Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

(Luận văn thạc sĩ) giải quyết yêu cầu bồi thường tại tòa án theo luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.15 KB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN ĐĂNG HUY

GIẢI QUYẾT YÊU CẦU BỒI THƢỜNG
TẠI TÒA ÁN THEO
LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG
CỦA NHÀ NƢỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN ĐĂNG HUY

GIẢI QUYẾT YÊU CẦU BỒI THƢỜNG
TẠI TÒA ÁN THEO
LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG
CỦA NHÀ NƢỚC

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

Người hướng dẫn khoa học: TS ĐẶNG VŨ HUÂN

Hà Nội – 2020




LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với ng
d n c ng các t
các an
k íc

i

ớng

y giáo cơ giáo đã c ỉ bảo tận tìn ; Xin cảm ơn

c ị bạn bè đồng ng iệp và gia đìn đã động viên k uyến
giúp đỡ đóng góp ý kiến q báu để tác giả ồn t àn bản

luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Đăng Huy


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS

:

Bộ luật Dân sự


BLTTDS

:

Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTHS

:

Bộ luật Tố tụng hình sự

BPKCTT

:

Biện pháp khẩn cấp tạm thời

CHXHCN

:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

KNTC

:

Khiếu nại, tố cáo


NNPQXHCN

:

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

QPPL

:

Quy phạm pháp luật

TAND

:

Tòa án nhân dân

THADS

:

Thi hành án dân sự

TNBTCNN

:

Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước


TTHC

:

Tố tụng hành chính


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1 ........................................................................................................... 7
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT YÊU CẦU ........................ 7
BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC TẠI TÒA ÁN .................................................... 7
1.1.Khái quát về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước .................................. 7
1.1.1. K ái niệm trác n iệm bồi t

ng của N à n ớc .................................. 7

1.1.2. Đặc điểm trác n iệm bồi t

ng của N à n ớc ................................. 12

1.1.3. Cơ quan thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ................. 18
1.2. Pháp luật về giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước tại Tòa án theo
thủ tục tố tụng...................................................................................... 26
1.2.1. K ái niệm giải quyết yêu c u bồi t

ng n à n ớc tại Tòa án t eo

t ủ tục tố tụng...................................................................................... 27
1.2.2. Đặc điểm của giải quyết yêu c u bồi t


ng n à n ớc tại Tòa án

t eo t ủ tục tố tụng .............................................................................. 29
Chương 2 ......................................................................................................... 35
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT YÊU
CẦU BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC TẠI TÒA ÁN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY.......................................................................................... 35
2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước tại
Tòa án theo thủ tục tố tụng ở Việt Nam .............................................. 35
2.1.1. P áp luật về giải quyết yêu c u bồi t

ng n à n ớc tại Tòa án

t eo t ủ tục tố tụng t eo Luật Trác n iệm bồi t

ng của N à

n ớc năm 2009 .................................................................................... 36
2.1.2. P áp luật về giải quyết yêu c u bồi t

ng n à n ớc tại Tòa án

t eo t ủ tục tố tụngt eo quy địn của Luật Trác n iệm bồi t

ng

của N à n ớc năm 2017 ..................................................................... 40
2.2. Thực tiễn giải quyết bồi thường nhà nước tại Tòa án theo thủ tục tố



tụng tại Việt Nam ................................................................................ 44
2.2.1. Kết quả giải quyết bồi t

ng n à n ớc tại Tòa án t eo t ủ tục tố

tụng ...................................................................................................... 44
2.2.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân trong thực tiễn giải quyết yêu cầu
bồi thường nhà nước tại Tòa án theo thủ tục tố tụng .......................... 53
Chương 3 ......................................................................................................... 61
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT
YÊU CẦU BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC TẠI TÒA ÁN Ở VIỆT
NAM.................................................................................................... 61
3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả giải quyết yêu cầu bồi thường Nhà
nước tại Tòa án theo thủ tục tố tụng ................................................... 61
3.1.1. Bảo đảm sự lãn đạo c ỉ đạo của Đảng đối với oạt động giải
quyết yêu c u bồi t

ng n à n ớc tại Tòa án t eo t ủ tục tố tụng .. 61

3.1.2. P ân biệt rõ ràng và tác bạc giữa n óm các giải p áp về t ể c ế
và n óm các giải p áp về tổ c ức t ực iện ....................................... 62
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết yêu cầu bồi thường nhà
nước tại Tòa án theo thủ tục tố tụng ở Việt Nam................................ 62
3.2.1. Nâng cao iệu quả giải quyết bồi t

ng n à n ớc bằng t ủ tục tố

tụng ...................................................................................................... 62
3.2.1. Tiếp tục oàn t iện p áp luật về trác n iệm bồi t


ng của n à

n ớc ..................................................................................................... 64
3.2.2. T ống n ất n ận t ức trong tồn ngàn Tịa án về oạt động giải
quyết bồi t
3.2.3. Tăng c
bồi t

ng n à n ớc t eo t ủ tục tố tụng tại Tịa án................ 67

ng cơng tác tun truyền p ổ biến p áp luật trác n iệm
ng của N à n ớc đến mọi đối t ợng qu n c úng n ân dân . 68

