Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

(Luận văn thạc sĩ) người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần theo pháp luật ở việt nam 07

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ BÍCH THÙY

ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ BÍCH THÙY

ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số
: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Anh Tuấn

HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tác giả

Vũ Thị Bích Thùy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẠI DIỆN
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN…………………………………..............
1.1. Khái quát những lý luận cơ bản về pháp nhân..……...…………..

Trang
1

1.1.1. Khái niệm pháp nhân……………………………………..

9
9
9

1.1.2. Cơ sở triết học về vấn đề đại diện của pháp nhân……….

12

1.1.3. Căn cứ xác lập tư cách đại diện của pháp nhân theo pháp

luật Việt Nam………………………………………….…. 13
1.1.4. Phạm vi thẩm quyền của đại diện theo pháp luật của pháp
nhân.......................................................................................
1.2. Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam..............
1.3. Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần tại một số quốc gia...
1.3.1. Pháp luật của Thái Lan……………………………………
1.3.2. Pháp luật của Pháp………………………………………
1.3.3. Pháp luật của Nhật Bản………………………………….
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1…………………………………………….....

16
18
22
22
23
25
28

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ
PHẦN Ở VIỆT NAM………………………………………………….
29
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đại diện theo pháp luật của 29
công ty cổ phần……………………………………..…………..
2.1.1. Các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn……………………... 29
2.1.2. Quy định về chức danh……………………………………. 32
2.1.3. Quy định về phạm vi thẩm quyền………………………….. 34
2.1.4. Quy định về trách nhiệm của đại diện theo pháp luật…….. 40
2.1.5. Các quy định về xác lập và thay đổi đại diện theo pháp 42
luật………………………………………………………..

2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về đại diện theo pháp luật của công
ty cổ phần……………………………………………………...
46
2.2.1. Thực trạng áp dụng quy định về xác lập, thay đổi đại diện 46


theo pháp luật……………………………………………..
2.2.2. Thực trạng áp dụng quy định về thẩm quyền của đại diện
theo pháp luật……………………………………………
2.2.3. Thực trạng áp dụng quy định về đại diện cơng ty tham gia
góp vốn vào doanh nghiệp khác………………..………….
2.2.4. Thực trạng áp dụng quy định về ủy quyền của đại diện theo
pháp luật…………………………………………………..
2.3. Những nguyên nhân dẫn đến bất cập về vấn đề đại diện theo
pháp luật của công ty cổ phần…………….……………………
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2……………………………………………....
Chƣơng 3. HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN CỦA
CƠNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM………………………………….
3.1. Những cơ sở định hướng hồn thiện……………..………….……
3.1.1. Địi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay………
3.1.2. Những yêu cầu đặt ra cho q trình hội nhập kinh tế hiện
nay…
3.1.3. Địi hỏi của sự thực hiện đường lối của Đảng ……………
3.1.4. Địi hỏi sự hồn thiện chế định đại diện …………………
3.2. Các giải pháp hoàn thiện ……………………………………….
3.2.1. Giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan………
3.2.2. Giải pháp thi hành và áp dụng pháp luật……………….
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3……………………………………………….
KẾT LUẬN……………………………………………………………...
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………


49
51
52
56
60
61
61
61
62
63
64
65
65
72
74
75
76


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay đang trên con đường phát triển
và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Các nhà hoạch định chính
sách đang dần gỡ bỏ các rào cản của quy định pháp luật, thủ tục hành
chính, thuế quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để thu hút cho các nhà
đầu tư nước ngoài phát triển kinh tế. Trước những làn sóng đầu tư mạnh
mẽ của các nhà đầu tư nước ngoài như hiện nay, thì các doanh nghiệp trong
nước mà chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ đang phải đối mặt với sự
cạnh tranh mang tính sống cịn với các tập đồn đa quốc gia trên thế giới,

nhất là khi Việt Nam đang là thành viên của tổ chức thương mại quốc tế
WTO và tham gia Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP. Nhiệm
vụ đặt ra là nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước và hoàn thiện hệ thống
pháp luật sẽ là một điều kiện then chốt, một đòi hỏi bắt buộc để phát triển
nền kinh tế hiện nay.
Trong hệ thống các chủ thể quan hệ pháp luật, ngoài thể nhân – con
người cụ thể cịn có các thực thể pháp lý khác có tư cách chủ thể giống như
con người được gọi là pháp nhân. Các pháp nhân tham gia tích cực và là chủ
thể chủ yếu trong các hoạt động kinh tế, hoạt động quản lý của nhà nước trên
cơ sở nhà nước tôn trọng quyền tự do ý chí, tự do lập hội của cơng dân. Cơng
ty cổ phần là một loại hình pháp nhân, với những ưu điểm vượt trội về địa vị
pháp lý, mô hình tổ chức, chế độ vốn góp nên đã được nhiều nhà đầu tư ưu
tiên lựa chọn.
Luật doanh nghiệp năm 2005 ra đời thay thế Luật doanh nghiệp năm
1999 đã góp phần hồn thiện khung pháp lý các mơ hình tổ chức và hoạt động
của công ty cổ phần và đồng thời, tiếp cận và tuân thủ các nguyên tắc quản trị

