Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

(Luận văn thạc sĩ) kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm trong luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 89 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƢƠNG MAI ANH

KH¸NG C¸O, KHáNG NGHị PHúC THẩM
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƢƠNG MAI ANH

KH¸NG C¸O, KHáNG NGHị PHúC THẩM
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN NGỌC CHÍ

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Dƣơng Mai Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG CÁO, KHÁNG
NGHỊ PHÚC THẨM .................................................................................... 6
1.1.

Khái niệm và ý nghĩa của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm ....... 6

1.1.1. Khái niệm kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm ...................................... 7
1.1.2. Ý nghĩa của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm ................................. 14
1.2.


Đối tƣợng, nội dung, thủ tục của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm .... 15

1.2.1. Đối tƣợng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.............................. 16
1.2.2. Nội dung của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm ............................... 18
1.2.3. Thủ tục của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm .................................. 19
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 21
Chƣơng 2: KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................................... 22
2.1.

Kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm từ năm 1945 đến nay ............ 22

2.2.

Kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm trong pháp luật hiện
hành (BLTTHS 2003)....................................................................... 26

2.2.1. Kháng cáo phúc thẩm ......................................................................... 26
2.2.2. Kháng nghị phúc thẩm ....................................................................... 32
2.2.3. Bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị và hệ quả của việc
kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hình sự ......................................... 47
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 50


Chƣơng 3: THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN,
THỰC THI PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KHÁNG
CÁO, KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM.....................................................51
3.1.

Thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2003 về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm ........................... 51

3.1.1. Thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 về kháng cáo phúc thẩm ............................................................ 51
3.1.2. Thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 về kháng nghị phúc thẩm .......................................................... 54
3.2.

Giải pháp hoàn thiện, thực thi pháp luật về tố tụng hình sự
về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm thơng qua việc so sánh
những điểm mới của BLTTHS 2015 so với BLTTHS 2003 ......... 60

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật .......................................................................... 60
3.2.2. Một số giải pháp bảo đảm thực thi qui định về kháng cáo, kháng
nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự ................................................ 69
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 75
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 79


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kháng cáo, kháng nghị là một chế định quan trọng trong luật tố tụng
hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định, Viện kiểm sát, bị
cáo, những ngƣời tham gia tố tụng có quyền và lợi ích pháp lý liên quan đến
vụ án và những ngƣời khác theo quy định của pháp luật có quyền kháng cáo,
kháng nghị những bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chƣa có
hiệu lực pháp luật. Đây là cơ sở pháp lý cho Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại
vụ án, qua đó kịp thời phát hiện và khắc phục những sai lầm, thiếu sót của

Tịa án cấp dƣới cả về nội dung cũng nhƣ hình thức tố tụng, đảm bảo sự công
bằng của pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, tổ chức xã hội, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơng dân.
Đặc trƣng của xét xử hình sự là có thể đƣa đến hậu quả bất lợi cho bị
cáo, buộc bị cáo phải chịu hậu quả và các biện pháp tƣ pháp khác. Vì vậy,
Bản án hay quyết định của Tòa án khi xét xử phải đảm bảo chính xác, đúng
ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, không phải trong mọi trƣờng hợp
ngay từ đầu phán quyết của Tòa án đã đảm bảo đƣợc yêu cầu này. Do đó,
pháp luật quy định việc xét xử phải đƣợc thực hiện ở các cấp khác nhau nhằm
đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời đã khắc phục đƣợc một số
vƣớng mắc, thiếu sót của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Tuy nhiên, vẫn
cịn những điểm chƣa đầy đủ, hoàn thiện trong quy định của pháp luật về
kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm cùng với việc hƣớng dẫn, giải thích của các
cơ quan có thẩm quyền chƣa rõ ràng, đầy đủ dẫn đến trong thực tiễn xét xử
của Tòa án các cấp còn nhiều sai phạm. Nhiều trƣờng hợp các sai phạm của
Tòa án cấp dƣới không đƣợc khắc phục kịp thời, không bảo vệ đƣợc quyền và

1


lợi ích hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng, làm giảm uy tín của Tịa án và
làm cho mục đích của xét xử phúc thẩm khơng đạt đƣợc.
Trong giai đoạn hiện nay, khi Đảng và Nhà nƣớc ta đang tiến hành xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, một nhà nƣớc đƣợc xây dựng
trên nền tảng các tƣ tƣởng pháp lý tiến bộ của nhân loại nhƣ: công bằng, nhân
đạo, dân chủ và pháp chế nhằm đảm bảo thực sự những giá trị xã hội đƣợc
thừa nhận chung của nền văn minh thế giới – sự tôn trọng và bảo vệ các
quyền tự do của con ngƣời, sự ngự trị của pháp luật trong các lĩnh vực sinh
hoạt của đời sống xã hội, tính tối cao của luật trong các lĩnh vực hoạt động