3.2.4. Kiện toàn tổ c ức và biên c ế t ực iện công tác bồi t

ng n à

n ớc trong ngàn Tòa án .................................................................... 69
3.2.5. Tăng c
tác bồi t

ng công tác tập uấn bồi d ỡng kỹ năng ng iệp vụ công
ng n à n ớc c o đội ngũ t ẩm p án ............................... 70


KẾT LUẬN ..................................................................................................... 71
PHỤ LỤC 1: BẢNG RÀ SOÁT CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP
LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG NHÀ
NƯỚC ................................................................................................. 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 75


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân nói chung và
bảo đảm quyền được Nhà nước bồi thường thiệt hại do người thi hành cơng
vụ gây ra nói riêng là một trong những mục tiêu cơ bản và quan trọng trong
tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân cũng như trong quá trình đất nước ta
hội nhập quốc tế.
Ngày 18/6/2009, tại kỳ họp thứ V Quốc hội khóa XII đã thơng qua Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước[38] (Luật TNBTCNN năm 2009),
Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2010. Có thể nói, đây là lần đầu tiên
“trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã được quy định một cách đầy đủ và
toàn diện ở tầm văn bản luật” [62], tr.20]. Trong đó, đã thể chế hóa đường lối,
chủ trương, quan điểm của Đảng về bảo đảm quyền con người, quyền cơng
dân nói chung, quyền được Nhà nước bồi thường thiệt hại do người thi hành
cơng vụ gây ra nói riêng.
Sau hơn 06 năm thi hành, Luật TNBTCNN năm 2009 đã thực sự trở
thành công cụ pháp lý quan trọng để tổ chức, cá nhân bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình, phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật trong thực thi
cơng vụ, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm trong thực thi công vụ của đội
ngũ cán bộ, cơng chức nói riêng cũng như chất lượng hoạt động của bộ máy
nhà nước nói chung. Kết quả thi hành Luật TNBTCNN cho thấy: “từ ngày
01/01/2010 đến ngày 31/12/2015 các cơ quan có trác n iệm bồi t
t ụ lý giải quyết 258 vụ việc yêu c u bồi t

ng đã


ng trong đó đã giải quyết xong

204 vụ việc (đạt tỷ lệ 79%) với tổng số tiền N à n ớc p ải bồi t

ng là 111

tỷ 149 triệu 416 ng ìn đồng”[53], tr.1]. Thực tiễn thi hành cũng cho thấy,


Luật đã đi vào cuộc sống và cơ bản đã đạt được các mục tiêu đề ra, hoàn
thành được vai trị, sứ mệnh của mình trong giai đoạn vừa qua.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Luật TNBTCNN năm 2009 cũng
đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập và những hạn chế, bất cập này đã không chỉ
tác động đáng kể đến quyền được bồi thường của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại
mà còn tác động cả đến hoạt động giải quyết bồi thường của cơ quan giải
quyết bồi thường nói chung cũng như của Tịa án các cấp nói riêng.
Từ thực tiễn đó, ngày 20/6/2017, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV
đã thơng qua Luật TNBTCNN năm 2017, Luật này có hiệu lực từ ngày
01/7/2018. Nghiên cứu Luật này cho thấy, so với Luật TNBTCNN năm 2009,
Luật TNBTCNN năm 2017 đã sửa đổi, bổ sung toàn diện các quy định về
phạm vi TNBTCNN, thiệt hại được bồi thường, cơ quan giải quyết bồi
thường, trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường, trách nhiệm hoàn trả của
người thi hành công vụ gây thiệt hại… Đặc biệt, các quy định liên quan đến
việc giải quyết bồi thường tại Tòa án theo thủ tục tố tụng đã được sửa đổi toàn
diện, triệt để.
Mặc dù Luật TNBTCNN năm 2017 đã có những sửa đổi, bổ sung để
giải quyết những yêu cầu, bất cập phát sinh trong thực tiễn về giải quyết bồi
thường tại Tòa án theo thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, qua theo dõi, nghiên cứu
các quy định của pháp luật TNBTCNN và pháp luật có liên quan cũng như
thực hiện gần 01 năm thi hành Luật vừa qua, nhiều vấn đề hạn chế, bất cập

mới về giải quyết bồi thường tại Tòa án theo thủ tục tố tụng đã phát sinh, đòi
hỏi cần tiếp tục làm rõ để bảo đảm thi hành có hiệu quả chế định TNBTCNN
trên thực tiễn. Với những lý do đó, học viên lựa chọn đề tài “Giải quyết yêu
cầu bồi thường tại Tòa án theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước” làm Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu

2


Vấn đề TNBTCNN nói chung và giải quyết bồi thường tại Tịa án theo
thủ tục tố tụng nói riêng đã được một số tác giả nghiên cứu và đề xuất hoàn
thiện pháp luật tố tụng dân sự cũng như pháp luật về TNBTCNN, có thể kể
đến như:
- Luận văn Thạc sĩ luật học “Hoàn t iện c ế địn k ởi kiện và t ụ lý án
dân sự trong p áp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thu
Hiền, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012[17];
- Luận văn Thạc sĩ luật học “Hồn t iện c ế địn

