay thế cho
vị toàn quyền Ấn Độ cũ và trực thuộc Bộ Ấn Độ, phó vương được phụ tá bởi một hội
đồng hành pháp gồm 6 ủy viên lập nên một Bộ nhỏ với một chuyên viên tài chính,
một nhân viên công chính, một chuyên viên tư pháp và những chuyên viên khác.
Về chính trị: Ở Việt Nam, Pháp tiến hành chia Việt Nam thành 3 xứ với bộ
máy cai trị khác nhau: Bắc Kỳ và Trung Kỳ là hai xứ bảo hộ, Nam Kỳ là đất thuộc địa
hoàn toàn của Pháp. Ở Trung Kỳ, Pháp vẫn duy trì triều đình nhà Nguyễn nhưng vua
An Nam không có thực quyền mà do Khâm sứ Trung Kỳ nắm quyền, mỗi bộ đều có
một viên chức Pháp với Hội đồng bảo hộ giúp việc. Trong quá trình cai trị, thực dân
Pháp luôn kiểm soát chặt chẽ và đặt những cơ cấu xã hội cũ dưới quyền cai trị của
mình, đồng thời tìm mọi cách cắt xén quyền hành, hạ thấp vai trò của triều đình Huế.
Hành động của thực dân Pháp làm nhân dân Việt Nam cảm thấy bị áp bức, bóc lột
nhiều hơn các thuộc địa khác dẫn đến hàng loạt cuộc đấu tranh chống Pháp nổ ra.
Tại Ấn Độ, sau cải cách năm 1858, Anh đưa đến cho cả ba quận Bengale,
Madras và Bombay những hội đồng lập pháp: quyền lập pháp trong tay quan toàn
quyền ở Calcutta, quyết định cho tất cả Ấn Độ thuộc Anh. Nhiều cải cách quan trọng
khác được thực hiện trong tổ chức quân sự và tư pháp. Các đội quân của công ty
Đông Ấn cũ nay đặt dưới quyền Anh hoàng nhưng chỉ dân bản xứ mới được làm lính
trong các quân đội ấy. Bên cạnh phần lãnh thổ là thuộc địa Anh vẫn còn phần lãnh thổ
thuộc các hoàng gia Ấn. Các tiểu quốc này nằm giữa bán đảo, mỗi tiểu quốc trên

13


nguyên tắc đều độc lập và ràng buộc với Anh bởi một hiệp ước riêng, trong đó xác
định trách nhiệm của nó đối với Anh quốc. Trước nguy cơ chống đối của nhân dân
thuộc địa Ấn, Anh đã tìm cách ràng buộc khéo léo lãnh thổ của các tiểu vương quốc

mà không làm mất đi quyền lợi của chính quốc. Tuy nhiên, tất cả các lãnh thổ tự trị
đều phải thừa nhận sự đứng đầu về mặt “tinh thần” của nữ hoàng Anh. Đây thực chất
là sự thành lập một thứ quyền lực tự trị có kiểm soát được đảm bảo bằng quyền tối
cao của thực dân Anh tại Ấn Độ.
Chính sách “chia để trị” là giống nhau nhưng cách cai trị thuộc địa của thực dân
Pháp tại Việt Nam mang tính trực tiếp, cứng nhắc hơn so với thực dân Anh tại Ấn Độ.