của Nhà nƣớc, sự phân công quyền lực (lập pháp, hành pháp và tƣ pháp) và
chủ quyền của nhân dân [2, tr.31]. Đồng thời chúng ta đang đẩy nhanh tiến
trình cải cách tƣ pháp theo tinh thần Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6/2005
của Bộ chính trị nhằm xây dựng nền tƣ pháp vững mạnh, dân chủ, công bằng
và nghiêm minh theo hƣớng ngày càng chú trọng hơn đến lợi ích của cá nhân
và chống làm oan ngƣời vơ tội thì việc nghiên cứu các chế định về kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có ý nghĩa rất quan trọng.
Từ những ý nghĩa cấp thiết nêu trên, cùng với mong muốn nghiên cứu
của bản thân nên em đã chọn đề tài: “Kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có một số cơng trình nghiên cứu, bài viết về những vấn đề liên quan
đến kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong q trình giải quyết
vụ án hình sự. Cụ thể có thể kể đến các cơng trình nhƣ: “Thủ tục xét xử các vụ
án hình sự: xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm” của tác giả
Đinh Văn Quế; “Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự” của tác
giả Đào Trí Úc; “Kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Tú;

2


“Hiệu lực của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong Tố tụng
hình sự Việt Nam” của tác giả Mai Thanh Hiếu,… Một số giáo trình giảng dạy
ở các trƣờng Đại học chuyên ngành ( Đại học Luật, Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội, Học viện An ninh,…) cũng đề cập đến vấn đề này.
Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu, bài viết cũng nhƣ tƣ liệu giảng
dạy chƣa đi sâu nghiên cứu về lý luận cũng nhƣ thực tiễn công tác kháng
cáo, kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam. Mặt khác, nhƣ
đã trình bày ở trên, pháp luật điều chỉnh hoạt động kháng cáo, kháng nghị

phúc thẩm còn nhiều điểm chƣa đáp ứng đƣợc với thực tiễn áp dụng, cần đi
sâu và làm rõ hơn. Vì vậy nên việc nghiên cứu, tìm hiểu về chế định này là
cần thiết và hữu ích.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là trên cơ sở lý luận và thực tiễn,
luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, luận văn phải giải quyết những nhiệm
vụ sau đây:
+ Phân tích khái niệm và ý nghĩa cùng với đối tƣợng, nội dung, thủ tục
của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
+ Làm rõ và đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành về
kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
+ Phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành hoạt động kháng cáo, kháng
nghị phúc thẩm, làm rõ những vƣớng mắc trong quy định của pháp luật,
những tồn tại trong thực tiễn áp dụng và nguyên nhân của những vƣớng mắc,
tồn tại đó. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp có cơ sở lý luận và thực
tiễn nhằm hồn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt động kháng cáo,
kháng nghị phúc thẩm trên thực tế.

3


4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề chung về kháng
cáo, kháng nghị phúc thẩm. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt
Nam và luật tố tụng hình sự một số nƣớc trên thế giới về kháng cáo, kháng
nghị phúc thẩm. Thực tiễn thi hành quyền kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
trong những năm gần đây.
Kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là một chế định rộng và phức tạp

liên quan đến nhiều chế định khác trong pháp luật tố tụng hình sự. Bởi vậy,
trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn thạc sĩ, không thể xem xét và giải
quyết mọi vấn đề một cách toàn diện và sâu sắc. Do đó, em chỉ tập trung trình
bày những nội dung cơ bản của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm nhƣ: đối
tƣợng, nội dung, thủ tục, vấn đề thay đổi bổ sung kháng cáo, kháng nghị…
đối với bản án sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm
trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này đƣợc tiến hành trên cơ sở phƣơng pháp luận
Mác-Lênin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật, các quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, cải cách và
hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu nhƣ: phân tích, tổng hợp, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp lý
luận kết hợp thực tiễn, phƣơng pháp lịch sử.
6. Điểm mới của đề tài
Kết quả của đề tài khơng phải là tài liệu có tính chất hàn lâm hoặc
chuyên khảo mà chủ yếu là nghiên cứu, phân tích chế định kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm một cách có hệ thống trên cơ sở lý luận
và thực tiễn, nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng cơng tác kháng cáo,
kháng nghị phúc thẩm hình sự, đồng thời hồn thiện hệ thống pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam.
4


7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm có 3 chƣơng nhƣ sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
Chương 2: Kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam

Chương 3: Thực tiễn thi hành và giải pháp hồn thiện, thực thi pháp
luật tố tụng hình sự về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