ịa giải trong p áp

luật tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thúy, Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2014[61];
- Đề tài nghiên cứu cấp bộ năm 2012 của Cục Bồi thường nhà nước, Bộ
Tư pháp -“Các biện p áp bảo đảm t i àn Luật Trác n iệm bồi t

ng của

N à n ớc”[10];
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Một số vấn đề lý luận và t ực tiễn về

trác n iệm bồi t

ng t iệt ại của N à n ớc” của tác giả Lê Thái Phương,

Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2006[58];
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “T ực iện p áp luật về trác n iệm bồi
t

ng của n à n ớc trong t i àn án dân sự ở Việt Nam iện nay” của tác

giả Trần Việt Hưng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm
2014[22];
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “P áp luật của Việt Nam và một số quốc
gia trên t ế giới về trác n iệm bồi t

ng của N à n ớc” của tác giả Hoàng

Xuân Hoan, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013[18];
- Luận văn Thạc sĩ luật học “Trác n iệm bồi t

ng của N à n ớc

trong oạt động T i àn án dân sự” của tác giả Hoàng Tuấn Tú, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015[64];

3


- Luận văn Thạc sĩ luật học “Hoàn t iện p áp luật về Trác n iệm bồi
t


ng của N à n ớc ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hải Hà, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2016[16];
Ngồi ra cịn có nhiều chun đề, bài viết, bài nghiên cứu của một số
tác giả làm công tác xây dựng pháp luật với nội dung đề cập đến nhiều vấn đề
cơ bản phục vụ cho quá trình soạn thảo dự án Luật Trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước (sửa đổi) cũng như trong quá trình triển khai thi hành Luật
TNBTCNN năm 2017 cũng là những tài liệu nghiên cứu quan trọng được tác
giả lựa chọn tham khảo khi thực hiện đề tài nghiên cứu của Luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận về TNBTCNN nói chung,
về giải quyết bồi thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tịa án nói riêng,
đánh giá thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về giải quyết bồi thường
nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tòa án, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước theo thủ tục tố
tụng tại Tòa án.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về TNBTCNN và giải quyết
bồi thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tịa án.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về giải
quyết bồi thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tòa án; chỉ ra những ưu
điểm, hạn chế trong thực tiễn giải quyết bồi thường nhà nước theo thủ tục tố
tụng tại Tòa án và yêu cầu hướng dẫn các quy định mới của Luật TNBTCNN
năm 2017 về vấn đề này.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết yêu cầu bồi
thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tòa án.
4



4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là các vấn đề lý luận và thực
tiễn của pháp luật về giải quyết bồi thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại
Tòa án.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của
pháp luật về giải quyết bồi thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tòa án,
đặc biệt là các quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Luật
TNBTCNN năm 2017. Tuy nhiên, để làm rõ hơn các nội dung nghiên cứu,
luận văn cũng khái quát thực tiễn quá trình thi hành Luật TNBTCNN năm
2009 về vấn đề này.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu khoa học
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin với phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử.
Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, luận văn còn sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phương pháp phân tích, so sánh,
tổng hợp và một số phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp khác..
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về mặt k oa ọc kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng
tỏ phương diện lý luận trong khoa học pháp lý của việc giải quyết bồi thường
nhà nước tại Tòa án theo thủ tục tố tụng. Ngoài ra, những giải pháp hoàn
thiện pháp luật là cơ sở quan trọng để các cơ quan chức năng trong phạm vi,
thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hồn thiện pháp luật trong lĩnh vực
tương ứng.
Về mặt t ực tiễn kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham
khảo hữu ích khơng chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà cịn có giá trị đối
với các cán bộ đang làm cơng tác hoạch định chính sách và xây dựng pháp
5



luật về giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tịa án
nói chung và pháp luật về tố tụng nói riêng ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu 3 chương, cụ thể:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về giải quyết yêu cầu bồi thường nhà
nước tại Tòa án
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết yêu cầu bồi
thường nhà nước tại Tòa án ở Việt Nam
Chƣơng 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết yêu
cầu bồi thường nhà nước tại Tòa án ở Việt Nam