1.1.1.2. Những điểm tương đồng
Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp, Anh tác động mạnh mẽ đến xã hội
Việt Nam và Ấn Độ. Hai nước có nhiều chuyển biến ở kết cấu giai tầng, bên cạnh các
giai cấp cũ xuất hiện thêm một số giai cấp mới.
Lực lượng xã hội cũ còn tồn tại ở Việt Nam là giai cấp địa chủ phong kiến đã
tồn tại hàng nghìn năm trong lịch sử, ở Ấn Độ là giai cấp quý tộc phong kiến. Hai
giai cấp này trước đây là giai cấp thống trị, nay trở thành tay sai đắc lực cho Pháp,
Anh để bóc lột nhân dân và công cuộc cai trị của chính quyền thực dân. Bên cạnh đó,
tại Việt Nam và Ấn Độ còn có giai cấp nông dân, giai cấp này bị địa chủ, quý tộc,
thực dân bóc lột nặng nề, cướp đoạt ruộng đất nên họ vừa có mâu thuẫn dân tộc, vừa
có mâu thuẫn giai cấp với đế quốc thực dân và phong kiến tay sai phản động, trong
đó mâu thuẫn dân tộc là lớn nhất. Giai cấp nông dân vì bị cướp đoạt ruộng đất nên họ
phải ra thành phố kiếm sống. Một bộ phận tham gia vào đội ngũ công nhân nhà máy
hoặc đứng ra làm ăn buôn bán nhỏ, từng bước góp phần hình thành hai lực lượng xã
hội mới là công nhân và trí thức tiểu tư sản trong bức tranh chung của các giai cấp
mới hiện đại.
Quá trình khai thác thuộc địa của thực dân làm xuất hiện thêm một số giai cấp,
tầng lớp mới:
Giai cấp công nhân Việt Nam và Ấn Độ ra đời cùng quá trình bần cùng hóa
giai cấp nông dân dưới chế độ bóc lột của thực dân, phong kiến. Phần lớn họ xuất
thân từ tầng lớp nông dân, bị dồn đến bước đường cùng cơ cực ở quê hương, họ bỏ
lên thành phố mong tìm được việc làm trong các nhà máy, xí nghiệp. Khi thực dân bắt
tay vào công cuộc “công nghiệp hóa” thuộc địa, nhu cầu tuyển mộ nhân công ngày

càng nhiều thu hút hơn nữa số nông dân bị mất đất bỏ quê ra đi, từ đó sản sinh ra đội
ngũ những người vô sản trên chính những miền đất gieo mầm xuất hiện giai

14


cấp tư sản Việt Nam và Ấn Độ. Giai cấp công nhân sau đó trở thành giai cấp tiên
phong trong phong trào giải phóng dân tộc.
Giai cấp tư sản Việt Nam bao gồm: tư sản mại bản, tư sản dân tộc. Tư sản mại
bản có quyền lợi gắn với thực dân Pháp, trở thành đối tượng của cách mạng, còn tư
sản dân tộc bị Pháp chèn ép nên họ có tinh thần chống thực dân Pháp, chống phong
kiến nhưng tư tưởng giao động. Giai cấp tư sản Ấn Độ phần lớn xuất thân từ các
Zamindar (địa chủ), các Rajah (vương công), những người buôn bán và cả những
người cho vay lãi nặng. Thực dân Anh không thể tự mình thâu tóm, điều hành các nhà
máy, xí nghiệp, chúng buộc phải cho phép tầng lớp có thế lực ở địa phương làm chủ.
Những nhà tư bản này từ chỗ là những nhà buôn hay những người cho vay nặng lãi
đã vươn lên, chớp thời cơ làm ăn với tư bản Anh, trở thành nhóm tư sản mại bản đầu
tiên ở Ấn Độ.
Giai cấp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm: học sinh, trí thức, viên chức, những
người làm nghề tự do. Trong đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng của
tầng lớp tiểu tư sản. Đời sống của tư sản Việt Nam bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành
những người vô sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lòng yêu nước, căm thù đế quốc thực
dân, lại chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào nên đây
là lực lượng có tinh thần cách mạng cao. Được phong trào cách mạng rầm rộ của
công - nông thức tỉnh, họ bước vào hàng ngũ cách mạng ngày càng đông, đóng vai
trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của nhân dân nhất là ở thành thị. Tại Ấn
Độ, tầng lớp trí thức tiểu tư sản là những người vừa được trang bị vốn kiến thức hiện
đại, vừa được hấp thu nền văn hóa phương Tây với những tư tưởng tự do, tiến bộ,
đồng thời luôn gìn giữ trong mình những mạch chảy của truyền thống dân tộc. Vì thế,
dù còn ít ỏi về số lượng nhưng họ là một lực lượng vô cùng quan trọng, là bộ phận đi

