Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

THỰC TRẠNG VƯỢT QUA RÀO CẢN THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM NHẬP KHẨU VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.27 KB, 39 trang )

THỰC TRẠNG VƯỢT QUA RÀO CẢN THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI
HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM NHẬP KHẨU VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ
Sau khi đã nghiên cứu các loại rào cản trong thương mại quốc tế, một số
rào cản cụ thể trong thương mại hàng dệt may ở chương 1, chương này sẽ đề
cập đến các rào cản đối với hàng dệt may vào thị trường Mỹ một cách cụ thể,
tình hình nhập khẩu của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam, ảnh hưởng của các
rào cản đến việc hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ và các biện pháp
vượt qua rào cản hàng dệt may của Mỹ mà Việt Nam đã áp dụng. Trên cơ sở đó
đánh giá những ưu điểm, những tồn tại và nguyên nhân của các tồn tại trong
việc vượt qua rào cản thương mại đối với hàng dệt may của Việt Nam nhập
khẩu vào thị trường Mỹ thời gian qua
CHƯƠNG 1

Lịch sử hình thành và phát triển các

rào cản thương mại đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường
Mỹ
Trước cuộc chiến tranh thương mại 1930, cuộc chiến tranh mà các nước
cạnh tranh với nhau nhằm tăng thêm các hàng rào mậu dịch để bảo vệ các nhà
sản xuất trong nước và trả đũa rào cản của các nước khác, Chính phủ và các
doanh nghiệp Mỹ đã tập trung phát triển nền kinh tế trong nước mặc cho những
diễn biến xảy ra ở bên ngoài.
Từ sau cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 và nhất là sau chiến tranh thế giới
thứ hai, Mỹ đã giảm bớt các rào cản thương mại và phối hợp với hệ thống kinh
tế thế giới. Tuy nhiên, do đặc thù của Mỹ là thuộc địa của Anh nên ngành dệt và
những sản phẩm len rất phát triển, các rào cản thương mại đối với ngành dệt
may cũng được thiết lập sớm và duy trì lâu hơn so với hầu hết các ngành khác
(trừ nơng nghiệp), ví dụ Luật nhãn hàng sản phẩm len (WPLA) ra đời từ năm
1939.
Trước năm 1974, Mỹ căn cứ vào điều 204 của Luật nông nghiệp năm 1956,
uỷ quyền cho tổng thống tham gia đàm phán các hiệp định với nước ngoài để




hạn chế xuất khẩu nông sản và hàng dệt sang Mỹ. Từ 1974 đến hết năm 1994,
thương mại hàng dệt may của Mỹ với các nước khác tuân theo hiệp định đa sợi
(MFA).
Mặc dù ngành công nghiệp dệt may Mỹ liên tục giảm sút do chi phí về lao
động ngày càng tăng, Mỹ vẫn là nước sản xuất hàng dệt may lớn. Năm 2005,
giá trị sản lượng công nghiệp quần áo của nước này đạt 30,2 tỷ USD, công
nghiệp dệt vải đạt 24,3 tỷ USD, công nghiệp xơ sợi đạt 17,2 tỷ USD và công
nghiệp dệt thảm đạt 14 tỷ USD. Công nghiệp dệt may của Mỹ tập trung chủ yếu
ở các bang phía nam, trong đó Bắc Carolina và Nam Carolina là hai bang có
ngành cơng nghiệp lớn nhất. Sản phẩm dệt may chủ yếu được tiêu thụ trong
nước, xuất khẩu chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là các nước
trong khu vực như Canada, Mêhicô, các nước vùng Caribê và Trung Mỹ. Vải
(kể cả vải đã cắt) được chuyển sang các nước này để gia công thành quần áo và
các sản phẩm khác, sau đó được nhập khẩu trở lại Mỹ. Chính vì vậy, trong hiệp
định về Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) có hiệu lực từ 01/01/1994,
Mỹ đã miễn thuế nhập khẩu cho hàng dệt may có xuất xứ từ Mêhicơ và Canada.
Theo Hiệp định dệt may ATC có hiệu lực từ năm 1995, Mỹ cũng dỡ bỏ các
rào cản về thuế và hạn ngạch đối với hàng dệt may từ các nước là thành viên
của WTO. Tuy nhiên, để hạn chế nhập khẩu từ các nước đang phát triển – các
nước có lượng xuất khẩu dệt may vào thị trường Mỹ tăng đáng kể trong những
năm gần đây - Mỹ lại đề ra những quy định khắt khe về môi trường, trách nhiệm
xã hội,... Những quy định này không có tác động đáng kể đến hai nước láng
giềng có điều kiện tương tự như Mỹ nhưng lại gây khó khăn rất nhiều cho
ngành dệt may của các nước đang phát triển, các nước có điều kiện sản xuất
thấp hơn nhiều so với Mỹ.
CHƯƠNG 2

Thực trạng các rào cản thương mại


đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ và kết quả nhập
khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam


CHƯƠNG 3

Thực trạng các rào cản thương mại đối

với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ
3.1.1.1

Rào cản thuế quan

Mức thuế suất đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ được căn
cứ vào chủng loại hàng hoá dựa trên các Hiệp định song phương và đa phương
mà Mỹ đã ký kết với các quốc gia khác. Mức thuế này được thể hiện trong Biểu
thuế suất hài hoà (HTS) hiện hành của Mỹ, được ban hành trong Luật thương
mại và Cạnh tranh Omnibus năm 1988 và có hiệu lực từ 01 tháng 01 năm 1989.
Biểu thuế nhập khẩu của Hoa Kỳ gồm 21 phần và 96 chương được bố cục
thành 7 cột như mẫu dưới đây:
Bảng 2.1 Harmonized Tariff Schedule of the United States (2008)
Annotated for Statistical Purposes
Stat
Heading/
SufSubheading
fix
5204
5204.11.00


Article Description

Unit
Rate of Duty
of
1
Quantity General
Special

Cotton sewing thread, whether or not put up for retail
sale:
Not put up for retail sale:
00
Containing 85 percent or more by weight of
kg
cotton (200)

5204.19.00

00

5204.20.00

00

Other (200)

Put up for retail sale (200)

2


4.4%

Free (BH,CA, 25.5%
IL,JO,MX,P,SG)
1.3% (MA)
3%(AU)

kg

4.4%

Free (BH,CA, 25.5%
IL,JO,MX,P,SG)
1.3% (MA)
3%(AU)

kg

4.4%

Free (BH,CA, 25.5%
IL,JO,MX,P,SG)
1.3% (MA)
3%(AU)

 2008 có nghĩa là mức thuế ghi trong biểu thuế được áp dụng cho năm
2004.
 Cột Heading/Sub-heading là mã số hàng hoá đến 4 số, 6 số hoặc 8 số.
 Cột Stat-Suf-Fix là mã số đuôi phục vụ cho mục đích thống kê của Hoa

Kỳ. Những mặt hàng khơng có mã số đi này thì hai số khơng (00) sẽ
được thêm vào sau mã số 8 số.
 Article Decription là mơ tả hàng hóa.