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT YÊU CẦU
BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC TẠI TÒA ÁN
1.1.Khái quát về trách nhiệm bồi thƣờng của Nhà nƣớc
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Trong tiếng Việt, thuật ngữ “trách nhiệm” gần nghĩa với thuật ngữ “nghĩa
vụ”, theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học năm 2003 thì trách nhiệm là
“Phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm trong,
nếu kết quả khơng tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả; hoặc sự ràng buộc đối
với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu
phần hậu quả”[19], tr.1020], nghĩa vụ là “việc mà pháp luật hay đạo đức bắt
buộc phải làm đối với xã hội, đối với người khác” [19], tr.679].
Xét về phương diện pháp lý, trách nhiệm là dạng trách nhiệm phát sinh

trên cơ sở quy định của pháp luật và được bảo đảm thực hiện bằng pháp luật.
Xét về phương diện đạo đức xã hội, trách nhiệm là sự ràng buộc cá nhân, tổ
chức phải thực hiện những nghĩa vụ nghiêng về bổn phận mang tính luân lý,
đạo đức. Ở phương diện này, trách nhiệm của Nhà nước được quan niệm với
triết lý: Nhà nước là đại diện chính thức của tồn xã hội, vì vậy nhà nước có
quyền thay mặt nhân dân chủ động và độc lập quyết định những vấn đề đối
nội và đối ngoại. Đó là quyền lực được nhân dân ủy quyền cho Nhà nước
đồng thời là trách nhiệm của Nhà nước để thực hiện chức năng quản lý nhà
nước, để bảo đảm an ninh, an toàn và phát triển xã hội, bảo đảm quyền tự do
dân chủ của nhân dân.
Trách nhiệm của Nhà nước là khái niệm có phạm vi rộng lớn, nhiều cấp
độ và phức tạp, bởi Nhà nước vốn là một trong những chủ thể chính trị - xã
hội và pháp lý thuộc loại phức tạp nhất. Trách nhiệm của Nhà nước trước hết
bắt nguồn từ khái niệm trách nhiệm trong đời sống xã hội.

7


Như vậy, ở góc độ chung nhất có thể hiểu, trách nhiệm là sự ràng buộc
trong các mối liên hệ giữa con người với nhau, trong đó, các cá nhân, tổ chức
hoặc tổ chức cao nhất của một quốc gia đó là Nhà nước phải thực hiện các nghĩa
vụ đối với người khác hoặc đối với cộng đồng.
Thiệt hại, dưới góc độ ngơn ngữ học, được hiểu là “mất mát, hư hỏng
nặng nề về người và của”[42],tr.1571]. Trong khoa học pháp lý, theo quan
niệm truyền thống thì “thiệt hại” được hiểu là “tổn thất về tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản quyền và lợi ích hợp pháp khác của
cá nhân; tài sản, danh dự, uy tín của pháp nhân hoặc chủ thể khác được pháp
luật bảo vệ”[66],tr.713]. Dưới góc độ luật thực định, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong BLDS năm 1995 được xác định bao gồm: “trách nhiệm bồi
thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần”

(Điều 310). Trong BLDS năm 2005 thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao
gồm: “trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù
đắp tổn thất về tinh thần” (Điều 307). Quy định về căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong BLDS năm 2015 thì xác định: “Người nào
có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”
(Điều 584). Như vậy, theo quan điểm phổ biến hiện nay về thiệt hại thì thiệt
hại bao gồm: thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về tinh
thần bao gồm “tổn thất về danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc suy sụp về tâm lý,
tình cảm của cá nhân” và thiệt hại về vật chất bao gồm “tài sản bị mất, hủy
hoại, bị hư hỏng; chi phí phải bỏ ra để khắc phục, ngăn chặn thiệt hại cùng
những hoa lợi, lợi tức không thu được mà đáng ra thu được”. Tóm lại, thiệt
hại có thể hiểu là sự không nguyên vẹn như trạng thái ban đầu của sự vật sau
khi chịu sự tác động từ bên ngồi. Dưới góc độ ngơn ngữ học, “bồi thường”
được hiểu là việc “đền bù những tổn thất đã gây ra”[42],tr.191]. Với quan
8


niệm thiệt hại là sự không nguyên vẹn như trạng thái ban đầu của sự vật sau
khi chịu sự tác động bên ngồi như đã phân tích ở trên, thì bồi thường thiệt
hại có thể hiểu là trách nhiệm khơi phục lại tình trạng ban đầu của sự vật hiện
tượng; vì vậy, bồi thường thiệt hại là một dạng nghĩa vụ dân sự phát sinh do
gây thiệt hại. Về mặt pháp lý, thiệt hại là những tổn thất về tài sản, tổn thất về
tính mạng, sức khỏe, uy tín, danh dự, nhân phẩm; vì vậy, bồi thường thiệt hại
là sự khôi phục lại những tổn thất trên bằng giá trị vật chất hoặc những cách
thức và tiêu chí do pháp luật quy định.
Trong pháp luật dân sự, bồi thường thiệt hại là việc đền bù những tổn
thất và khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra; vì vậy bồi
thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi

gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về
vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Khi xem xét chủ thể
trong quan hệ bồi thường thiệt hại thì Nhà nước với tư cách là một chủ thể
đặc biệt, hoạt động với mục tiêu là phải bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp
của người dân; khi Nhà nước thực hiện quyền lực công (thông qua các hành
vi thi hành công vụ của đội ngũ công chức) mà gây thiệt hại cho các tổ chức,
cá nhân cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Hiện nay, có khá nhiều khái niệm về TNBTCNN được nhiều tác giả
đưa ra dưới những góc độ tiếp cận khác nhau, cụ thể là:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, “TNBTCNN là hậu quả pháp lý bất lợi
về vật chất và tinh thần mà Nhà nước phải gánh chịu do cơng chức cơ quan
hành chính nhà nước thực hiện trái pháp luật trong thi hành công vụ, gây thiệt
hại vật chất, tinh thần cho cá nhân, tổ chức”[24].
Quan điểm thứ hai cho rằng, “TNBTCNN là trách nhiệm khôi phục
những tổn thất về tài sản, bù đắp những tổn thất về tinh thần, uy tín, danh dự
khi người thi hành công vụ gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân trong q
trình thực thi quyền lực cơng”[22],tr.12] hoặc “TNBTCNN là trách nhiệm
9


pháp lý mà theo đó, Nhà nước phải bồi thường những thiệt hại về vật chất và
bù đắp tổn hại về tinh thần khi người thi hành cơng vụ có hành vi trái pháp
luật làm gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân trong quá trình thực thi quyền
lực cơng”[44] hoặc “TNBTCNN là trách nhiệm pháp lý trong đó Nhà nước có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành
công vụ gây ra trong một số lĩnh vực hoạt động của Nhà nước”[46].
Quan điểm thứ ba cho rằng, “TNBTCNN là tổng thể các quy định của
pháp luật và biện pháp thi hành để thực hiện trách nhiệm của Nhà nước nhằm
khắc phục những hậu quả bất lợi về vật chất, tinh thần mà người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng đã gây ra do xâm phạm quyền tư pháp bằng cách bù

đắp, đền bù những tổn thất về vật chất, tinh thần và khơi phục danh dự, uy tín,
nhân phẩm cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự” [71] hoặc
“TNBTCNN là việc Nhà nước thực hiện thủ tục do pháp luật quy định để
khôi phục, bù đắp những tổn thất tài sản, bù đắp những tổn thất tinh thần khi
cán bộ, cơng chức có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại về tài sản, tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; tài sản, uy tín của tổ chức trong
khi thi hành công vụ”[63], tr.30].
Quan điểm thứ tư cho rằng, “TNBTCNN là hệ thống quy tắc xử sự
chung thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể
hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, do các CQNN có thẩm quyền ban hành
và bảo đảm thực hiện trên nguyên tắc thỏa thuận, bình đẳng, nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện TNBTCNN, xử lý trách
nhiệm của người thi hành công vụ và hoạt động quản lý nhà nước về công tác
bồi thường”[23].
Quan điểm thứ năm cho rằng, TNBTCNN là một dạng trách nhiệm dân
sự nhưng theo nguyên tắc thay thế, theo đó, TNBTCNN là một dạng trách
nhiệm dân sự thay thế, tức là, TNBTCNN “được hiểu là trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước cho những thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây
10


ra”[65],tr.94]. Quan điểm này cho rằng, TNBTCNN là trách nhiệm của cá
nhân người thi hành cơng vụ nhưng vì người thi hành công vụ nhân danh Nhà
nước trong thực thi công vụ nên Nhà nước sẽ chịu trách nhiệm bồi thường
thay cho người thi hành cơng vụ. Cùng dưới góc độ này là quan điểm cho
rằng, TNBTCNN là trách nhiệm trực tiếp của Nhà nước mà không phải là
trách nhiệm thay thế cho trách nhiệm của người thi hành công vụ. Quan điểm
này dựa trên lập luận cho rằng “hành vi của người thi hành công vụ được coi
là hành vi của Nhà nước, vì vậy, nếu người thi hành cơng vụ có hành vi gây
thiệt hại thì được coi là Nhà nước gây thiệt hại và đương nhiên Nhà nước có

trách nhiệm bồi thường”[46],tr.13].
Quan điểm thứ sáu cho rằng “TNBTCNN là dạng trách nhiệm dân sự
của Nhà nước mà trách nhiệm này khơng thể phát sinh nếu khơng có sự đồng
ý, chấp nhận của chính Nhà nước hay nói cách khác, về nguyên tắc, Nhà nước
không thể bị kiện bởi các cá nhân, tổ chức”[65],tr.131].
Như vậy, các khái niệm về TNBTCNN đưa ra ở trên dưới mỗi một góc
độ tiếp cận khác nhau đều chỉ ra những khía cạnh hợp lý để nhận diện vấn đề
TNBTCNN. Tuy nhiên, ở mỗi quan điểm, khái niệm đưa ra thì có thể
TNBTCNN được đề cập đến nhiều khía cạnh nhưng trong mỗi khái niệm thì
lại chỉ có một khía cạnh chính. Chính vì vậy, nếu chỉ nhận diện được một khía
cạnh chính thì khó có thể giải quyết triệt để được vấn đề là điều chỉnh một
cách hài hịa và tồn diện việc thực hiện TNBTCNN
Từ việc nghiên cứu những quan điểm về TNBTCNN nêu trên, xem xét
một cách toàn diện nhất, tác giả đưa ra khái niệm về TNBTCNN như sau:
“TNBTCNN là trách nhiệm khôi phục những tổn thất về tài sản, bù đắp những
tổn thất về tinh thần, uy tín, danh dự khi cán bộ, cơng chức nhà nước có hành vi
trái pháp luật trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tài sản, uy tín của tổ chức, quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể khác”.
11