5


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG CÁO,
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
Trong khoa học luật Tố tụng hình sự Việt Nam, thuật ngữ “kháng cáo”
đƣợc phân biệt với thuật ngữ “kháng nghị” kể từ sau khi ban hành Luật tổ
chức tòa án nhân dân năm 1960. Trƣớc đó, thuật ngữ “chống án” hoặc “kháng
cáo” đƣợc sử dụng chung đối với cả đƣơng sự, biện lí và chƣởng lí. Sự phân
biệt đó thể hiện địa vị pháp lý khác nhau giữa chủ thể của quyền kháng cáo và
chủ thể của quyền kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam (một
bên là bị cáo và các đƣơng sự - ngƣời tham gia tố tụng hình sự và một bên là
Viện kiểm sát – cơ quan tiến hành tố tụng hình sự) [8, tr.28]. Trong khi đó,
luật Tố tụng hình sự của nhiều nƣớc trên thế giới chỉ sử dụng một thuật ngữ,
ví dụ “appel” trong tiếng Pháp hay “appreal” trong tiếng Anh [51, tr.614], thể
hiện địa vị pháp lý bình đẳng của các bên trƣớc Tịa cấp phúc thẩm. Tuy
nhiên, sự phân biệt “kháng cáo” và “kháng nghị” là hợp lý, vì hai hành vi này
có ý nghĩa khác nhau, tuy đƣa đến kết quả giống nhau là vụ án đƣợc đƣa lên
cấp trên xét xử lại [37, tr.31].
Kháng cáo, kháng nghị là sự kiện pháp lý, nghĩa là “sự kiện thực tế
mà sự xuất hiện hay mất đi của chúng đƣợc pháp luật gắn với việc phát sinh,
thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật” [40, tr.160]. Trong phân loại sự
kiện pháp lý theo tiêu chuẩn ý chí, kháng cáo kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm là hành vi pháp lý, tức là sự kiện xảy ra theo ý chí của chủ thể kháng
cáo, kháng nghị dƣới dạng hành động. Dƣới đây, xem xét kháng cáo, kháng

nghị theo tiêu chí này:

6


1.1.1. Khái niệm kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
1.1.1.1. Khái niệm kháng cáo
Theo Từ điển Tiếng Việt, “kháng cáo là chống án lên Tòa án cấp trên
yêu cầu xét xử lại” [49, tr.492]. Khái niệm trên chỉ nêu một cách chung
chung, cho ta một khái niệm khái quát và mang tính hình thức mà chƣa đề cập
đến những vấn đề cơ bản của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm nhƣ: chủ thể,
đối tƣợng… Theo cách định nghĩa này thì khái niệm “kháng cáo” đồng nghĩa
với “chống án” mà trƣớc đây một số ngƣời thƣờng dùng. Pháp luật Tố tụng
hình sự nƣớc ta hiện nay không dùng thuật ngữ này mà thống nhất dùng thuật
ngữ “kháng cáo”.
Sự hình thành và phát triển của quyền kháng cáo trong tố tụng hình sự
gắn liền với sự hình thành và phát triển các tƣ tƣởng, các nguyên tắc dân chủ
và tiến bộ của tố tụng hình sự nhƣ cơng bằng; nhân đạo; suy đoán vụ tội; bảo
đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, xét xử công khai, trực tiếp và bằng lời
nói v.v... Quyền kháng cáo hiểu theo đúng nghĩa của nó khơng tồn tại trong tố
tụng hình sự của những chế độ xã hội khơng có nền dân chủ, khơng tôn trọng
quyền con ngƣời [28]. Bởi vậy, trong chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ và chế độ
xã hội phong kiến, bị cáo cũng nhƣ ngƣời bị hại không có quyền phản đối
phán quyết của Tồ án. Bản chất dân chủ và tiến bộ là một trong những thuộc
tính quan trọng của hệ thống tƣ pháp hình sự hiện đại.
Sự ra đời của quyền kháng cáo trong tố tụng hình sự là nhu cầu tất yếu
khách quan xuất phát từ bản chất của tố tụng hình sự là bảo vệ ngày càng có
hiệu quả hơn quyền con ngƣời trong lĩnh vực hoạt động đặc thù - tố tụng hình
sự. Quyền kháng cáo là biểu hiện của dân chủ và tiến bộ, bảo đảm pháp lý
cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân trong tố tụng hình sự.

Cơng bằng là một trong những ngun tắc rƣờng cột của lĩnh vực áp dụng
pháp luật hình sự. Cơng bằng chỉ có khi hình phạt đƣợc quyết định đối với

7


ngƣời phạm tội tƣơng xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm đã thực hiện, với các đặc điểm của nhân thân ngƣời phạm tội, với
các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, với dƣ luận xã hội, với ý thức pháp luật.
Đồng thời chỉ có cơng bằng khi trong những điều kiện và hồn cảnh phạm tội
giống nhau thì ngƣời phạm tội phải bị kết án và xử phạt nhƣ nhau. Thế nhƣng,
những địi hỏi đó của cơng bằng trong xét xử khơng phải lúc nào cũng đạt
đƣợc do nhiều nguyên nhân nhƣ khơng có sự thống nhất giữa các thành viên
trong Hội đồng xét xử, giữa các Toà án trong việc nhận thức và áp dụng pháp
luật, đặc biệt là, khi cần áp dụng các quy định mang tính chất đánh giá hoặc
mang tính chất tuỳ nghi... Việc quy định và tiến hành thủ tục phúc thẩm, xét
đến cùng là đảm bảo công lý, công bằng xã hội, nhân đạo, quyền con nguời
trong tố tụng hình sự.
Sự ra đời của quyền kháng cáo còn xuất phát từ quan niệm đúng đắn của
các nhà lập pháp cho rằng, nhờ xét xử phúc thẩm các vụ án khi kháng cáo,
kháng nghị phúc thẩm Toà án cấp trên trực tiếp sẽ hạn chế đƣợc những sai sót
về xét xử của các Thẩm phán Tịa sơ thẩm cấp dƣới trực tiếp. Toà án cấp
trên trực tiếp làm đƣợc điều đó bởi Tồ án có những Thẩm phán giỏi hơn, có
kinh nghiệm xét xử đúng và cơng bằng hơn. Đồng thời, do Toà án cấp trên ở xa
các đƣơng sự nên không chịu sự ảnh hƣởng từ phía địa phƣơng.
Nhƣ vậy, sự ra đời của quyền kháng cáo là một nhu cầu tất yếu khách
quan của xã hội lồi ngƣời phát triển đến một trình độ nhất định, gắn liền với
sự hình thành và phát triển của các tƣ tƣởng về nguyên tắc dân chủ và tiến bộ
của tố tụng hình sự [28].
Kháng cáo phúc thẩm hình sự là một quyền năng tố tụng cơ bản đƣợc