1


công ty đang được áp dụng trên thế giới đã phần nào đáp ứng được nhu cầu
đòi hỏi của nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cịn tồn tại những chế định
chưa được quy định rõ ràng, thiếu nhất quán, mà nổi cộm nhất có lẽ là quy
định về người đại diện theo pháp luật. Từ những tồn tại của pháp luật dẫn đến
hệ quả là việc áp dụng pháp luật khơng đúng, khơng thống nhất, đồng thời
gây khó khăn cho chính các cơ quan nhà nước và ảnh hưởng đến quyền tự do
kinh doanh.
Các vấn đề pháp lý liên quan đến người đại diện theo pháp luật trong
các loại hình cơng ty nói chung, trong cơng ty cổ phần nói riêng hiện nay
đang nảy sinh những bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo giữa luật chung và luật

chuyên ngành. Như các vấn đề xác lập, thay đổi, chấm dứt tư cách người đại
diện theo pháp luật, phạm vi đại diện, sự phân định trách nhiệm của người đại
diện và của công ty đối với bên thứ ba, vấn đề đại diện đương nhiên, đại diện
ủy quyền.
Trong khi giới khoa học pháp lý vẫn còn đặt ra các câu hỏi tranh luận
trên nhiều diễn đàn về các vấn đề dường như cơ bản của chế định đại diện, thế
nhưng các nhà làm luật chưa có sự quan tâm thoả đáng và đặc biệt là thực tiễn
áp dụng pháp luật chưa có sự thống nhất, tuỳ thuộc theo nhận thức của những
người, cơ quan áp dụng pháp luật theo một cách khác nhau, ảnh hưởng đến
các quyền lợi hợp pháp của cơng dân.
Với mục đích tiếp cận chế định về người đại diện theo pháp luật của công
ty cổ phần trên cơ sở nền tảng lý luận và hoạt động áp dụng trong thực tiễn đời
sống để nêu ra những bất cập, tồn tại làm cơ sở cho các định hướng hoàn thiện
chế định quan trọng của pháp luật doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Vì vậy, tác
giả đã lựa chọn đề tài: “Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt
Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình với mong muốn góp phần
nhỏ bé vào hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp ở nước ta.

2


2. Tình hình nghiên cứu
Khi nghiên cứu các vấn đề về pháp nhân, các cơng trình nghiên cứu đã
đưa ra các học thuyết, tư tưởng ngay từ khi nước ta cịn là thuộc địa của thực
dân Pháp, mơ hình pháp nhân đã được các thương gia người Pháp du nhập, và
áp dụng trong hoạt động của mình tại các thuộc địa. Tiêu biểu là các tác giả
như: Vũ Văn Mẫu (1957), Dân luật khái luận, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản;
Lê Tài Triển (1959), Luật Thương mại toát yếu, Bộ quốc gia giáo dục xuất
bản. Các nghiên cứu đã đưa ra các học thuyết pháp nhân, tìm ra các đặc tính
thuộc về bản chất của pháp nhân.

Gần đây, có các bài nghiên cứu, TS Ngô Huy Cương (2001), Pháp
nhân, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 01, năm 2001; Nguyễn Ngọc BíchNguyễn Đình Cung (2008), Cơng ty: vốn, quản lý và tranh chấp, NXB Trí
Thức 2008; Lê Việt Anh (2008), Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 113, tháng 1/2008; TS Phạm Hồng Hải
(1999), Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay khơng?, tạp chí Luật
học số 6 năm 1999; GS.TS Hồ Trọng Ngũ (2009), vấn đề tội phạm có tổ
chức và trách nhiệm hình sự pháp nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm
1999, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 143 ngày tháng 03/2009. Các cơng
trình nghiên cứu này, đã phần nào làm rõ những vấn đề cơ bản của pháp
nhân, và những bất cập trong các quy định liên quan đến pháp nhân và các
mơ hình cơng ty của bộ luật dân sự và luật doanh nghiệp, so sánh các quy
định của các nước và những định hướng hồn thiện.
Các nghiên cứu về mơ hình cơng ty cổ phần và chế định đại diện của
cơng ty cổ phần đã góp phần làm rõ những vấn đề pháp lý cơ bản, cơ cấu tổ
chức nội bộ và vấn đề liên quan đến người đại diện theo pháp luật của cơng ty
cổ phần. Có thể kể đến các cơng trình như:
Tác giả Ngơ Viễn Phú trong luận án tiến sĩ của mình với đề tài “So
sánh quản lý công ty cổ phần theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