1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Để hiểu rõ TNBTCNN có đặc trưng gì cần hiểu rõ, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nói chung có những đặc điểm như thế nào, theo đó tác giả
nêu nên một số đắc điểm chung của trách nhiệm bồi thường dân sự nói chung
sau đây:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có bản c ất pháp lý là một loại trách
nhiệm dân sự, chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại thể hiện, khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì họ

phải bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại được quy định là một quan hệ
tài sản do pháp luật dân sự quy định và điều chỉnh.
Về điều kiện p át sin , trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra khi
thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi
phạm nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng), có mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của
người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc). Đây là những điều
kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải bồi thường
những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt
trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể phát sinh khi khơng có đủ các điều
kiện trên điển hình là các trường hợp bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra.
Về ậu quả, trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn mang đến một hậu
quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn
thất cho người khác thì tổn thất đó phải tính tốn được bằng một khoản tiền
cụ thể hoặc phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định
là cơ sở để tính toán, do lường được nhằm phục vụ cho việc thực hiện được
việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù khơng thể tính
tốn được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật dân sự
để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Chính vì vậy, thực hiện trách

12


nhiệm bồi thường thiệt hại là việc làm của cơ quan, người có thẩm quyền giúp
khơi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.
Về c ủ t ể c ịu trác n iệm bồi t

ng t iệt ại nói c ung, ngồi

người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại

cịn được áp dụng cả đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người
chưa thành niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với
người của pháp nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc
tổ chức khác như cơ sở dạy nghề…được pháp luật dân sự quy định tương ứng
với những hành vi của chủ thể.
Nghiên cứu TNBTCNN cho thấy, TNBTCNN cũng là một loại trách
nhiệm pháp lý, do đó, ngồi những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói
chung như do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật và việc áp dụng đó ln mang đến hậu
quả bất lợi cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế
của Nhà nước…Theo đó, TNBTCNN phát sinh khi cán bộ, cơng chức có
hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại trong khi thi hành công vụ trong một số
lĩnh vực hoạt động của Nhà nước trong điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong
quan hệ giữa đại diện của Nhà nước với cá nhân, tổ chức trong xã hội nhằm
bảo đảm trật tự chung của xã hội. Theo nguyên tắc bồi thường thiệt hại thơng
thường thì người gây thiệt hại phải tự gánh chịu, buộc phải gánh chịu trách
nhiệm đã gây ra và phải bồi thường. Tuy nhiên, đối với TNBTCNN có đặc
điểm tương đồng như trách nhiệm của pháp nhân đối với hành vi trái pháp
luật gây ra thiệt hại do người của pháp nhân gây ra, nhưng ở đây là Nhà nước.
Nhà nước có bộ máy quyền lực, bộ máy quản lý thực hiện các biện pháp quản
lý, công cụ là pháp luật, công chức làm việc nhân danh Nhà nước mà vi phạm
pháp luật thì Nhà nước sẽ đứng ra thực hiện trách nhiệm bồi thường cho
người bị thiệt hại, sau đó cán bộ, cơng chức đã gây ra thiệt hại đó sẽ phải có
13


trách nhiệm hoàn trả khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường. Tuy vậy, mức
độ hoàn trả khoản tiền Nhà nước đã bồi thường có thể khơng bằng khoản tiền
nhà nước đã bỏ ra, điều này phụ thuộc vào mức độ thực hiện hành vi trái pháp

luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại theo quy định của pháp luật. Nói
đến TNBTCNN phải gắn với thiệt hại xảy ra phải thuộc phạm vi TNBTCNN
là thiệt hại đó được gây ra bởi hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức
trong khi thi hành công vụ. Từ việc nghiên cứu nhứng đặc điểm chung của
trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, có thể nhận thấy, TNBTCNN cịn
có những đặc điểm riêng sau đây:
1.1.2.1. Trác n iệm bồi t
về bồi t

ng của N à n ớc là trác n iệm dân sự

ng t iệt ại ngoài ợp đồng.