đầu trong các cuộc vận động dân chủ ở Ấn Độ.
Như vậy, bên cạnh các giai cấp cũ, sự ra đời của các giai cấp mới đã làm thay
đổi cơ bản tình hình chính trị, xã hội ở Việt Nam và Ấn Độ. Các giai cấp này đều
mang thân phận những người bị mất nước ở mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp
bức, bóc lột nên đã xảy ra mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân
Pháp và nhân dân Ấn Độ với thực dân Anh. Các giai cấp này qua quá trình đấu tranh
đã đoàn kết với nhau vì mục tiêu chung: chống thực dân, giải phóng dân tộc.
1.1.2. Văn hóa
1.1.2.1. Văn hóa
Mỗi nước thực dân khi xâm lược thuộc địa đều cố gắng áp đặt nền văn hóa của
nước mình lên thuộc địa. Tuy nhiên, văn hóa của mỗi dân tộc khác nhau có

15


những đặc trưng riêng, được hình thành trong quá trình xây dựng, phát triển của dân
tộc. Do đó, khi sự tiếp xúc xảy ra giữa hai nền văn hóa khác nhau sẽ dẫn đến ba khả
năng: một là sẽ xảy ra quá trình tiếp biến văn hóa, hai là sự đồng hóa văn hóa, ba là
sự đối kháng giữa các nền văn hóa. Những khả năng này ngoài bị phụ thuộc vào mức
độ tương đồng của hai nền văn hóa tiếp xúc với nhau và quá trình xâm lược của thực
dân, chúng còn phụ thuộc vào cách thức mà các nước đế quốc áp đặt văn hóa lên dân
tộc thuộc địa.
* Sự khác biệt

Tại Việt Nam, do vị trí địa lý và điều kiện lịch sử, Nho giáo thâm nhập, bám rễ
sâu chắc vào các tầng lớp nhân dân ở tất cả các lĩnh vực. Trong đó, yếu tố văn hóa
ảnh hưởng rất nặng nề. Sau khi thực dân Pháp đặt ách thống trị, Nho giáo mất dần
ảnh hưởng, song nó vẫn tồn tại lâu dài trong các mối quan hệ xã hội, phong tục tập
quán... Tuy nhiên, nhiều yếu tố của Nho giáo khi vào Việt Nam đã biến đổi cho phù
hợp với truyền thống của văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, Việt Nam có nhiều tôn giáo,

nhiều dân tộc cùng tồn tại trong một lãnh thổ nhưng hầu như trong lịch sử không xảy
ra xung đột về tôn giáo, sắc tộc. Đặc biệt, trong đời sống tinh thần, người Việt coi
trọng thế giới trần tục hơn thế giới bên kia.
Ấn Độ là đất nước có bề dày truyền thống văn hóa. Xã hội luôn tồn tại nhiều
tôn giáo khác nhau, trong đó mạnh nhất là Hindu giáo và Hồi giáo. Hindu giáo phân
chia thành 4 đẳng cấp là: Bàlamôn, Ksatria, Vaixia, Sudra. Vì vậy, Ấn Độ luôn phải
đối mặt với vấn đề quan trọng trong đời sống văn hóa, tinh thần đó là tình trạng phức
tạp về dân tộc, tôn giáo và đẳng cấp. Truyền thống Ấn Độ quy định một cách nghiêm
ngặt những người thuộc về quan hệ đẳng cấp khác nhau không được lấy nhau. Đẳng
cấp của mỗi người được thừa kế từ đời này sang đời khác. Chế độ đẳng cấp ảnh
hưởng lâu dài, sâu rộng đến mọi mặt đời sống Ấn Độ. Khác với người Việt Nam,
người Ấn Độ rất coi trọng đời sống tâm linh hướng tới sự giải thoát sau cái chết. Tư
duy luôn luôn hướng về cái tuyệt đối, luôn chiêm nghiệm, hướng nội.
* Sự tương đồng