3


Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” đề cập đến người đại diện theo pháp
luật công ty và đưa ra quan điểm ai nên là người đại diện theo pháp luật trong
công ty cổ phần. Tuy nhiên, tác giả vẫn chưa làm sáng tỏ các vấn đề thuộc về
bản chất, những tồn tại trong pháp luật về chế định người đại diện theo pháp
luật trong công ty mà chỉ đề cập vấn đề người đại diện theo pháp luật là rất
quan trọng liên quan đến cán cân quyền lực trong cơng ty cổ phần.
Bên cạnh đó, đáng chú ý là luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn
Thắng “Người đại diện theo pháp luật trong Luật doanh nghiệp 2005”. Với

đề tài này, tác giả đã làm rõ khái niệm, thẩm quyền và vai trò của người đại
diện theo pháp luật. Tuy nhiên, ở khía cạnh lý luận và thực tiễn, thì tác giả
chưa đi nghiên cứu sâu sắc một cách thỏa đáng.
Ngoài ra, gần đây xuất hiện một loạt bài báo viết về vấn đề đại diện theo
pháp luật của công ty. Tiêu biểu là các tác giả: Bùi Xuân Hải,"Học thuyết về đại
diện và mấy vấn đề của pháp luật cơng ty Việt Nam ", Tạp chí Khoa học Pháp lý
2007, số 4 (41); TS. Ngô Huy Cương, Chế định đại diện theo quy định của pháp
luật Việt Nam – nhìn từ góc độ luật so sánh, Tạp chí nhà nước và pháp luật số
4/2009; Bài viết “Bình luận chế định pháp nhân và đại diện pháp nhân trong Bộ
luật dân sự năm 2005” của Luật sư Trương Thanh Đức; Lê Văn Thiệp, Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện theo pháp luật, Tạp chí Kiểm sát, Số Tân
Xn, 2012. Các cơng trình nghiên cứu này, phần nào đã làm rõ những vấn đề
cơ bản của chế định đại diện và những bất cập của bộ luật dân sự và luật doanh
nghiệp trong các quy định về đại diện. Đồng thời các tác giả cũng đưa ra các
phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện.
Đến nay, chưa có một cơng trình nghiên cứu một cách cụ thể, sâu sắc,
mang tính hệ thống liên quan đến các quy định của pháp luật về đại diện theo
pháp luật của công ty cổ phần. Các tác giả trong bài nghiên cứu của mình có
đề cập đến vấn đề người đại diện theo pháp luật trong công ty nhưng chưa nêu

4


lên được những bất cập trong thực tế khi xác lập, thay đổi tư cách của người
đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, thẩm quyền đại diện và xử lý các
giao dịch vượt thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật.
Vì thế, tác giả luận văn này, mong muốn sẽ góp một phần nhỏ tìm ra
những nguyên nhân của bất cập trong các quy định của pháp luật về người đại
diện theo pháp luật của công ty cổ phần và định hướng, đưa ra giải pháp toàn
diện để hoàn thiện chế định này.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Công ty cổ phần, với tư cách là một pháp nhân, theo đó căn cứ xác lập
và chấm dứt tư cách cũng như địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật
của Công ty cổ phần cũng được điều chỉnh bởi chế định pháp nhân. Luật
doanh nghiệp hiện hành chỉ đơn giản quy định một trong số ba chức danh
quản lý là đại diện theo pháp luật, đó là chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc
hoặc tổng gám đốc. Bởi vậy, tác giả xác định đối tượng nghiên cứu mang tính
hạt nhân là đại diện theo pháp luật của pháp nhân, từ đó nghiên cứu sâu về đại
diện theo pháp luật của công ty cổ phần.
Với đối tượng nghiên cứu đã định, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu
khái quát về pháp nhân là tổ chức kinh tế, lý giải cơ sở triết học về đại diện
theo pháp luật của pháp nhân; xác định căn cứ xác lập và chấm dứt tư cách
đại diện theo pháp luật, địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân; xác định căn cứ xác lập và chấm dứt tư cách đại diện theo pháp
luật, địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần;
Trong luận văn, tác giả cũng đề cập đến vấn đề đại diện theo ủy quyền với
mục đích làm rõ thêm thực trạng pháp luật Việt Nam về đại diện.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và lý luận của nền luật học nước ta, dựa
trên những chủ trương, đường lối và chính sách xây dựng nền kinh tế xã hội

5


hội nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện, luận văn đặt mục đích đó là
nghiên cứu những vấn đề lý luận về đại diện theo pháp luật của pháp nhân nói
chung và cơng ty cổ phần nói riêng; nêu toàn diện thực trạng áp dụng pháp
luật về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần tại Việt Nam và từ đó đưa
ra các định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
vấn đề này.

Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định
của pháp luật điều chỉnh về người đại diện theo pháp luật của pháp nhân và
công ty cổ phần, nhằm:
Làm rõ những vấn đề lý luận về người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân, từ đó đi sâu nghiên cứu các vấn đề về pháp luật và thực trạng pháp luật
về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay;
Đưa ra các cơ sở định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về
đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần.
Từ những mục đích trên, tác giả đưa ra các nhiệm vụ của luận văn
như sau:
- Làm rõ cơ sở triết học hình thành đại diện theo pháp luật của
pháp nhân;
- Xây dựng khái niệm đại diện theo pháp luật của pháp nhân, người
đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần.
- Xác định căn cứ xác lập và chấm dứt tư cách đại diện theo pháp
luật, địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của công ty
cổ phần;
- Phân tích làm rõ khiếm khuyết của pháp luật hiện hành và áp
dụng pháp luật hiện hành về việc xác định tư cách người đại diện
theo pháp luật của công ty cổ phần, qua đó kiến nghị giải pháp
hồn thiện.

6


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học và các phương pháp
luận của triết học Mác – Lênin; lý luận chung về nhà nước – pháp luật; các
quan điểm của Đảng và tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật.

Các phương pháp này kết hợp với nhau để giải quyết các vấn đề của đề
tài. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chủ yếu sử
dụng: phân tích tài liệu, tổng hợp và phân tích thực tiễn chứng minh cho lý
luận, bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phương pháp của luật so sánh. Và
các phương pháp nghiên cứu riêng biệt của khoa học pháp lý: phân tích quy
phạm, phân tích hệ thống, so sánh pháp luật….
6. Những đóng góp của luận văn
Những đóng góp của luận văn gồm có:
Về mặt lý luận:
- Luận văn đưa ra hệ thống các cơ sở lý luận về pháp nhân, những
luận điểm cơ sở triết học của vấn đề đại diện theo pháp luật của
pháp nhân.
- Luận văn đưa ra và phân tích các căn cứ để xác lập, thay đổi, và
chấm dứt với tư cách của người đại diện theo pháp luật của công ty
cổ phần theo pháp luật Việt Nam.
- Luận văn cũng đề cập quy định về đại diện của công ty cổ phần
của một số nước, từ đó so sánh với những quy định hiện hành ở
Việt Nam.
Về tính thực tiễn: Luận văn đã nêu và phân tích làm rõ những khiếm
khuyết của pháp luật hiện hành và áp dụng pháp luật về việc xác định tư cách
người đại diện theo pháp luật của cơng ty cổ phần. Từ đó, nhận định những
nguyên nhân của các thực trạng làm tiền đề cho các định hướng hoàn thiện.

7


Về định hướng hoàn thiện: tác giả luận văn nêu lên cơ sở hình thành
các định hướng và giải pháp mang tính tồn diện nhằm hồn thiện hệ thống
pháp luật về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đại diện theo pháp luật của
công ty cổ phần
Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về đại diện theo
pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần.

8


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1.

Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về pháp nhân

1.1.1. Khái niệm pháp nhân
Khi nói về chủ thể của pháp luật, ngoài chủ thể là thể nhân – con người
cụ thể hoặc chủ thể được coi như thể nhân cịn có các thực thể pháp lý khác có
tư cách chủ thể, đó chính là pháp nhân. Nhu cầu tạo ra thực thể pháp lý có tư
cách chủ thể độc lập với thể nhân là một tất yếu đối với các hệ thống pháp luật
nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và của các nhà đầu tư. Bởi lẽ, các thực
thể pháp lý đó có thể do một tổ chức, cá nhân hoặc nhiều tổ chức, cá nhân tạo
lập, nhưng các hoạt động kinh doanh do các thực thể này thực hiện mang lại
hiệu quả cao mà thể nhân đơn lẻ khó có thể thực hiện được. Khi nghiên cứu về
pháp nhân, Giáo sư Jean Claude Ricci chỉ ra hai lợi ích cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được