Pháp luật Việt Nam kể từ BLDS 1995 đến nay đều quy định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra là quan hệ pháp
luật dân sự.
Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật thì có thể mang một
trong hai tư cách, một là, tư cách như một chủ thể thông thường, trong những
quan hệ pháp luật mà Nhà nước tham gia với tư cách là một chủ thể thông
thường để thực hiện một số nội dung thỏa thuận với các chủ thể khác sẽ được
thực hiện bằng các hợp đồng và được điều chỉnh bởi các quy định về giao
dịch dân sự nói chung và các quy định về hợp đồng nói riêng; hai là, tư cách
của chủ thể của quyền lực cơng, theo đó, những quan hệ pháp luật mà Nhà
nước tham gia với tư cách là chủ thể mang quyền lực công không phải là
những quan hệ hợp đồng. Những quan hệ pháp luật mà Nhà nước tham gia và
nhân danh quyền lực công phải là những quan hệ pháp luật có liên quan đến
việc thực hiện những hoạt động thuộc về chức năng chính của Nhà nước.
Trong q trình thực hiện những hoạt động này mà Nhà nước gây thiệt hại
cho các cá nhân, tổ chức thì Nhà nước sẽ phải bồi thường. Việc bồi thường
không phải do vi phạm các nghĩa vụ về hợp đồng, chính vì vậy trách nhiệm

14


bồi thường của Nhà nước đối với các thiệt hại gây ra bởi hoạt động công
quyền là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1.1.2.2. Trác n iệm bồi t

ng của N à n ớc là trác n iệm kép.

TNBTCNN như đã khẳng định là một loại trách nhiệm dân sự. Theo
đó, TNBTCNN khơng chỉ là trách nhiệm bồi thường về tài sản mà cịn là
trách nhiệm khơi phục lại những tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.
Như vậy, trách nhiệm này bao gồm trách nhiệm về tài sản (trong trường hợp
tài sản bị thiệt hại) và trách nhiệm khôi phục những tổn thất về tinh thần
(trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm).
1.1.2.3.Trác n iệm bồi t

ng của N à n ớc có đặc điểm riêng đó là

yếu tố “cơng vụ” trong mối quan ệ N à n ớc và bên bị t iệt ại.
Chế định pháp luật về TNBTCNN chỉ điều chỉnh trường hợp Nhà nước
gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật cho cá nhân, tổ chức khi cán bộ, công
chúc làm việc nhân danh nhà nước, bằng quyền lực công - tức là Nhà nước sẽ
chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp gây ra thiệt hại khi công chức
thực thi công vụ. Tuy nhiên, việc hiểu như thế nào về khái niệm “cơng vụ” có
ý nghĩa quan trọng vì đây là một trong những yếu tố quyết định việc có phát
sinh hay khơng TNBTCNN. Tác giải đưa ra và so sánh khái niệm công vụ với
khái niệm công việc để thấy được điểm riêng của TNBTCNN. Theo đó, “cơng
vụ” có gì khác với “cơng việc” trong chế định trách nhiệm bồi thường của
pháp nhân đối với những thiệt hại gây ra khi thực hiện “công việc” của pháp

nhân? Xét ở góc độ xã hội hóa hoạt động quản lý nhà nước, theo đó có nhiều
tổ chức (không phải là các cơ quan, tổ chức của Nhà nước) trong xã hội được
Nhà nước giao một số nhiệm vụ quản lý nhất định thì liệu những hành vi này
có được coi là cơng vụ hay khơng? Có học giả đã khẳng định rằng, cần phải
coi những hành vi mang tính chất hành vi cơng quyền do các cơ quan và tổ
chức không phải là bộ phận hữu cơ của bộ máy nhà nước nếu gây thiệt hại thì
cũng phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước.
15


Xét trên phạm vi hoạt động của Nhà nước có thể phân hoạt động của
Nhà nước trên ba lĩnh vực: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nếu lấy tiêu chí
có thực hiện hay khơng chức năng chính của Nhà nước thì có thể chia hoạt
động của Nhà nước thành: hoạt động trực tiếp hoặc nhằm thực hiện chức năng
chính của Nhà nước; hoạt động kinh tế (thông qua hoạt động đầu tư của Nhà
nước vào các doanh nghiệp nhà nước); các hoạt động dân sự khác (như hoạt
động mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ việc thực hiện
chức năng chính của Nhà nước). Trong những loại hoạt động trên thì chỉ có
nhóm hoạt động thứ nhất, Nhà nước thực hiện với tư là chủ thể mang quyền
lực công (thông qua đội ngũ cán bộ, cơng chức). Đối với những hoạt động
cịn lại Nhà nước tham gia với tư cách là một chủ thể bình đẳng với chủ thể
bên kia của quan hệ pháp luật, vì vậy, như đã khẳng định: trong những mối
quan hệ bình đẳng này thì pháp luật tư sẽ điều chỉnh mà không cần một chế
định đặc biệt điều chỉnh.
“Công vụ” cũng có sự khác biệt nhất định so với “công việc” trong chế
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của pháp nhân. Trong
chế định này pháp nhân phải bồi thường cho mọi thiệt hại gây ra khi thực hiện
các công việc của pháp nhân, mà những công việc này không nhất thiết phải
thuộc về chức năng hoạt động chính của pháp nhân.
“Cơng vụ”, hay nói một cách đầy đủ là hành vi công quyền, là những

hành vi trực tiếp hoặc nhằm thực hiện chức năng chính của Nhà nước là chức
năng quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, đồng thời thực hiện chức năng tổ
chức phục vụ các nhu cầu chung của xã hội khơng vì mục đích lợi nhuận.
Hoạt động cơng vụ do những người có trách nhiệm nhân danh Nhà nước thực
hiện theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi
ích của nhân dân và xã hội. Chỉ những hành vi nào trực tiếp hoặc nhằm thực
hiện chức năng quản lý của Nhà nước mới được coi là công vụ. Như vậy, đối