pháp luật tố tụng hình sự quy định cho bị cáo và những ngƣời tham gia tố
tụng khác, khái niệm này đƣợc nhiều nhà lý luận và thực tiễn quan tâm, đồng
thời đƣa ra những quan niệm khác nhau.

8


Trong cuốn “Từ điển giải thích luật học” của Trƣờng Đại học Luật Hà
Nội có đƣa ra khái niệm kháng cáo “Ngƣời tham gia tố tụng có quyền và lợi
ích trong vụ án yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án hoặc quyết
định sơ thẩm” [39, tr.182]. Khái niệm trên đã nêu đƣợc đối tƣợng, chủ thể,
mục đích của kháng cáo nhƣng chƣa chỉ rõ đƣợc đối tƣợng là bản án có hiệu
lực hay chƣa có hiệu lực pháp luật nên định nghĩa này cũng chƣa đầy đủ.
Tác giả Đinh Văn Quế trong cuốn “Thủ tục phúc thẩm trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam” đã đƣa ra khái niệm “Kháng cáo là biểu thị sự bất
đồng của mình đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu
cầu tòa án cấp trên xét xử lại” [20, tr.8]. Đây là một khái niệm khá đầy đủ đã
nêu đƣợc chủ thể, đối tƣợng và Tịa án, nhƣng chƣa chính xác ở điểm “tòa án
cấp trên”. Theo Điều 230 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì chỉ có “Tịa án cấp
trên trực tiếp” mới có quyền xét xử lại bản án, quyết định theo thủ tục phúc
thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Mặt khác, định
nghĩa trên đã nêu đƣợc đối tƣợng của kháng cáo nhƣng chƣa chỉ rõ đối tƣợng
của kháng cáo phúc thẩm.
Nhìn chung, các khái niệm nêu trên đều chƣa đƣa ra đƣợc một khái
niệm chính xác về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. Theo em, để có đƣợc
khái niệm đầy đủ và hoàn chỉnh về kháng cáo, chúng ta cần làm rõ những
vấn đề sau:
Thứ nhất, đối tƣợng của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là các bản
án, quyết định của Tịa án cấp sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật. Trong thời
hạn luật định (hoặc ngoài thời hạn luật định nhƣng có lý do chính đáng), nếu

bản án hoặc quyết định bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì
Tịa án cấp trên của Tịa án đã xét xử sơ thẩm phải xét xử lại bản án theo thủ
tục phúc thẩm.
Thứ hai, chủ thể có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là những

9


ngƣời tham gia tố tụng, nhƣng không phải tất cả ngƣời tham gia tố tụng đều
có quyền kháng cáo mà chỉ những ngƣời đƣợc pháp luật quy định cụ thể mới
có quyền kháng cáo. Chủ thể của quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm có
thể là những ngƣời có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, bản án và quyết
định của Tòa án đã ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Chủ
thể của quyền kháng cáo cịn có thể là những ngƣời khơng có quyền và lợi
ích pháp lý liên quan đến vụ án nhƣng họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền
lợi cho những ngƣời khác. Đó là ngƣời mà họ đại diện hợp pháp hoặc là
ngƣời họ nhận bào chữa, bảo vệ quyền lợi trong trƣờng hợp những ngƣời
này chƣa thành niên hoặc có nhƣợc điểm về thể chất, tâm thần. Do bản án,
quyết định của Tịa án có ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp
của họ hoặc của ngƣời mà họ đại diện, bảo vệ nên pháp luật quy định cho họ
quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định chƣa có
hiệu lực pháp luật của Tịa án cấp sơ thẩm, để họ bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
Thứ ba, mục đích của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng. Khi xét xử Tòa án
phải tuân theo pháp luật từ việc đánh giá chứng cứ đến việc đƣa ra bản án,
quyết định. Nhƣng vì nhiều lý do khác nhau mà bản án có thể khơng đúng
pháp luật, khơng đảm bảo sự chính xác. Pháp luật quy định quyền kháng cáo
phúc thẩm để Tòa án cấp trên trực tiếp phải xem xét lại bản án, quyết định
sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật có sai sót, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng, tạo cho công dân niềm tin vào sự công
minh của pháp luật. Trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị và trong thời gian
xét xử phúc thẩm, bản án sơ thẩm chƣa đƣợc đƣa ra thi hành. Cho nên, khi
xét xử phúc thẩm bản án hoặc quyết định đó cịn có thể đƣợc sửa theo hƣớng
có lợi cho ngƣời tham gia tố tụng. Mặt khác, nếu họ bị xử oan sai ở giai