 Unit of Quantity là đơn vị số lượng (có thể là trọng lượng, hoặc khối
lượng hoặc chiếc).
 Mức thuế phi tối huệ quốc (Non-MFN) được ghi ở cột 2.
 Mức thuế tối huệ quốc (MFN) được ghi ở cột “General” thuộc cột 1. Mức
thuế áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam hiện nay là mức thuế
MFN ghi ở cột này.
 Mức thuế ưu đãi được ghi ở cột “Special” thuộc cột 1. Trong mẫu biểu
thuế trên ta thấy mức thuế phi tối huệ quốc năm 2008 đối với vải cotton là
25,5%, trong khi đó mức thuế tối huệ quốc đối với mặt hàng này chỉ là
4,4%.
 Cột “Special” trong mẫu biểu thuế trên ghi Free (BH, CA, CL, IL, JO,
MX, P, SG); 1,3% (MA); 3% (AU) có nghĩa là hàng nhập từ các nước có
ký hiệu BH, CA, CL, IL, JO, M, P và SG được miễn thuế hoàn toàn, hàng
nhập từ Malaysia chịu mức thuế 1,3%, hàng nhập từ Áo chịu mức thuế
3%.
Hàng dệt may đa số tính thuế theo trị giá, tức là bằng một tỷ lệ phần trăm trị
giá giao dịch của hàng hố nhập khẩu. Ví dụ: mức thuế tối huệ quốc (MFN) đối
với thảm nhung chất liệu nhân tạo là 8%. Một số loại phải chịu thuế theo trọng
lượng hoặc khối lượng. Ví dụ thuế suất đối với các loại vải cotton không chải
sợi là 4,4 cent/kg.
Thuế suất đánh vào dệt may cũng có nhiều mức thuế:
 Mức thuế phi tối huệ quốc (Non-MFN) được áp dụng đối với những
nước chưa phải là thành viên WTO và chưa ký hiệp định song phương
với Mỹ như Lào, Cuba, Bắc Triều Tiên. Thuế suất Non-MFN đối với
hàng dệt may nằm trong khoảng từ 20% đến 50%. Mức thuế Non-MFN

được ghi trong cột 2 của biểu thuế HTS của Hoa Kỳ.
 Mức thuế tối huệ quốc (MFN) đối với hàng dệt may thường ở mức từ
2% đến 15%, đa số mặt hàng chịu mức thuế từ 7% đến 10%. Mức thuế
MFN được ghi trong cột “General” của cột 1 trong biểu thuế nhập khẩu


(HTS) của Hoa Kỳ.
 Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (Generalized System of Preferences –
GSP) của Mỹ được áp dụng đối với hàng dệt may nhập khẩu từ một số
nước đang phát triển.
 Mức thuế áp dụng với Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA): hàng
dệt may nhập khẩu từ Canada và Mexico được miễn thuế nhập khẩu.
Thuế suất ưu đãi đối với hàng nhập từ Canada hoặc Mexico được ghi ở
cột “Special” của cột 1 trong biểu thuế HTS trong đó CA là ký hiệu
dành cho Canada và MX là ký hiệu dành cho Mexico.
Ngoài ra, mức thuế đối với hàng dệt may của từng quốc gia cũng phụ thuộc
vào các Hiệp định song phương và đa phương khác như Sáng kiến khu vực lòng
chảo Caribe (CBI); luật ưu đãi thương mại Andean (ATPDEA) đối với các nước
Bolivia, Colombia, Ecuador và Peru; luật hỗ trợ phát triển châu Phi (AGOA);
các hiệp định thương mại song phương với Israel, Jordan, Singapore, Chile,
Australia.
3.1.1.2

Rào cản phi thuế quan

Dựa trên các điều khoản cam kết trong các Hiệp định WTO, chính phủ Mỹ
đã ban hành nhiều luật riêng để điều chỉnh thương mại hàng hố nói chung và
một số quy định đối với hàng dệt may nói riêng. Những luật lệ, quy định này lại
trở thành rào cản đối với những nước xuất khẩu dệt may vào thị trường Mỹ.
-


Hạn ngạch dệt may: Trong khuôn khổ của ATC, các hạn ngạch và hạn

chế đối với việc buôn bán hàng dệt may được dỡ bỏ dần trong 3 giai đoạn và hết
hạn vào ngày 1 tháng 1 năm 2005. Sau đó, tất cả các nước là thành viên WTO
sẽ được xoá bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Mỹ
(trừ Trung Quốc do bị áp dụng điều khoản tự vệ theo thoả thuận với Mỹ khi gia
nhập WTO). Những nước không phải là thành viên WTO sẽ tiếp tục là đối
tượng của hiệp định dệt may song phương. Việc nhập khẩu hàng dệt từ Canada
và Mehico sẽ được điều chỉnh trong NAFTA.
-

Chống bán phá giá: Có 3 nhóm điều luật Mỹ xử lý các dạng khác nhau


của việc bán phá giá: Luật chống bán phá giá năm 1916 nêu hình phạt hình sự
và dân sự đối với việc bán phá giá hàng nhập khẩu với giá quá thấp so với trị
giá thị trường hoặc giá bán bn của loại hàng đó, với ý đồ phá hoại hoặc gây
thiệt hại cho ngành công nghiệp Mỹ. Phần VII của Luật thuế quan 1930 được bổ
sung quy định việc đánh giá và thu thuế chống bán phá giá của chính phủ Mỹ
sau khi xác định bằng thủ tục hành chính rằng hàng ngoại nhập đã được bán ở
Mỹ với giá thấp hơn giá hợp lý và như vậy đã gây thiệt hại vật chất cho ngành
công nghiệp Mỹ. Phần 1317 của Luật về thương mại và cạnh tranh 1988 quy
định thủ tục cho USTR yêu cầu chính phủ nước ngoài áp dụng hành động chống
lại việc bán phá giá của nước thứ ba làm phương hại tới công nghiệp Mỹ và
phần 232 Luật Hiệp định vòng đàm phán Uruguay cho phép một nước thứ ba
quyền yêu cầu chống lại việc nhập hàng phá giá từ một nước khác làm thiệt hại
ngành công nghiệp ở một nước thứ ba.
Các luật này quy định các quy trình, thủ tục tiến hành các bước xác định
thiệt hại, quy định thế nào là bán phá giá, các cơ quan có quyền liên quan đến

thuế đối kháng và bán phá giá, thời hạn tố tụng.
Thời hạn và các bước điều tra chống bán phá giá được quy định như trong
bảng sau:

Bảng 2.2: Các bước điều tra chống bán phá giá (AD)
Ngày
0
20
45
160
235
280

Các bước
Nộp đơn yêu cầu cho USITC và Bộ Thương mại
Bắt đầu điều tra
ITC sơ bộ xác định
Bộ Thương mại sơ bộ xác định
Bộ Thương mại kết luận
ITC kết luận

- Trợ cấp: các mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ bị xác định là được trợ cấp của
chính phủ nước xuất khẩu sẽ bị đánh thuế đối kháng. Phần A Chương VII Luật
thuế quan 1930, bổ sung bằng Luật Hiệp định thương mại 1979, bổ sung bằng


Luật thuế quan và thương mại 1984, Luật về thương mại và cạnh tranh 1988 và
Luật về các hiệp định thương mại vịng đàm phán Uruguay nêu rõ: ngồi các
loại thuế, phí khác, thuế đối kháng sẽ được đánh tương đương với trị giá tịnh
của phần trợ cấp, nếu thoả mãn hai điều kiện: một là, Bộ Thương mại Mỹ cần

phải làm rõ là có trợ cấp đối kháng, trực tiếp hay gián tiếp, liên quan đến sản
xuất, xuất khẩu của nhóm/loại hàng nhập khẩu hoặc được bán vào Mỹ và phải
xác định trị giá của phần trợ cấp tịnh; hai là, Uỷ ban Thương mại quốc tế Mỹ
(ITC) phải xác định được là ngành công nghiệp Mỹ bị thiệt hại vật chất, hoặc có
nguy cơ bị thiệt hại vật chất, hoặc việc hình thành một ngành cơng nghiệp Mỹ
bị đẩy lùi, vì lý do nhập khẩu mặt hàng đó hoặc việc bán (hoặc tương tự như
bán) hàng đó vào Mỹ - gọi là việc kiểm tra thiệt hại.
Luật được áp dụng cho nhập khẩu từ các nước WTO là Hiệp định trợ cấp và
các biện pháp chống đối kháng. Theo hiệp định này, có 2 loại trợ cấp bị cấm
hay còn gọi là trợ cấp “đèn đỏ” là 1.trợ cấp dựa trên năng lực xuất khẩu, 2.trợ
cấp dựa trên sử dụng nhiều hàng nội hơn hàng nhập. Hiệp định cho phép 3 loại
trợ cấp “đèn xanh” – không gây phản ứng đối kháng – đó là: 1.một số trợ cấp
nghiên cứu (ngoại trừ trợ cấp cho ngành hàng không), 2.trợ cấp cho khu vực
kém phát triển, 3.trợ cấp cho phương tiện hiện thời đáp ứng yêu cầu mới về mơi
trường. Đối với các nước đang phát triển có GDP bằng hoặc hơn
1.000USD/người được 8-10 năm (tính từ 1994/1995) để loại bỏ dần trợ cấp xuất
khẩu. Đối với các nước kém phát triển có GDP ít hơn 1.000USD/người được 8
năm để loại bỏ dần trợ cấp xuất khẩu cho loại hàng cạnh tranh. Các nước đang
phát triển được 5 năm, kém phát triển được 8 năm để loại bỏ dần các biện pháp
bị cấm về trợ cấp thay thế hàng nhập khẩu.
Thời hạn và các bước điều tra chống trợ cấp được quy định như trong bảng
sau:
Bảng 2.3: Các bước điều tra chống trợ cấp (CVD)
Ngày
0
20

Các bước
Nộp đơn yêu cầu cho USITC và Bộ Thương mại
Bắt đầu điều tra



45
85
160
280

ITC sơ bộ xác định
Bộ Thương mại sơ bộ xác định
Bộ Thương mại kết luận
ITC kết luận

- Nhãn hiệu thương mại: Những yêu cầu về nhãn hiệu đối với hàng dệt
may được quy định cụ thể trong Luật về nhãn sản phẩm len (WPLA) 1939 và
quy chế về nhãn mác hàng dệt may (Care Labelling).
Tất cả các sản phẩm có chứa sợi len khi nhập khẩu và Mỹ (trừ thảm, chiếu
và các sản phẩm đã được sản xuất từ hơn 20 năm trước khi nhập khẩu) đều phải
có tem hoặc gắn nhãn theo yêu cầu của WPLA và các quy định dưới luật do
FTC ban hành. Những thông tin cần có là:
 Tỷ lệ trọng lượng các sợi thành phần của sản phẩm len (trừ các thành
phần trang trí dưới 5% tổng trọng lượng) gồm len mới, len tái chế, các
sợi khác không phải len (nếu lớn hơn 5%) và tổng số các sợi khác
không phải len.
 Tỷ lệ tối đa tổng trọng lượng len, các thành phần không phải sợi
(nonfibrous), các chất phụ khác.
 Tên nhà sản xuất hoặc tên người đưa sản phẩm vào lưu thông tại Mỹ
(nhà nhập khẩu).
Luật WPLA cũng u cầu xuất trình hố đơn thương mại cho các lơ hàng
nhập khẩu có trị giá trên 500 USD. Hoá đơn thương mại phải đầy đủ các thông
tin theo yêu cầu của luật này.