16


với những hành vi không nhằm thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước thì
khơng được coi là cơng vụ [58],tr.34-35].
1.1.2.4. C ủ t ể trong quan ệ trác n iệm bồi t

ng của N à n ớc

ln có một bên là N à n ớc
Các bên trong quan hệ về TNBTCNN luôn luôn bao gồm bên gây thiệt
hại - Nhà nước và bên bị thiệt hại là các cá nhân, tổ chức, chủ thể khác; trong
đó Nhà nước luôn luôn là một bên trong quan hệ về TNBTCNN. Việc pháp
luật về TNBTCNN quy định trực tiếp trách nhiệm bồi thường thuộc về một cơ
quan đại diện chung hay trách nhiệm thuộc về từng cơ quan cụ thể thuộc về
chính sách pháp lý của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, chúng ta cần phải khẳng
định rằng một bên chủ thể có trách nhiệm ln ln là Nhà nước; cơ quan
thực hiện trách nhiệm bồi thường khơng nhân danh mình mà nhân danh Nhà
nước thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như nhân danh Nhà
nước khi thực hiện công vụ. Từ đó có thể hiểu rằng cán bộ cơng chức có thể
khơng hồn tồn phải gánh chịu tồn bộ thiệt hại mà mình đã gây ra ngay cả
khi đã thực hiện hành vi trái pháp luật, bởi khi hành động công chức thực hiện

nhân danh nhà nước.
1.1.2.5. K ác t ể trong quan ệ trác n iệm bồi t

ng của N à n ớc

là k ác t ể kép
Trong các quan hệ pháp luật, khách thể là lợi ích vật chất hoặc tinh
thần mà các chủ thể pháp luật mong muốn đạt được khi tham gia các quan
hệ pháp luật. Trong quan hệ pháp luật dân sự, khách thể là đối tượng mà các
chủ thể quan tâm, hướng tới, nhằm đạt tới hoặc tác động vào khi tham gia
quan hệ pháp luật dân sự. Trên thực tế, khi hoạt động cơng quyền gây ra
thiệt hại, thì đó là những thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần của các cá
nhân, tổ chức; tuy nhiên có một thiệt hại mà khơng thể đo, đếm được là lịng
tin của người dân vào hiệu quả hoạt động cũng như uy tín của Nhà nước.
Chính vì vậy, khách thể trong trường hợp này là quyền, lợi ích hợp pháp của
17


cơng dân và lợi ích, uy tín của Nhà nước vì “khi xảy ra bất kỳ một vụ oan,
sai thì khơng chỉ có cơng dân là người duy nhất bị thiệt hại mà luôn kéo theo
những tổn thất của Nhà nước. Một mặt, Nhà nước phải bồi thường vật chất,
tinh thần cho người bị oan. Mặt khác, thiệt hại của Nhà nước tưởng chừng
như vơ hình nhưng hậu quả trên thực tế vẫn có thể dễ dàng nhận thấy được.
Đó là sự giảm sút uy tín của Nhà nước, là sự xói mịn lịng tin của nhân dân
đối với Nhà nước”[2],tr.60].
1.1.3. Cơ quan thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Liên quan đến việc bảo đảm quyền được bồi thường nhà nước, qua
nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của một số quốc gia, vùng lãnh thổ trên
thế giới thì cơ quan thực hiện TNBTCNN được quy định khá đa dạng, trong
đó, bao gồm những loại cơ quan chủ yếu sau đây: “T ứ n ất, cơ quan thực

hiện việc giải quyết bồi thường (GQBT) đối với yêu cầu bồi thường
(YCBT); T ứ ai, cơ quan thực hiện việc xác định tính hợp pháp hoặc bất
hợp pháp của hành vi gây thiệt hại của người thi hành công vụ để các cá
nhân, tổ chức bị thiệt hại làm căn cứ thực hiện quyền YCBT; T ứ ba, cơ
quan đại diện Nhà nước trong các vụ việc cá nhân, tổ chức bị thiệt hại
YCBT; T ứ t , cơ quan kiểm soát việc thực hiện TNBTCNN” [59],tr.186194].
1.1.3.1. Cơ quan t ực iện việc giải quyết bồi t
Một là, cơ quan trực tiếp quản lý ng
là cơ quan t ực iện việc giải quyết bồi t

ng

i t i àn công vụ gây t iệt ại
ng

Trong số các nước có Luật về TNBTCNN thì đa số các nước đều quy
định Tịa án là cơ quan thực hiện giải quyết bồi thường. Chỉ một số ít nước
quy định cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại là cơ
quan thực hiện việc giải quyết bồi thường. Ngoài Luật TNBTCNN 1980 của
Đài Loan, Luật TNBTCNN 1994 của Trung Quốc (State Compensation Law
1994) cũng quy định cơ quan quản lý hành chính hoặc cơ quan tiến hành tố
18


×