10


đoạn sơ thẩm thì sẽ đƣợc sửa sai, minh oan và trả tự do ngay sau khi Hội
đồng xét xử phúc thẩm tuyên án. Hay nếu bị cáo bị xử quá nhẹ so với hành
vi phạm tội của mình thì sẽ phải chịu hình phạt thích đáng và tƣơng ứng với
thiệt hại mà mình gây ra.
Tóm lại, có thể khái quát khái niệm kháng cáo nhƣ sau:
Kháng cáo phúc thẩm hình sự là phƣơng thức thực hiện
quyền của bị cáo và những ngƣời tham gia tố tụng khác theo quy
định của pháp luật đƣợc tiến hành trong thời hạn và theo thủ tục
luật định, yêu cầu tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc
xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đó chƣa
có hiệu lực pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của họ hoặc
của ngƣời khác [8, tr.29].
1.1.1.2. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm
Từ điển Luật học nêu định nghĩa về kháng nghị nói chung trong đó có
kháng nghị phúc thẩm nhƣ sau: kháng nghị là việc ngƣời có thẩm quyền bằng
văn bản của mình gửi đến Tịa án có thẩm quyền làm ngƣng hiệu lực phán
quyết của Tòa án trong bản án, quyết định để xét xử theo thủ tục phúc thẩm,
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm làm cho vụ án đƣợc chính xác, khách
quan và đúng pháp luật [4, tr.249]. Cách định nghĩa này rất khái quát, đã nêu
đƣợc chủ thể, đối tƣợng, thủ tục nhƣng cịn thiếu sót. Ví dụ nhƣ trong thời
gian kháng nghị phúc thẩm, bản án hoặc quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực

pháp luật. Vì vậy, kháng nghị khơng thể làm “ngƣng” hiệu lực của bản án,
quyết định sơ thẩm (Điều 240 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003). Ngoài ra, khái
niệm chƣa nêu đƣợc chủ thể của quyền kháng nghị là Viện kiểm sát.
Theo “Từ điển giải thích Luật học” của Trƣờng đại học Luật Hà Nội thì
kháng nghị là việc “ngƣời có thẩm quyền u cầu Tịa án xét lại bản án, quyết
định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm” [39, tr.183].

11


Khái niệm trên đã nêu đƣợc đối tƣợng, chủ thể nhƣng chƣa nêu rõ chủ thể
nào có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, chủ thể nào có quyền
xét kháng nghị.
Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là
mét văn bản do Viện kiểm sát ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử
lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dƣới trực tiếp đã xét xử
nhƣng xét thấy không đúng pháp luật” [20, tr.40]. Định nghĩa đã nêu đƣợc
hình thức, thẩm quyền, chủ thể của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Nhƣng tác giả chỉ mới đi sâu vào hình thức, mà chƣa nêu đƣợc bản chất của
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là nhằm sửa chữa những sai lầm của Tòa
án cấp sơ thẩm sao cho đúng. Mặt khác, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm cả trong trƣờng hợp bản án hoặc quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm thiếu căn cứ, không phản ánh đúng sự thật khách quan chứ
khơng chỉ có quyền kháng nghị duy nhất đối với bản án, quyết định “khơng
đúng pháp luật”.
Phân tích những khái niệm nêu trên, em thấy rằng khái niệm kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm phải nêu đƣợc một số vấn đề nhƣ sau:
Thứ nhất, về chủ thể của kháng nghị là Viện kiểm sát nhân dân, ở đây
là Viện kiểm sát cùng cấp và Viện Kiểm sát cấp trên trực tiếp của Tòa án đã
xét xử sơ thẩm. Chủ thể của quyền kháng nghị phúc thẩm khác với quyền

kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị phúc thẩm. Còn kháng nghị giám
đốc thẩm và tái thẩm chỉ dành cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp (từ cấp
tỉnh trở lên) và một số chủ thể khác.
Thứ hai, đối tƣợng kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm còn là bản án
quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định khi đã có

12


hiệu lực pháp luật thì khơng phải là đối tƣợng kháng cáo, kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm mà là đối tƣợng của kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Thứ ba, pháp luật quy định cho Viện kiểm sát quyền đồng thời là
nhiệm vô kháng nghị phúc thẩm nhằm mục đích để Viện kiểm sát thực hiện
chức năng kiểm sát việc xét xử và thực hành quyền công tố, đảm bảo vụ án
đƣợc giải quyết đúng đắn, khách quan và công bằng. Chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật đảm bảo cho hoạt động tố tụng hợp pháp, khách quan, đầy
đủ, tƣơng hỗ cho chức năng thực hành quyền công tố làm sáng tỏ sự thật
khách quan của vụ án, xử lý đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Quy định
quyền kháng cáo, kháng nghị theo phúc thẩm cịn nhằm mục đích sửa chữa và
khắc phục những sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm. Đây là điều mà những
ngƣời thực hiện quyền kháng cáo, Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị
và chính Tịa án các cấp hƣớng tới.
Thứ tư, thời hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đƣợc quy định khác
nhau cho hai chủ thể có quyền kháng nghị. Điều này khác với kháng nghị
giám đốc thẩm và tái thẩm, thời hạn đƣợc quy định giống nhau cho tất cả các
chủ thể thực hiện quyền kháng nghị. Thời hạn kháng nghị cũng đƣợc quy
định khác với thời hạn kháng cáo, thời hạn kháng cáo đƣợc quy định chung
cho tất cả các chủ thể có quyền kháng cáo.
Thứ năm, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm phải đƣợc thể hiện theo