Quy chế về nhãn mác hàng dệt may yêu cầu các nhà sản xuất và nhà nhập
khẩu quần áo và một số sản phẩm dệt phải cung cấp những chỉ dẫn thông
thường về bảo quản sản phẩm tại thời điểm những sản phẩm đó được bán cho
người mua hay thơng qua việc sử dụng các ký hiệu về bảo quản hay các cách
khác được mô tả trong quy định này.
Các mặt hàng phải tuân thủ luật này gồm: quần áo mặc để che hay bảo vệ
thân thể. Các mặt hàng được miễn trừ áp dụng quy định này gồm giày dép, găng


tay, mũ, khăn mùi xoa, thắt lưng, dây nịt tất, ca vát. Các loại quần áo không
thuộc loại dệt và được làm ra chỉ để dùng một lần thì khơng phải có chỉ dẫn sử
dụng thơng thường.
Theo quy định của luật này các nhà sản xuất và nhập khẩu phải:
 Cung cấp đầy đủ những chỉ dẫn về bảo quản thông thường đối với quần
áo, hay cung cấp những cảnh báo nếu như quần áo có thể bị hỏng khi
giặt
 Đảm bảo những chỉ dẫn bảo quản, nếu được tuân thủ, sẽ không gây thiệt
hại đáng kể đối với sản phẩm
 Cảnh báo người tiêu dùng về một số quy trình mà họ cho rằng có thể
phù hợp với những chỉ dẫn trên nhãn nhưng vẫn có thể gây ảnh hưởng
đến sản phẩm. Ví dụ, một chiếc quần có thể bị hỏng khi là, và nhãn phải
ghi chữ “không được là”
 Đảm bảo rằng nhãn hướng dẫn sử dụng sẽ tồn tại rõ ràng trong suốt quá
trình sử dụng của sản phẩm.
Nhà sản xuất hay nhà nhập khẩu phải có cơ sở hợp lý cho những chỉ dẫn sử
dụng và bảo quản ghi trên nhãn hướng dẫn sử dụng. Điều đó có nghĩa là phải
có chứng cớ xác thực để biện minh cho những chỉ dẫn bảo quản của mình. Ví
dụ, nhà sản xuất khơng thể nói “chỉ được giặt khơ” trừ phi họ có lý do để chứng
minh rằng giặt nước thông thường sẽ làm hỏng sản phẩm.
- Quy định về xuất xứ hàng hoá: Luật phân biệt các sản phẩm sợi dệt

(TFPIA) và các quy định của Uỷ ban thương mại liên bang (FTC) quy định các
sản phẩm sợi dệt nhập khẩu vào Mỹ phải được dán tem hoặc gắn nhãn hoặc
đánh dấu cung cấp những thông tin liên quan đến loại sợi.
Những thông tin phải cung cấp theo yêu cầu của Luật TFPIA gồm:
 Tên và tỷ lệ phần trăm theo trọng lượng của các loại sợi cấu thành sản
phẩm dệt (khơng kể sợi trang trí cho phép) với trọng lượng lớn hơn 5%
trong sản phẩm, theo thứ tự tỷ lệ trọng lượng giảm dần. Các sợi thành
phần có trọng lượng từ 5% trở xuống được ghi là “sợi khác” hoặc “các


sợi khác” ở cuối cùng.
 Tên của nhà sản xuất hoặc tên số đăng ký (do FTC) cấp của một hoặc
nhiều nguời bán hoặc giao dịch sản phẩm sợi này. Tên thương hiệu
(trademark) đã được đăng ký tại Cơ quan đăng ký sở hữu trí tuệ của Mỹ
có thể được ghi trên tem hoặc nhãn thay cho các tên khác, nếu chủ của
thương hiệu này trước đó đã cung cấp cho FTC một bản sao thương
hiệu
 Tên của nước gia công hoặc nước sản xuất
Hàng nhập khẩu vào Mỹ không tuân thủ các quy định cung cấp thông tin liên
quan đến thành phần sợi của sản phẩm sẽ bị Hải quan Mỹ giữ hàng lại và tiến
trình giao hàng do vậy có thể bị chậm lại.
- Bản quyền: Phần 602(a) thuộc Luật sửa đổi về bản quyền nhãn hiệu 1976
quy định rằng việc nhập khẩu vào Mỹ các bản sao chép từ nước ngồi mà khơng
được phép của người có bản quyền là vi phạm luật bản quyền, và sẽ bị bắt giữ
và tịch thu, các bản sao sẽ bị huỷ. Tuy nhiên, các hàng hố này có thể được trả
lại nước xuất khẩu nếu chứng minh thoả đáng cho cơ quan Hải quan là hàng
khơng phải cố tình vi phạm. Các chủ sở hữu bản quyền muốn được cơ quan hải
quan Mỹ bảo vệ quyền lợi cần đăng ký khiếu nại bản quyền với Văn phòng bản
quyền và đăng ký với Hải quan theo quy định hiện hành
Nếu hàng hố thuộc quyền sở hữu của người khác thì người khơng có quyền

đó khơng được nhập khẩu sản phẩm đó vào Mỹ.
- Tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm: Mức độ sử dụng các tiêu chuẩn do các
tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ban hành ở Mỹ tương đối thấp, hoặc thậm chí các
tiêu chuẩn này khơng được biết đến ở Mỹ. Tất cả các bên của Hiệp định Rào
cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT) đều cam kết sử dụng rộng rãi hơn các
tiêu chuẩn quốc tế nhưng mặc dù khá nhiều tiêu chuẩn của Mỹ được coi “tương
đương về mặt kỹ thuật” với các tiêu chuẩn quốc tế, và một số các tiêu chuẩn đó
thực tế đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới, rất ít các tiêu chuẩn quốc tế được
áp dụng trực tiếp và một số tiêu chuẩn của Mỹ còn mâu thuẫn trực tiếp với các