Sau khi đặt ách thống trị tại Việt Nam, Pháp áp dụng chính sách “đồng hóa”.
Người An Nam từ lâu đã có một hệ thống đạo đức, giáo dục, một thể chế chính trị xã hội phức tạp về mặt tổ chức. Người Pháp phải đối mặt với một xã hội hoàn toàn
khác về các quy tắc ứng xử, các giá trị truyền thống. Sự ra đời của những luật lệ mà
Pháp đưa ra thường mâu thuẫn với phong tục đạo đức, xã hội Việt Nam, sự ép buộc
đó làm nhân dân Việt Nam vô cùng thất vọng. Với tinh thần yêu nước và lòng tự

16


trọng dân tộc, thái độ trước hết của người Việt Nam, đặc biệt các nhà Nho yêu nước
là chống trả quyết liệt cả về chính trị, văn hóa của thực dân Pháp. Họ không tiếp nhập
chữ quốc ngữ, không học tiếng Tây, không dùng hàng Tây… Tuy nhiên, bằng thái độ
mềm dẻo, cởi mở, dần dần họ đã tiếp nhận những giá trị văn hóa mới để phát triển
văn hóa dân tộc và sử dụng chúng trong công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, giành
độc lập dân tộc. Sự tiếp xúc văn hóa Pháp - Việt đã đưa đến sự chuyển biến văn hóa

Việt Nam khá mạnh mẽ, diện mạo văn hóa Việt Nam đã thay đổi trên các phương
diện: Thứ nhất là chữ quốc ngữ từ loại chữ viết chỉ dùng trong nội bộ một tôn giáo đã
được dùng như chữ viết của một nền văn hóa. Thứ hai là sự xuất hiện của các phương
tiện văn hóa như: nhà in, máy in ở Việt Nam. Thứ ba là sự xuất hiện của báo chí, nhà
xuất bản. Thứ tư là sự xuất hiện của một loạt các thể loại, loại hình văn nghệ như: tiểu
thuyết, thơ mới, điện ảnh, kịch nói, hội họa… góp phần hiện đại hóa văn hóa dân tộc
trên mọi phương diện.
Tương tự, tại Ấn Độ, sau khi thực dân Anh tiến hành xâm lược và đặt ách
thống trị, quan hệ tư bản chủ nghĩa sớm phát triển ở Bengal làm xuất hiện giới trí
thức dân tộc - đại diện quyền lợi cho giai cấp tư sản Ấn Độ. Những người tri thức này
đã thấm nhuần nguồn văn hóa cổ Ấn Độ, đồng thời tiếp xúc với nền văn hóa ưu tú
của thế giới, đặc biệt là Anh, Pháp, Nga. Dần dần họ thấy rõ bộ mặt nham hiểm của
thực dân Anh và bất bình với tình trạng nô lệ của đất nước. Người Ấn Độ, đặc biệt là
các tri thức đã ảnh hưởng rất lớn từ văn hóa Anh trong tác phong, lối sống, cách tư
duy, đến trình độ sản xuất, tri thức, khoa học... Nhưng họ lại muốn khôi phục nền văn
hóa cổ huy hoàng của Ấn Độ; họ muốn đem văn hóa Tây phương hòa hợp với những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình để biến văn học thành một phương tiện giải
phóng dân tộc.
Như vậy, cả Việt Nam và Ấn Độ đã trải qua quá trình đấu tranh lặng lẽ, chuyển
hóa dần dần, cuối cùng lựa chọn những tinh hoa văn hóa nhân loại rồi cải biến cho phù
hợp với tâm thức và mỹ cảm văn hóa dân tộc. Đó là quá trình hội nhập để bổ sung những
yếu tố mới tiến bộ, hiện đại vào nền văn hóa truyền thống, làm giàu đẹp hơn, phong phú
hơn, hiện đại hơn nền văn hóa dân tộc trong điều kiện lịch sử mới.
Tư tưởng, văn hóa phương Tây hiện đại ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi
tầng lớp xã hội, đặc biệt là giới trí thức. Thạch Lam và R.Tagore là những trí thức Tây
học, đã tiếp thu những nét tích cực từ văn hóa phương Tây và kết hợp nhuần