hình thức luật định, Viện kiểm sát khi ban hành kháng nghị phải thể hiện dƣới
dạng văn bản. Điều này khác với kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, ngƣời có
quyền kháng cáo có thể kháng cáo thơng qua văn bản (đơn kháng cáo) hoặc
trình bày trực tiếp bằng miệng.
Từ đó có thể định nghĩa nhƣ sau:
Kháng nghị phúc thẩm hình sự là phƣơng thức thực hiện
quyền và nghĩa vụ của Viện kiểm sát nhân dân thể hiện bằng văn

13


bản pháp lý đƣợc tiến hành trong thời hạn và theo thủ tục luật định,
yêu cầu tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết
định sơ thẩm mà bản án, quyết định chƣa có hiệu lực pháp luật đó
khơng đảm bảo tính có căn cứ và tính hợp pháp nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích của Nhà nƣớc, tổ chức và cá nhân [8, tr.29].
1.1.2. Ý nghĩa của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
Ngày nay, dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội đang trở thành xu
hƣớng tất yếu của các quốc gia, vì vậy, quyền đƣợc kháng cáo, kháng nghị
trong tố tụng hình sự ngày càng đuợc hồn thiện và trở thành một trong
những hình thức, phƣơng tiện bảo đảm và bảo vệ có hiệu quả quyền con
ngƣời trong tố tụng hình sự. Tựu trung lại, quyền kháng cáo, kháng nghị có ý
nghĩa vô cùng quan trọng thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, xét xử là hoạt động trung tâm của quá trình giải quyết vụ án
hình sự, thể hiện bản chất của nền tƣ pháp quốc gia nên việc bảo vệ quyền
con ngƣời đƣợc thể hiện tập trung nhất trong hoạt động xét xử của tòa án [3,
tr.76]. Trong đó quyền kháng cáo là một trong những phƣơng tiện hữu hiệu để
bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là của bị cáo
trong tố tụng hình sự. Thơng qua việc xét xử các vụ án do công dân thực hiện
quyền kháng cáo, Tịa án cấp phúc thẩm góp phần đảm bảo nhận thức và áp

dụng thống nhất pháp luật, nâng cao chất lƣợng xét xử, tăng cƣờng hiệu quả
giáo dục pháp luật và củng cố niềm tin vào công lý, công bằng xã hội cho
nhân dân, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Thực hiện một xã hội
công bằng, dân chủ văn minh; đảm bảo đƣợc các quyền cơ bản của công dân,
không để xảy ra các trƣờng hợp oan sai hay bỏ lọt tội phạm.
Hai là, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm có ý nghĩa quan trọng cả
về mặt pháp lý, chính trị và xã hội. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là
một trong những quyền năng pháp lý quan trọng, thơng qua đó Viện kiểm

14


sát đồng thời thực hiện hai chức năng là quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tƣ pháp.
Ba là, quyền kháng cáo, kháng nghị tạo ra một trong những điều kiện
làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án cấp trên trực tiếp đối với bản án,
quyết định chƣa có hiệu lực pháp luật của Tịa án dƣới trực tiếp. Thơng qua
việc xét xử phúc thẩm, Tịa án cấp trên trực tiếp khơng chỉ kiểm tra tính hợp
pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp
luật mà cịn phát hiện, khắc phục kịp thời các thiếu sót, sai lầm về xét xử của
Tòa án cấp dƣới.
Bốn là, việc quy định kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hình sự trong
tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền. Nhằm góp phần quan trọng vào thực thi pháp luật xã
hội chủ nghĩa, đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, tính pháp chế Xã hội
chủ nghĩa, khơng ngừng đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Năm là, kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hình sự cịn có một ý nghĩa
pháp lý quan trọng khác là cơ sở để ghi nhận cũng nhƣ đảm bảo thực hiện một
số nguyên tắc cơ bản của luật Tố tụng hình sự, nó là cơ sở để hình thành
ngun tắc “Thực hiện chế độ hai cấp xét xử”. Để vụ án hình sự có thể đƣợc

xét xử lại một lần nữa ở cấp phúc thẩm; nhằm giải quyết đúng đắn, kịp thời
vụ án, bảo đảm lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức và cơng dân.
1.2. Đối tƣợng, nội dung, thủ tục của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
Bản án và quyết định sơ thẩm có thể đƣợc xem xét lại theo thủ tục phúc
thẩm trên cơ sở nguyên tắc hai cấp xét xử mà luật quốc tế về nhân quyền và
luật các quốc gia quy định. Tuy nhiên, không phải bất kỳ bản án, quyết định
sơ thẩm nào cũng đƣợc xét xử phúc thẩm mà chỉ khi bản án, quyết định sơ
thẩm có kháng cáo, kháng nghị. Nói cách khác thủ tục phúc thẩm chỉ đƣợc