đơn giản hóa. Pháp nhân cho phép đơn giản hóa pháp luật. Chúng ta hãy đặt giả
thiết là khơng có pháp nhân mà chỉ có các thể nhân. Khi đó, mỗi thể nhân thành
viên đều sẽ phải tham gia vào việc ký kết các giao dịch pháp lý. Hậu quả sẽ rất
phức tạp.
- Thứ hai, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được
ổn định lâu dài. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng. Người ta thường hay
nói rằng, pháp nhân khơng gặp phải những thay đổi bất ngờ như thể nhân.
Thời gian tồn tại của một pháp nhân thường dài hơn cuộc sống của một con
người. Và hoạt động của pháp nhân có thể kéo dài, thậm chí rất dài. Pháp
nhân khơng bị ảnh hưởng bởi những biến cố xảy ra đối với thành viên của nó
[57, tr.105-106].

9


Harold Arthur Jonh Ford trong cơng trình “Principles of Company
Law” cũng nhấn mạnh rằng “Trong bất kỳ hệ thống pháp luật hồn chỉnh
nào cũng có nhu cầu tạo ra thực thể pháp lý, có thể thụ hưởng các quyền
và chịu nghĩa vụ cơ bản giống như con người, thực thể đó được gọi là pháp
nhân” [65].
Về đặc tính và bản chất pháp lý của pháp nhân, cho đến này người ta
vẫn còn tranh luận, và luật pháp các quốc gia thường có sự khác biệt về tiêu
chí xác định pháp nhân. Tuy nhiên, tư cách pháp nhân của từng loại hình cơng
ty thường được pháp luật cơng ty xác định một cách trực tiếp mà khơng cần
phải có một thủ tục công nhận riêng. Maurice cozian và Alain Viandier đã ví
von pháp nhân như một cái vỏ ốc và cơng ty là con dã tràng sống trong đó.
Ở Việt Nam, nếu tính từ năm 1975, thuật ngữ pháp nhân được nhắc đến
lần đầu tiên trong Thông tư 525-HĐ ngày 23-6-1975 của Hội đồng trọng tài
kinh tế nhà nước hướng dẫn việc thực hiện bản điều lệ về chế độ hợp đồng
kinh tế quy định ban hành kèm theo Nghị định số 54-CP ngày 10-3-1975 của

Hội đồng Chính phủ quy định quy cách pháp nhân của các bên ký kết hợp
đồng kinh tế:
Các đơn vị, tổ chức, cơ quan tham gia giao kết hợp đồng kinh
tế. Đó là những đơn vị có đủ tư cách pháp nhân được nhà nước
thành lập hoặc thừa nhận, có tài sản riêng và có trách nhiệm độc lập
về tài sản đó, có tài khoản tại ngân hàng. các tổ chức xã hội có đủ tư
cách pháp nhân phải là những tổ chức được nhà nước cơng nhận và
cũng có tài khoản ở ngân hàng [27].
Năm 1990, Nghị định 17-HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng Bộ
trưởng quy định chi tiết pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định:
Pháp nhân là một tổ chức có đủ điều kiện sau đây: 1. Được
thành lập một cách hợp pháp; 2. Có tài sản riêng và chịu trách

10


nhiệm một cách độc lập bằng các tài sản đó; 3. Có quyền quyết định
một cách độc lập về các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình; 4.
Có quyền tự mình tham gia các quan hệ pháp luật [28].
Các điều kiện này đang được quy định trong bộ luật dân sự hiện hành.
Trong Luật công ty của Úc, tại điều 57A đưa ra định nghĩa pháp
nhân theo kiểu liệt kê các chủ thể được gọi là pháp nhân “Pháp nhân bao
gồm công ty, công ty sở hữu chủ...”; Tại mục 1.40.9 Luật mẫu về công ty
kinh doanh của Mỹ cũng đưa ra cách định nghĩa tương tự nhưng có bổ
sung một số tổ chức như Bang, Liên Bang và Chính phủ nước ngồi là
pháp nhân.
Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN quy định:
Pháp nhân có nghĩa là bất kỳ thực thể pháp lý nào được thành
lập hoặc tổ chức một cách hợp pháp theo luật hiện hành, vì lợi
nhuận hoặc khơng vì lợi nhuận, thuộc sở hữu tư nhân hay sở hữu

nhà nước, bao gồm mọi công ty, tập đồn, liên danh, liên doanh,
cơng ty một chủ hoặc hiệp hội [2, Điều 1].
Theo Hiệp định thương mại giữa Chính phủ nước Cộng hồ Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ về thương mại:
Pháp nhân là một thực thể pháp lý bất kỳ được thiết lập hay
tổ chức một cách hợp pháp theo luật áp dụng, bất kể vì mục đích
lợi nhuận hay phi lợi nhuận, và dưới hình thức sở hữu tư nhân hay
Nhà nước, bao gồm mọi công ty, công ty tín thác, cơng ty hợp
danh, liên doanh, doanh nghiệp một chủ hay hiệp hội [12, chương
3 điều 11].
Như vậy, pháp nhân là một khái niệm để chỉ một loại chủ thể pháp luật
độc lập, dùng để phân biệt với chủ thể là con người. Pháp nhân được tạo lập
bởi ý chí của một hoặc nhiều con người cụ thể.