tiêu chuẩn quốc tế. Các bang của Mỹ cũng có quy định khác nhau. Ở Mỹ có hơn
2.700 cơ quan chính quyền cấp bang và thành phố có quy định cụ thể về các
tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn đối với các sản phẩm được bán trong phạm vi địa
hạt của các cơ quan này. Những yêu cầu này thường là không đồng nhất hoặc
nhất quán với nhau. Sự không thống nhất này là một rào cản kỹ thuật lớn gây
cản trở thương mại đối với hàng nhập khẩu trong đó có dệt may.
- Mã số nhà sản xuất hàng dệt may (MID): Theo quy định của Cục Hải quan
và Bảo vệ biên giới Mỹ (CPB), kể từ ngày 05/10/2005, các nhà nhập khẩu hàng
dệt may Mỹ phải khai báo mã số của nhà sản xuất nước ngoài (Manufacturer
Identification Code viết tắt là MID). Mã MID là cơ sở để CPB xác định xuất xứ
hàng hoá và ngăn chặn hàng hoá khai sai xuất xứ nhập khẩu vào Mỹ.
Mã MID chỉ dành cho các nhà sản xuất chứ không dành cho các công ty kinh
doanh hoặc công ty bán hàng không phải là nhà sản xuất. Nếu nghi ngờ mã
MID không phải là của nhà sản xuất, Hải quan cảng có thể u cầu sửa đổi
thơng tin sau khi hàng đã qua cửa khẩu. Lỗi lặp lại trong khai báo mã MID khi
nhập khẩu có thể dẫn đến tăng mức phát đối với công ty nhập khẩu hoặc công ty
mơi giới hải quan.
Ngồi ra, Mỹ cũng sử dụng các tiêu chuẩn về môi trường theo ISO 14000 và
tiêu chuẩn về an toàn lao động SA 8000 đối với hàng dệt may nhập khẩu.

CHƯƠNG 4

Tình hình nhập khẩu hàng dệt may

Việt Nam của Mỹ
4.1.1.1

Thực trạng nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ

Hoa Kỳ là một trong những thị trường tiêu thụ chính của hàng dệt may thế
giới. Nhập khẩu dệt may của Mỹ trong giai đoạn từ năm 1990 đến 2007 tăng
trưởng bình quân hàng năm với tốc độ 7.25%/năm.


93.28

96.41

89.21
83.31
77.43

60.39

71.69

70.24

2000


2001

72.18

63.74

54.00
43.95

45.91

39.98
34.11
27.94

29.04

1990

1991

1992

36.08

1993

1994

1995


1996

1997

1998

1999

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Đơn vị: tỷ USD
Hình 2.1: Tổng kim ngạch dệt may của Mỹ (thời kỳ 1990 – 2007)

Nhập khẩu năm 2007 tăng gần gấp đôi về mặt lượng so với 10 năm trước đó,
năm 1997. Mặc dù các rào cản đối với nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường
Mỹ rất đa dạng, phức tạp và ẩn dưới nhiều hình thức khác nhau, nhập khẩu vào
thị trường Mỹ được dự đoán là vẫn tăng đều trong những năm sắp tới.
Bảng 2.4: Kim ngạch nhập khẩu dệt may của Mỹ từ
một số nước xuất khẩu chính

Country
Thế giới
Trung Quốc
Mêhicơ
Ấn Độ
Việt Nam
Inđơnêsia
Băngladesh
Pakistan
Honduras
Campuchia
Ý
Canada
Hồng Kơng

2003
77.434
11.608
7.940
3.211
2.484
2.375
1.939
2.215
2.507
1.251
2.182
3.117
3.817


2004
83.310
14.558
7.793
3.633
2.719
2.620
2.065
2.546
2.677
1.441
2.260
3.085
3.959

2005
89.205
22.405
7.246
4.616
2.880
3.081
2.456
2.904
2.629
1.726
2.143
2.844
3.606


2006
93.278
27.067
6.376
5.031
3.396
3.901
2.997
3.250
2.445
2.150
2.067
2.587
2.892

đơn vị: triệuUSD
2007
96.407
32.320
5.625
5.103
4.557
4.206
3.191
3.170
2.517
2.435
2.233
2.201
2.123



Thái Lan
Philippines

2.072
2.040

2.198
1.938

2.124
1.921

2.124
2.085

2.059
1.794

Nguồn : OTEXA
Các nước xuất khẩu dệt may chính vào Hoa Kỳ là Trung Quốc, Mêhicô, Ấn
Độ, Hồng Kông, Canada, Inđônêsia, Honduras, Việt Nam, Pakistan,
Campuchia, Italia, Thái Lan, Philippines.
Năm 2005, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ lên tới 89,2 tỷ
USD. Phần lớn sự gia tăng nhập khẩu trong năm 2005 là do kết quả của việc
loại bỏ hạn ngạch nhập khẩu từ ngày 1/1/2005 đối với hàng dệt may từ 39 nước
là thành viên WTO. Trong khi đó, sản xuất nội địa giảm 0,5% đối với hàng dệt
và 3% đối với hàng may. Tăng nhập khẩu từ các nước châu Á, đặc biệt là Trung
Quốc là nguyên nhân chính làm tăng thâm hụt.

Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc vào Hoa Kỳ khơng
những lớn nhất mà cịn có tốc độ tăng trưởng cao. Sau khi hạn ngạch nhập khẩu
hàng dệt may được xóa bỏ giữa các nước thành viên WTO, xuất khẩu dệt may
của Trung Quốc vào Hoa Kỳ đã tăng vọt. Năm 2005, Trung Quốc xuất vào Hoa
Kỳ xấp xỉ 22,5 tỷ USD, tăng 53,9 % so với năm 2004 và chiếm 25,11 % tổng
kim ngạch nhập khẩu dệt may của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sau khi Hoa Kỳ áp dụng
trở lại hạn ngạch đối với Trung Quốc từ tháng 5/2005 thì tốc độ tăng nhập khẩu
hàng dệt may từ nước này vào Hoa Kỳ đã chậm lại. Tiếp theo Trung Quốc, Ấn
Độ được đánh giá có khả năng cạnh tranh lớn thứ hai ở thị trường Hoa Kỳ. Năm
2005, Ấn Độ xuất khẩu vào Hoa Kỳ 5,2 tỷ USD, tăng 26,5 % so với năm 2004.
Sức mạnh cạnh tranh của Ấn Độ dựa vào lực lượng lao động nhiều, khá rẻ, lành
nghề; có khả năng thiết kế; là một trong những nước sản xuất sợi và vải lớn nhất
thế giới; có thể sản xuất rất nhiều loại quần áo khác nhau; được coi là nguồn
cung cấp cạnh tranh về các sản phẩm dệt sử dụng trong nhà như vải trải giường,
khăn tắm. Trong số các nước ASEAN, chỉ có Việt Nam và ở chừng mực thấp
hơn là Inđônêsia được đánh giá là có khả năng cạnh tranh với Trung Quốc và
Ấn Độ. Mêhicô và Canada, hai quốc gia hầu như được miễn thuế hoàn toàn đối


với hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ theo Hiệp định NAFTA đang mất dần lợi
thế cạnh tranh vào tay các nước đang phát triển khi các nước này giảm được các
rào cản thuế quan (được hưởng mức thuế MFN) và được xoá bỏ chế độ hạn
ngạch khi gia nhập WTO.
Bảng dưới đây tóm tắt ảnh hưởng của việc loại bỏ hạn ngạch dệt may năm
2005 và những yếu tố cạnh tranh chính của một số quốc gia và khu vực.
Bảng 2.5: Tóm tắt những ảnh hưởng của việc loại bỏ hạn ngạch dệt may
năm 2005 và những yếu tố cạnh tranh chính
Khu vực