15


tiến hành khi có cơ sở là kháng cáo, kháng nghị, và cũng chỉ xem xét trong
phạm vi kháng cáo, kháng nghị chứ không phải giải quyết tất cả các nội dung
của bản án, quyết định sơ thẩm.
Nghiên cứu luật Tố tụng hình sự cho thấy những vấn đề cần đề cập
sau đây:
1.2.1. Đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
Về nguyên tắc có thể kháng cáo, kháng nghị tất cả các nội dung của bản
án và quyết định sơ thẩm. Ngoài bản án, là kết quả của hoạt động tố tụng của
tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác, thì các quyết định khác của tịa án
nhƣ: quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình
chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo… cũng đƣợc quyền kháng cáo kháng nghị.
Đối tƣợng kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là bản án của Tòa án cấp
sơ thẩm đƣợc luật Tố tụng hình sự các quốc gia quy định tƣơng đối rõ ràng.
Về cơ bản bản án hình sự sơ thẩm là văn bản tố tụng đánh dấu sự kết thúc của
quá trình điều tra, truy tố và xét xử, khẳng định bị cáo có phạm tội hay khơng
phạm tội và nếu phạm tội thì phạm tội gì, theo điểm, khoản, điều nào của Bộ
luật hình sự, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo và Hội

đồng xét xử về giải quyết vụ án. Nếu bị cáo khơng phạm tội thì bản án phải
chỉ rõ những căn cứ xác định bị cáo không phạm tội, đồng thời quyết định
việc khơi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
Tuy nhiên, đối với việc xác định quyết định nào của Tòa sơ thẩm là đối
tƣợng để kháng cáo, kháng nghị thì cịn khá nhiều ý kiến. Khơng phải mọi
quyết định của Tịa án cấp sơ thẩm đều là đối tƣợng của kháng cáo, kháng nghị.
Về hình thức, quyết định là đối tƣợng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
phải là quyết định sơ thẩm, nghĩa là có khả năng đƣợc xem xét lại theo thủ tục
phúc thẩm. Về nội dung, quyết định là đối tƣợng của kháng cáo, kháng nghị
phúc thẩm phải là những quyết định giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm.

16


Những quyết định hành chính tƣ pháp nhằm đảm bảo hoạt động đúng đắn của
trình tự phúc thẩm, khơng “định đoạt việc giải quyết vụ án” [17, tr.27] thì
khơng phải là đối tƣợng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị là “quyết định tạm đình
chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị
cáo, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và quy ết định khác của
Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định của Bộ luật này”. Trong giai đoạn sơ thẩm,
Tịa án có quyền ra nhiều loại quyết định nhƣ: quyết định xử lý vật chứng;
quyết định khởi tố vụ án hình sự; quyết định chuyển vụ án; quyết định trả hồ
sơ điều tra bổ sung; quyết định thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn,…
Trong số các quyết định của Tịa án sơ thẩm ln tồn tại một số quyết định
mà vì tính chất đặc thù nên việc thi hành là khơng thể trì hỗn, kể cả trong
trƣờng hợp bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Đồng thời những bản án, quyết định sơ thẩm là đối tƣợng của kháng
cáo, kháng nghị phúc thẩm khi chƣa có hiệu lực pháp luật, có nghĩa đây là
những bản án, quyết định chƣa phát sinh hiệu lực thi hành, thời hạn kháng

cáo, kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định đó vẫn cịn. Nhƣ vậy,
cũng có nghĩa là bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật khơng
cịn là đối tƣợng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, trừ trƣờng hợp có lí
do chính đáng, chúng chỉ có thể là đối tƣợng của kháng nghị theo thủ tục đặc
biệt nhƣ tái thẩm, giám đốc thẩm.
Luật tố tụng hình sự các nƣớc có quy định cụ thể về thời hạn cần để
thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc
thẩm là khoảng thời gian cần thiết quy định của pháp luật để chủ thể của
quyền kháng cáo, kháng nghị thực hiện việc kháng cáo kháng nghi. Thời hạn
kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm tính từ thời điểm bắt đầu đến thời điểm kết
thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

17


Sự kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị có hậu quả tƣớc bỏ quyền
kháng cáo, kháng nghị của các chủ thể, làm cho bản án, quyết định sơ thẩm có
hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật Tố tụng hình sự một số nƣớc có quy
định về kháng cáo quá hạn. Vì vậy, kháng cáo, kháng nghị quá hạn là kháng
cáo, kháng nghị vơ hiệu, trừ trƣờng hợp có lí do chính đáng và đƣợc Tịa án
cấp phúc thẩm chấp nhận.
Một số quyết đinh sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật nhƣng vẫn thuộc
đối tƣợng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm chẳng hạn nhƣ ở Việt Nam
trong trƣờng hợp quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 2003:
Trƣờng hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tịa án cấp sơ thẩm quyết định
đình chỉ vụ án, tun bị cáo khơng có tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn
hình phạt cho bị cáo, hình phạt khơng phải là hình phạt tự hoặc phạt tự nhƣng
cho hƣởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tự bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã
tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án đƣợc thi hành ngay, mặc dù
vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị [24, Điều 255, Khoản 2].