11


1.1.2. Cơ sở triết học về vấn đề đại diện của pháp nhân
Như chúng ta đã biết, triết học và phương pháp luận khoa học đã hỗ trợ
các khoa học khác giải quyết những vấn đề của chúng. Qua đó, triết học thúc
đẩy tiến bộ khoa học trong đó có khoa học pháp lý phát triển. Trong triết học
con người là trung tâm, do vậy, tự do của con người là hạt nhân, tạo ra nguồn
cảm hứng chủ yếu cho những phát minh. Triết học xã hội tham gia vào việc
giải quyết những vấn đề chính trị, kinh tế xã hội ... đóng góp đáng kể vào mọi
thành tựu của loài người. Pháp luật dân sự là một trong những thành tựu đáng
được nhắc đến, nó ghi nhận nguyên tắc tự do ý chí. Vũ Văn Mẫu cho rằng,
“về phương diện triết học, các lý thuyết tự do sở dĩ coi ý chí là căn bản của
các nghĩa vụ, là vì tin tưởng rằng khi các cá nhân được tự do thương thuyết
không vướng mắc một trở ngại nào thị sự quyết định của họ phản chiếu sự
công bằng” [32, tr. 84].

Về phương diện triết học, pháp nhân được hình thành trên cơ sở nguyên
tắc tự do ý chí. Với tư cách là một chủ thể độc lập, pháp nhân được thụ hưởng
các quyền và gánh vác các nghĩa vụ. Tuy nhiên, nó có thể thực hiện các quyền
năng bằng cách nào khi nó là một thực thể pháp lý. Đây là vấn đề mấu chốt
luận giải về người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
Từ giữa thế kỷ 19, các án lệ của các nước theo truyền thống
thông luật đã khẳng định rằng, cơng ty chỉ có thể hành động thông
qua các giám đốc– tức những người quản lý công ty và hành động
của cá nhân cổ đông sẽ khơng ảnh hưởng gì, khơng ràng buộc trách
nhiệm của pháp nhân công ty – với tư cách là một thực thể pháp lý
độc lập [24].
Pháp nhân, dù được nhân cách hóa, khơng phải là con người cụ
thể và do đó, khơng thể tự mình xử sự…Suy cho cùng, pháp nhân
luôn phải được đại diện bởi con người cụ thể, từ khi thành lập cho

12


đến khi chấm dứt, trong tất cả các hoạt động của mình. Năng lực
hành vi của pháp nhân thực ra là năng lực hành vi mà pháp nhân vay
mượn của những con người mà pháp nhân hóa thân vào [21, tr. 246].
Trên cơ sở nguyên tắc tự do ý chí, con người ln địi hỏi xã hội đáp
ứng những nhu cầu của mình về tự do lập hội và tự do kinh doanh đảm bảo
quyền con người. Vì thế, xuất pháp từ bản chất pháp lý của việc hình thành
pháp nhân là quan hệ hợp đồng giữa các thành viên sáng lập nhằm tạo ra một
thực thể cụ thể để đáp ứng hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu chung mà
các sáng lập viên xác định khi giao kết hợp đồng.
Sự ra đời của pháp nhân trên cơ sở học thuyết tự do ý chí và tự do lập
hội dựa trên nền tảng của tự do cá nhân, không ai có thể bị ép buộc làm hay
khơng làm một việc gì đó ngồi ý muốn của họ. Các cá nhân tự do lựa chọn

mơ hình pháp nhân để thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình, và tự do
lựa chọn người đại diện theo pháp luật, trên cơ sở sự ủy thác của các chủ sở
hữu pháp nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ của người quản lý pháp nhân
trong hoạt động nội bộ, các hoạt động kinh doanh. Người đại diện theo pháp
luật chịu sự điều chỉnh của quy định của pháp luật và các quy chế của pháp
nhân, trong quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Như vậy, pháp nhân với tư cách là một thực thể pháp lý, được tạo nên
bởi ý chí của một hoặc nhiều người cụ thể và chỉ có thể thực hiện các quyền
và nghĩa vụ thông qua con người cụ thể.
1.1.3. Căn cứ xác lập tư cách đại diện của pháp nhân theo pháp luật
Việt Nam
Có nhiều quan điểm cho rằng, quyết định thành lập hoặc giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh (chứng nhận đăng ký doanh nghiệp) là căn cứ xác
lập tư cách người đại diện pháp luật của pháp nhân. Nếu chỉ xem xét từ thực
tiễn áp dụng thì quan điểm này có phần đúng. Bởi lẽ, một trong những nội