Trung

Quốc

Những khả năng ảnh hưởng
do loại bỏ hạn ngạch

Có thể trở thành nguồn cung cấp
được hầu hết các công ty kinh doanh
và bán lẻ quần áo HK lựa chọn; Tăng
trưởng xuất khẩu vào Hoa Kỳ có thể
bị ảnh hưởng do Hoa Kỳ có thể áp
dụng những biện pháp tự vệ đặc biệt.
Về lâu dài, khả năng cạnh tranh có
thể giảm đi do tăng trưởng kinh tế
mạnh dẫn đến tăng nhu cầu nội địa
cũng như tăng chi phí lao động và
vốn để sản xuất những mặt hàng này.
Thực tế cho thấy Trung Quốc đã có
sự tăng trưởng rất mạnh về xuất khẩu
của những hàng được hưởng quy chế
WTO loại bỏ hạn ngạch trong năm
2002.

Những yếu tố ảnh hưởng tới
cạnh tranh

Lao động - Chi phí lao lao động
trên mỗi đơn vị sản phẩm rất
thấp do mức lương thấp và năng
suất lao động cao.
Vật tư: có thể sản xuất các loại

vải, đồ trang trí, bao bì, và hầu
hết các phụ kiện khác dùng để
sản xuất hàng dệt may và các sản
phẩm dệt khác.
Sản phẩm - Được các giới
chuyên ngành đánh giá là một
nơi tốt nhất về sản xuất quần áo,
và các sản phẩm dệt may khác
với bất kỳ chất lượng nào hay
với bất cứ mức giá nào. Là nước
sản xuất và xuất khẩu hàng dệt
maylớn nhất thế giới, mặc dù
phải chịu hạn ngạch rất chặt chẽ
ở các nước nhập khẩu chính của
thế giới.

Ấn Độ
Có thể vẫn là một nguồn cung cấp
Lao động- lực lượng lao động
cạnh tranh cho Hoa Kỳ khi hạn ngạch nhiều, khá rẻ, lành nghề; có khả
được loại bỏ vào năm 2005. Được các năng thiết kế.
công ty Hoa Kỳ coi là một nguồn
thay thế chủ yếu cho nguồn từ Trung Vật tư- thuộc số các nhà sản xuất
Quốc.
sợi và vải lớn nhất thế giới.


Về lâu dài, khả năng cạnh tranh có Sản phẩm – có thê sản xuất rất
thể giảm do tăng trưởng kinh tế mạnh nhiều loại quần áo khác nhau;
sẽ dẫn đến tăng nhu cầu nội địacung được xem là một nguồn cung cấp

như tăng chi phí lao động và vốn để cạnh tranh về các sản phẩm dệt
sản xuất các hàng này.
trong nhà (ví dụ như vải trải
giường, khăn tắm).
Mơi trường kinh doanh - An toàn
cá nhân, an toàn giao hàng từ nhà
máy đến cảng, hành chính quan
liêu và cơ sở hạ tầng có vấn đề;
do vậy, nhiều cơng ty Hoa Kỳ
đang sử dụng đại lý để thay cho
việc giao dịch trực tiếp với các
nhà sản xuất.
ASEAN
Tỷ trọng của các nước nay trong nhập Lao động- chi phí lao động khá
khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ có
cao tại các nước ASEAN trừ
thể giảm do các công ty Hoa Kỳ nói Indonesia và nước khơng phải là
chung sẽ giảm mua từ hầu hết các
thành viên WTO như Việt nam nước trong khu vực này (trừ một số ít nước khơng được hưởng việc
nước).
loại bỏ hạn ngạch.
Vận tải- Thời gian giao hàng tới
bờ tây Hoa Kỳ khoảng 45 ngày
so với 12 đến 18 ngày từ Trung
Quốc.
Mehico
Tỷ trọng trong tổng nhập khẩu của Lao động - Chi phí lao động khá
Hoa Kỳ có thể giảm hơn nữa, mặc dù cao; chất lượng sản phẩm và tính
có những ưu đãi của NAFTA. Có thể tin cậy của sản xuất có vấn đề;
vẫn là một nguồn cung cấp ngách

Cấp quản lý bậc trung chịu trách
(niche) cho một số quần áo cơ bản, nhiệm điều hành nhà máy bị coi
đặc biệt là hàng cần gấp.
là yếu; kỹ năng thiết kế sản phẩm
hạn chế.
Có tiềm năng tăng xuất khẩu sợi và
vải sang các nước khác trong khu vực Vật tư- sản xuất các loại vải dệt
châu Mỹ theo các điều kiện của khu thoi và dệt kim. Chi phí thấp hơn
vực mậu dịch tự do tồn Châu Mỹ
so với sản phẩm tương tự của
đang đàm phán hoặc sang các nước Hoa Kỳ nhưng cao hơn các sản
Trung Mỹ nếu hiệp định thương mại phẩm cùng loại của châu á.
tự do Mỹ – Trung Mỹ đang đàm phán
cho phép sử dụng đầu vào của
Sản phẩm- tập trung vào các loại
Mêhicô.
quần áo cơ bản sản xuất hàng
loạt, đặc biệt là quần bị vải bơng
5 túi, áo các loại dệt kim và đồ


lót; cơng suất hạn chế đối với các
loại quần áo thời trang. Khả năng
cung cấp dịch vụ trọn gói có hạn
Mơi trường kinh doanh- phát
sinh thêm chi phí để đảm bảo
giao hàng chắc chắn từ nhà máy
tới biên giới Hoa Kỳ và tuân thủ
các yêu cầu về chứng từ để được
hưởng ưu đãi theo NAFTA.