1.2.2. Nội dung của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
1.2.2.1. Nội dung của kháng cáo
Các chủ thể kháng cáo phúc thẩm chỉ đƣợc kháng cáo trong phạm vi
liên quan đến quyền lợi, trách nhiệm của mình hoặc quyền lợi, trách nhiệm
của chủ thể mà mình đại diện hay bảo vệ.
Bị cáo và ngƣời đại diện hợp pháp của bị cáo có quyền kháng cáo tồn
bộ hoặc một phần bản án của tịa án cấp sơ thẩm có liên quan đến mình nếu
thấy bản án đó chƣa hợp lý. Ngồi ra bị cáo cũng có quyền kháng cáo đối với
quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án của tòa án. Trƣờng hợp bị cáo là
ngƣời chƣa thành niên hoặc ngƣời có nhƣợc điểm về thể chất, tâm thần thì
ngƣời bào chữa, ngƣời đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án
hoặc quyết định sơ thẩm để bảo vệ lợi ích cho họ.

18


Ngƣời bị hại và ngƣời đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo
bản án, quyết định của tịa án về phần hình phạt cũng nhƣ phần bồi thƣờng.
Nếu ngƣời bị hại là ngƣời chƣa thành niên hoặc ngƣời có nhƣợc điểm về thể
chất, tâm thần thì ngƣời đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án
hoặc quyết định sơ thẩm để bảo vệ lợi ích cho họ.
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời đại diện hợp pháp của họ
hoặc ngƣời bảo vệ quyền lợi của họ đƣợc ủy quyền có quyền kháng cáo phần
bản án liên quan tới việc bồi thƣờng thiệt hại.
Ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tới vụ án, ngƣời đại diện hợp
pháp của họ, ngƣời bảo vệ quyền lợi của họ đƣợc ủy quyền có quyền kháng
cáo phần bản án liên quan tới quyền và nghĩa vụ của họ.
1.2.2.2. Nội dung của kháng nghị
Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền
kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định sơ thẩm khi phát hiện ra những sai

lầm, thiếu sót của bản án. Quyền kháng nghị của Viện kiểm sát xuất phát từ
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự
và chức năng giữ quyền cơng tố tại phiên tịa. Viện kiểm sát có thể kháng
nghị toàn bộ hoặc một phần bản án hoặc quyết định đối với tất cả bị cáo và
những ngƣời tham gia tố tụng khác hay với chỉ một số ngƣời theo hƣớng tăng
nặng hoặc giảm nhẹ hình phạt, tặng nặng hoặc giảm nhẹ mức bồi thƣờng.
1.2.3. Thủ tục của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
Ngƣời kháng cáo có thể gửi đơn kháng cáo đến tòa án đã xét xử sơ
thẩm hoặc tịa án cấp phúc thẩm, trong đơn nói rõ lý do và yêu cầu kháng cáo.
Trong trƣờng hợp bị cáo bị tạm giam, ban giám thị trại tạm giam phải tiếp
nhận và gửi ngay đơn kháng cáo của bị cáo đến tòa án đã xét xử sơ thẩm. Nếu
kháng cáo bằng miệng, tòa án đã xét xử sơ thẩm phải lập biên bản về việc
kháng cáo đó.

19


Viện kiểm sát kháng nghị bằng văn bản và phải nêu rõ lý do kháng
nghị. Kháng nghị phải đƣợc gửi đến tòa án đã xét xử sơ thẩm.
Để khắc phục những trƣờng hợp bất khả kháng làm cho ngƣời có quyền
kháng cáo không thực hiện đƣợc quyền kháng cáo trong thời hạn luật định thì
luật tố tụng hình sự một số nƣớc có quy định về việc kháng cáo quá hạn nếu
có lý do chính đáng có thể đƣợc tịa án cấp phúc thẩm chấp nhận.
Trong luật tố tụng hình sự của một số nƣớc có quy định về việc bổ
sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị trƣớc khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa
phúc thẩm nhằm bảo vệ quyền lợi của ngƣời tham gia tố tụng.
Những phần của bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng
nghị thì chƣa đƣợc đƣa ra thi hành; bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng
cáo, kháng nghị toàn bộ thì tồn bộ bản án hoặc quyết định đó chƣa có hiệu
lực pháp luật và khơng đƣợc đƣa ra thi hành. Đối với phạm vi xét xử phúc

thẩm thì về nguyên tắc, Tòa phúc thẩm chỉ xem xét phần nội dung của bản án,
quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu bản án bị kháng cáo, kháng nghị
toàn bộ thì Tịa án cấp phúc thẩm xem xét lại tồn bộ vụ án; nếu bản án bị
kháng cáo, kháng nghị một phần thì Tịa án cấp phúc thẩm xem xét lại phần bị
kháng cáo, kháng nghị đó. Đối với các phần khơng bị kháng cáo, kháng nghị,
Tịa cấp phúc thẩm chỉ xem xét khi thấy cần giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
hoặc hình phạt cho bị cáo.

20


×