13


dung của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là: “Họ, tên, địa chỉ thường
trú, quốc tịch, số giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá
nhân hợp pháp khác của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”
[42, Điều 25]. Quy định này có thể được hiểu là người có tên trong đăng ký
kinh doanh mới là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
Thực tiễn xét xử các vụ án tranh chấp liên quan đến người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân hiện nay thì khơng có sự thống nhất, có thể nói khách
quan hơn là tuỳ thuộc vào quyết định của toà án. Thực tế này có thể minh chứng
như sau: Có nhiều vụ án, trong đó đương sự là pháp nhân mà người đại diện của
pháp nhân đã bị bãi nhiệm, cách chức bằng quyết định của đại hội đồng cổ đông
hoặc hội đồng quản trị theo quy định tại điều lệ. Tuy nhiên, pháp nhân đó chưa

thực hiện việc thay đổi đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh thì
có tồ án vẫn xác định người đại diện theo pháp luật là người có tên trong giấy
chứng nhân đăng ký kinh doanh. Thực tế này thường xảy ra đối với những vụ án
tranh chấp nội bộ công ty "yêu cầu huỷ nghị quyết của đại hội đồng cổ đông"
trong công ty cổ phần.
Thế nhưng, đối với trường hợp đương sự là pháp nhân, do người đại diện
theo pháp luật chết, mất năng lực hành vi, bị tạm giam..... thì tồ án lại khơng sử
dụng đăng ký kinh doanh làm căn cứ xác định tư cách người đại diện theo pháp
luật. Ngồi ra, cịn có trường hợp tồ án áp dụng mang tính chủ quan khác. Cụ
thể, đối với những vụ án có đương sự là cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên ngân hàng nông nghiệp và phát triển nơng thơn Việt Nam, thì trong suốt
một thời gian dài toà án xác định người đại diện theo quyết định bổ nhiệm chủ
tịch hội đồng thành viên, trong khi đó người đại diện theo pháp luật có tên trong
đăng ký kinh doanh khơng được chấp nhận vì đã bị chuyển công tác. Như vậy,
thực tiễn xét xử thường không đưa ra căn cứ pháp lý để xác định người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân. Vậy, luật thực định quy định như thế nào về vấn
đề này.

14


Theo quy định tại Điều 91, 140 và 141 Bộ luật dân sự 2005:
Đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định trong
điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.
Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định.
Người đại diện theo pháp luật bao gồm: ... Người đứng đầu
pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền [44].
Đối với người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần được luật

Doanh nghiệp, với tư cách là luật chuyên ngành quy định tại Điều 116, theo
đó người đại diện theo pháp luật có thể là chủ tịch hội đồng quản trị hoặc
giám đốc/tổng giám đốc và phải được ghi trong điều lệ của công ty. Tuy
nhiên, bằng việc bỏ qua "Luật áp dụng luật" – Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật và với cơ chế thơng thống thì vẫn cịn những văn bản dưới
luật quy định trái luật mà vẫn được áp dụng. Cụ thể, Quyết định số
1087/2001/QĐ-NHNN ngày 27/8/2001 của thống đốc ngân hàng nhà nước tại
khoản 3, Điều 9 là: "Chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp
luật của ngân hàng thương mại cổ phần và được ghi trong điều lệ ngân hàng
thương mại cổ phần".
Như vậy, ở giác độ luật thực định thì nhà làm luật chỉ quy định một
chức danh nào đó trong cơ cấu tổ chức quản lý của pháp nhân làm người đại
diện theo pháp luật. Cách quy định này là một trong những biểu hiện việc bảo
hộ quyền tự do kinh doanh, tôn trọng quyền tự định đoạt của thành viên pháp
nhân. Cụ thể, với cách quy định của luật thực định, thành viên pháp nhân có
tồn quyền quyết định bầu/bổ nhiệm một người cụ thể giữ chức danh mà pháp
luật quy định là người đại diện theo quy định của pháp nhân. Thông thường,
việc bầu được thể hiện bằng kết quả kiểm phiếu được xác định trong biên bản
kiểm phiếu; việc bổ nhiệm được thể hiện bằng hình thức ban hành quyết định.