CBERA
Hầu hết các công ty Hoa Kỳ cho biết
(Các nước họ sẽ giảm mua từ khu vực các nước
được hưởng CBERA, đặc biệt nếu như hiệp định
ưu đãi
mậu dịch tự do Hoa Kỳ-Trung Mỹ
thương mại đang đàm phán không cho phép sử
theo Luật dụng vải khu vực (Mêhicô) hay từ
Phục hồi
các nước thứ ba (Mêhico hay Châu
Kinh tế
á).
Khu vực
Lịng chảo Tuy nhiên, cho dù khơng có điều
Caribê)
khoản cho phép sử dụng vải của khu
vực hay nước thứ ba trong hiệp định
khu vực mậu dịch tự do Hoa KỳTrung Mỹ, khu vực này vẫn có thể
tiếp tục là nguồn cung đối với các
loại quần áo sản xuất hàng loạt có
hàm lượng lao động tối thiểu và đối
với các đơn hàng có vịng quay gấp.

Sản phẩm- Các sản phẩm quần
áo sản xuất hàng loạt, đặc biệt là
những hàng có hàm lượng lao
động thấp và ít có những quy
trình may phức tạp.
Vật tư- phụ thuộc nhiều vào nhập

khẩu vải sợi từ Hoa Kỳ, phần lớn
thể hiện hàm lượng nguyên liệu
Hoa Kỳ để được hưởng những
ưu đãi thương mại theo CBTPA.
Vải Hoa Kỳ và khu vực đáp ứng
tiêu chuẩn hưởng ưu đãi CBTPA
thường đắt hơn các vải tương tự
sản xuất từ các nước châu á.
Vận chuyển- Có những ưu thế do
gần với thị trường Hoa Kỳ.
Những ưu đãi đặc biệt: được
nhập khẩu miễn thuế vào Hoa Kỳ
theo CBERA.

ANDEAN
Tỷ trọng trong tổng nhập khẩu của
Hoa Kỳ có thể giảm nhưng vẫn là
một nguồn cung cấp ngách (niche)
cho thị trường này.

Những ưu đãi đặc biệt- Luật Hoa
Kỳ ban hành tháng 8/2002 dành
cho hàng quần áo nhập khẩu từ
các nước thuộc khu vực vào thị
trường này được miễn thuế khi
sử dụng nguyên liệu vải và sợi
khu vực.

Vị trí là nguồn cung cho thị trường
Hoa Kỳ trong tưong lai chưa chắc

chắn. Một số công ty cho rằng Thổ

Vật tư- Có nguồn cung cấp nội
địa về bông thô, sợi và vải bông.

Thổ nhĩ kỳ


nhĩ kỳ có thể là một nguồn cung cấp Những ưu đãi đặc biệt- Gần và
hấp dẫn nếu nước này có hiệp định được xuất khẩu miễn thuế vào thị
mậu dịch tự do với Hoa Kỳ. Một số ít trường EU.
công ty cho rằng họ sẽ tiếp tục tăng
đặt hàng từ Thổ nhĩ Kỳ cho dù nước Sản phẩm- Có ngành cơng
này khơng có hiệp định khu vực mậu nghiệp dệt dựa vào bông và
dịch tự do với Hoa Kỳ.
ngành quần áo hướng vào xuất
khẩu lớn; Có khả năng cung ứng
Có thể tiếp tục là một nhà cung cấp hàng quay vịng nhanh và hàng
tồn cầu về vải bơng.
thời trang.
Vận chuyển – Thòi gian vận
chuyền tới thị trường Hoa Kỳ
tương tự như từ Đơng á.
Israel và
Jordan

Israel vẫn có thể tiếp tục là một
nguồn cung cấp ngách (niche) về
hàng quần áo lót và mặc trong nhà.


Lao động- Sản xuất ở Israel tự
động hố cao và chi phí lao động
cao. Chi phí lao động khá thấp ở
Jordan.

Jordan sẽ vẫn là một nhà cung cấp
ngách cho loại quần áo phải chịu mức Những ưu đãi đặc biệt- Theo
thuế nhập khẩu cao của Hoa Kỳ, như Hiệp định thương mại tự do với
là các quần áo sợi tổng hợp. Tuy
Israel, Hoa Kỳ đã lập ra chương
nhiên, việc mua hàng từ Jordan có thể trình “khu công nghiệp được
bị ảnh hưởng bởi kết quả các cuộc
hưởng lợi” với Jordan và Israel.
đàm phán thương mại tự do với các Chương trình này dành ưu đãi
nước ở Tây bán cầu. Nếu hiệp định miễn thuế nhập khẩu vào Hoa Kỳ
thương mại tự do Hoa Kỳ-Trung Mỹ đối với những hàng dệt may đủ
hay Khu vực mậu dịch tự do toàn
tiêu chuẩn hưởng lợi.
Châu Mỹ (FTAA) cho phép nhập
khẩu miễn thuế vào Hoa Kỳ quần áo
được sản xuất ở những nước này
bằng vải trong khu vực hay từ nước
thứ ba thì các cơng ty Hoa Kỳ có thể
chuyển hướng sang mua từ khu vực
này thay cho mua từ các nguồn xa
như Jordan.

Nguồn: Đánh giá của Uỷ ban thương mại quốc tế (ITC) dựa trên kết quả phỏng vấn các đại diện của
các công ty nhập khẩu và bán lẻ quần áo và dệt may Hoa Kỳ, các nhà sản xuất và đầu tư dệt may
nước ngoài, và các quan chức chính phủ nước ngồi.


Trong những tháng đầu năm 2008, nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ giảm
1,8% so với cùng kỳ, từ 11,7 tỷ USD xuống còn 11,5 tỷ USD trong 2 tháng đầu
năm 2008. Nhập khẩu từ Trung quốc trong 2 tháng trên giảm 6,8% xuống còn


3,4 tỷ USD. Tuy nhiên, so với một năm trước, thị phần của Trung Quốc trên thị
trường hàng may mặc nhập khẩu của Mỹ chỉ giảm 1%, vẫn còn chiếm ở mức
cao 32.70%.Nhập khẩu từ Việt nam tăng mạnh tới 45%, đạt 825 triệu và thay
thế Mexico trở thành nhà cung cấp lớn thứ 2 vào thị trường Mỹ. Indonesia, nhà
cung cấp lớn thứ 5 giảm nhẹ 0,1%, còn 683 triệu USD. Mexico giảm 10,2%
xuống còn 616 triệu USD. Nhập khẩu từ Ấn độ, nước đứng thứ 3 trong số các
nhà nhập khẩu vào Hoa kỳ, trong giai đoạn tháng 1-2/2008 tăng 4,1% lên 598
triệu USD. Thái lan và Philippin lần lượt giảm 2,8% và 12,5% xuống còn 295
và 251 triệu USD. Đồng thời, nhập khẩu từ các nước thành viên Asean tăng
8,7% so với cùng kỳ, đạt 2,6 tỷ USD, trong lúc nhập khẩu từ các nước CAFTA
giảm nhẹ 0,1% xuống còn 1,2 tỷ USD trong 2 tháng đầu năm 2008.
4.1.1.2