17



nhuyễn với truyền thống dân tộc để biến thành chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của
riêng mình.
1.1.2.2. Văn học
* Sự khác biệt

Văn học Việt Nam và Ấn Độ thời kỳ này đều có sự chuyển biến mạnh mẽ gắn
liền với vận mệnh đất nước, phản ánh sự nghiệp giải phóng dân tộc nhưng có nhiều
nét khác biệt.
Ở Việt Nam, bên cạnh nền văn học viết bằng chữ Hán, chữ Nôm còn xuất hiện

và lan rộng nền văn học hiện đại bằng chữ quốc ngữ với nhiều thể loại: thơ, tiểu
thuyết, truyện ngắn, kịch. Bên cạnh đó, kho tàng văn chương Việt Nam còn được làm
giàu lên nhờ các tác phẩm dịch thuật, nhiều tác phẩm đã gây được ấn tượng mạnh đối
với độc giả. Nền văn học dân tộc đã biết đặt mình vào môi trường chung của thế giới
và xem sự phát triển của mình phụ thuộc vào khả năng thu hút những tinh hoa tốt đẹp
của nhân loại. Tuy nhiên, dù văn học Việt Nam ảnh hưởng từ văn học Pháp rất lớn
nhưng Việt Nam không có dòng văn học bằng tiếng Pháp mà chỉ có một số bài viết
bằng tiếng Pháp in trên các báo: Chuông rè, Tiếng nói của chúng ta, Tập hợp, Tiến
lên… Một số tác giả tiêu biểu thời kỳ này như: nhóm Tự lực văn đoàn, Nam Cao, Vũ
Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố… Trong đó, Thạch Lam là một trong những
trí thức Tây học, ông vừa tiếp nhận cái sáng sủa mạch lạc rất tiêu biểu của Pháp, vừa
thấm nhuần chất duy lý trong văn học Pháp, dần dần ông kết hợp hài hòa giữa hai nền
văn hóa Đông - Tây tạo nên các tác phẩm rất độc đáo, trở thành một trong những tác
giả có nhiều đóng góp trong việc mang lại chất nghệ thuật cho văn xuôi và có ảnh
hưởng lớn đến quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc.
Ở Ấn Độ, văn học có sự chuyển biến mạnh mẽ gắn với phục hưng đất nước.

Nền văn học lúc này hình thành ba khuynh hướng: bài ngoại, sùng ngoại, dung hòa
văn hóa Đông Tây. Ngoài chống đế quốc, văn học thời này còn đấu tranh chống trào
lưu văn học suy đồi, phản nhân tính. Các tác giả tiêu biểu: Prem Chanđơ, Ôbinđơ

Gôdơ, Valatôn,… đặc biệt là R.Tagore - người đã phất cao ngọn cờ phục hưng, kêu
gọi cách tân văn học, hòa hợp văn hóa Đông Tây và cống hiến nhiều tác phẩm xuất
sắc. Đối với R.Tagore, chống thực dân không phải là chống văn minh châu Âu. Tác
giả quan niệm: Đông và Tây “chỉ là hai bán cầu của trí não nhân loại. Nếu một bên bị
bất toại thì toàn thân thể sẽ bị thoái hóa”. Ông đã đưa nền văn học Bengan và cả nền
văn học Ấn Độ lên đỉnh cao chói lọi. Thơ ca của ông đã cất cao lời kêu gọi “đòi cơm

18


×