Thực trạng nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ đối
với hàng dệt may Việt Nam

Trước năm 1994, do ảnh hưởng về mặt chính trị, Mỹ cấm vận Việt Nam,
nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam của Mỹ luôn bằng 0. Năm 1994, lần đầu tiên
Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ với kim ngạch xấp xỉ 3 triệu USD.
Tháng 7/1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận
đối với Việt Nam và chính thức bình thường hố quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.
Với việc bình thường hố quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, lần đầu tiên Việt Nam
có quan hệ với tất cả các nước lớn trên thế giới. Sự kiện này cũng giúp thúc đẩy
nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam ở Mỹ tăng lên 17,5triệu USD trong năm

1995 và tiếp tục tăng lên 23,9 triệu USD và 26,4 triệu USD lần lượt trong các
năm 1996 và 1997.


Nguồn: OTEXA
Hình 2.2: Nhập khẩu quần áo của Mỹ từ Việt Nam tính theo triệu USD,
10 năm (1998-2007)

Tuy nhiên, lượng xuất khẩu sang thị trường Mỹ còn ở mức thấp do khi đó
Việt Nam chưa phải là thành viên WTO cũng chưa ký hiệp định song phương
với Hoa Kỳ, phải chịu mức thuế phi tối huệ quốc. Thuế suất phi tối huệ quốc
nằm trong khoảng từ 20% đến 110%.
Việt Nam chỉ xuất cảng được xấp xỉ 50 triệu đô la Mỹ hàng dệt may vào Hoa
Kỳ vào năm 2001 vì thuế nhập cảng cao. Kể từ khi có Hiệp định thương mại
song phương (BTA) năm 2001, hàng dệt may Việt Nam được hưởng mức thuế
Quan hệ thương mại bình thường (NTR), hay còn gọi là mức thuế Tối huệ quốc
(MFN). Mức thuế tối huệ quốc đối với hàng dệt may nằm trong phạm vi từ dưới
5% đến 15%. Chính nhờ được hưởng mức thuế ưu đãi này mà nhập khẩu hàng
dệt may Việt Nam năm 2002 tăng vọt lên mức 951,72 triệu USD, gấp hơn 19
lần so với năm 2001 và tiếp tục tăng lên mức 2.484,26 triệu USD năm 2003.
Hàng dệt may không được đề cập trong Hiệp Định Thương Mại Việt-Mỹ.
Tuy nhiên, phía Mỹ cho rằng mức nhập khẩu này có khả năng gây rối loạn thị
trường dệt may Mỹ nên đòi hỏi Việt Nam phải thương lượng về hạn ngạch áp
dụng vào hàng dệt may. Vào tháng 4 năm 2003, hai nước đã đạt được một thỏa
hiệp về hàng dệt may. Theo Hiệp định này, trị giá hàng dệt may quản lý bằng


hạn ngạch năm 2003 gồm 25 nhóm hàng và 38 mặt hàng cụ thể sau:
Bảng 2.6: Các mặt hàng dệt may quản lý bằng hạn ngạch
Cat nhóm

hàng
200
301
332
333
334/335
338/339
340/640
341/641
342/642
345
347/348
351/651
352/652
359/659-c
359/659-s
434
435
440
447
448
620
632
638/639
645/646
647/648

Mặt hàng
Chỉ may, sợi để bán lẻ
Sợi, bơng đã chải

Tất chất liệu bơng
Áo khốc nam dạng comple
Áo khốc nam nữ chất liệu bơng
Sơ mi dệt kim nam nữ chất liệu bông
Sơmi nam dệt thoi chất liệu bông và sợi
Sơmi dệt thoi chất liệu bông và sợi nhân tạo
Váy ngắn chất liệu bông và sợi nhân tạo
len chất liệu bơng
Quần nam nữ chất liệu bông
Quần áo ngủ chất liệu bông và sợi nhân tạo
Đồ lót chất liệu bơng và sợi nhân tạo
Quần yếm
Quần áo bơi
khốc nam chất liệu len
Áo khốc nữ chất liệu len
Sơmi nam, nữ chất liệu len
Quần nam chất liệu len
Quần nữ chất len
Vải bằng sợi filamăng tổng hợp khác
Chất liệu sợi nhân tạo
Áo sơmi nam nữ dệt kim chất liệu sợi tơ nhân
tạo
Aó len chất liệu sợi tơ nhân tạo
Quần nam nữ chất liệu sợi nhân tạo

Đơn
vị
Kg
Kg












Kg
Kg





m2



Hạn ngạch
2003
300.000
680.000
1.000.000
36.000
675.000
14.000.000
2.000.000

762.698
554.654
300.000
7.000.000
582.000
1.850.000
325.000
525.00
16.200
40.000
2.500
52.500
32.000
6.364.000
500.000
1.271.000




200.000
1.973.318

Các mức hạn ngạch này sẽ được tăng thêm 7% mỗi năm (2% đối với các sản
phẩm từ len).
Hiệp định sẽ có hiệu lực từ ngày 01/05/2003 đến ngày 31/12/2004. Nếu các
Bên không chấm dứt Hiệp định hoặc đàm phán lại Hiệp định trước ngày
01/12/2004 hoặc trước ngày 01/12 của các năm sau đó cho đến khi Việt Nam
gia nhập WTO, thì Hiệp định này sẽ tự động có hiệu lực thêm một năm nữa.
Các hạn ngạch cụ thể có thể được điều chỉnh (tăng lên) không quá 6% một

năm (bằng cách điều chỉnh các hạn ngạch khác (giảm xuống) để tổng hạn ngạch
khơng thay đổi). Các hạn ngạch cụ thể cũng có thể được điều chỉnh hàng năm
bằng cách Mượn trước (vay một phần hạn ngạch của năm tiếp theo) hoặc



×