15


Bằng việc làm rõ quy định của luật thực định, tác giả đi đến nhận định
rằng, việc xác định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, trước hết
phải căn cứ theo điều lệ của pháp nhân để biết người đại diện là người có
chức danh nào trong bộ máy quản lý; sau đó căn cứ văn bản của đại hội đồng
cổ đông hoặc hội đồng quản trị về việc bầu hoặc bổ nhiệm chức danh để xác
định người đại diện theo pháp luật. Đăng ký kinh doanh không phải là căn cứ
để xác định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.

1.1.4. Phạm vi thẩm quyền của đại diện theo pháp luật của pháp nhân
Công ty với tư cách là một pháp nhân – một thực thể pháp lý độc lập,
không phải là thể nhân, nên chỉ có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình thông qua người đại diện trong các giao dịch để xác lập và thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của mình. Người đại diện thay mặt, nhân danh pháp
nhân tham gia các quan hệ pháp luật, xác lập các giao dịch dân sự trong
quá trình hoạt động của pháp nhân. Pháp nhân được hưởng các quyền và
phải gánh vách các nghĩa vụ do người đại diện nhân danh mình xác lập với
bên thứ ba.
Tuy nhiên, người đại diện về nguyên tắc phải hành động trong phạm vi
đại diện, là giới hạn quyền và nghĩa vụ trong việc nhân danh pháp nhân xác
lập và thực hiện giao dịch với người thứ ba theo sự xác định của pháp luật
hoặc của người được đại diện.
Đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện
theo uỷ quyền. Chính vì thế, năng lực pháp luật của pháp nhân khi tham gia
các quan hệ pháp luật thông qua năng lực của người đại diện. “Người đại diện
theo pháp luật hoặc người đại diện theo uỷ quyền của pháp nhân nhân danh
pháp nhân trong quan hệ dân sự” [44, điều 86].
Đại diện theo pháp luật của pháp nhân là việc người đại diện nhân danh
pháp nhân tham gia xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch với bên
thứ ba vì lợi ích của pháp nhân được quy định trong điều lệ và pháp luật.

16


Bộ luật dân sự 2005 quy định “Đại diện theo pháp luật là đại diện do
pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định” [44,
Điều 140]. Người đại diện theo pháp luật là đại diện đương nhiên của pháp
nhân, nhân danh pháp nhân tham gia các giao dịch trong phạm vi đại diện mà
pháp luật hoặc điều lệ công ty quy định.

Phạm vi đại diện người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là “có
quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được
đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” [44, Điều 144]. Theo
quy định này, thì việc xác định phạm vi đại diện của người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân căn cứ vào mục đích tham gia giao dịch mà người
đại diện. Có nghĩa là, giao dịch mà người đại diện theo pháp luật tham gia
phải nhằm đáp ứng lợi ích của pháp nhân, chứ khơng phải vì lợi ích cá
nhân người đại diện.
Những giao dịch mà người đại diện theo pháp luật xác lập nhằm tư
lợi đều bị pháp luật cấm, nếu người đại diện thực hiện những giao dịch đó,
phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với các quyền và nghĩa vụ đã xác lập với
bên thứ ba, và chịu trách nhiệm với pháp nhân, trước pháp luật về hành vi
của mình.
Có quan điểm cho rằng phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo
pháp luật được quy định trong điều lệ hoặc trong quyết định bổ nhiệm hoặc
hợp đồng lao động hoặc quy chế nội bộ của công ty cổ phần đó. Luận giải của
quan điểm này là luật Doanh nghiệp, điều lệ.... có quy định những giao dịch
có giá trị đến mức nào đó thì phải có sự phê chuẩn của đại hội đồng cổ đông
hoặc hội đồng quản trị.... Tuy nhiên, cịn có nhiều quan điểm khác nhau trong
quá trình áp dụng quy định này về sự giới hạn thẩm quyền của người đại diện
hay chỉ là các thủ tục mà người đại diện cần thực hiện trước khi tham gia xác
lập các giao dịch.

17


Đại diện theo uỷ quyền “là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền
giữa người đại diện và người được đại diện” [44, Điều 142]. Đại diện theo
ủy quyền của pháp nhân là việc người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân uỷ quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhân

danh pháp nhân.
Phạm vi đại diện của người đại diện theo ủy quyền được xác định trên
cơ sở nội dung văn bản ủy quyền của người đại diện theo pháp luật cho người
được ủy quyền. Trong văn bản ủy quyền, người được ủy quyền sẽ được làm
gì và khơng được làm gì để thực hiện công việc ủy quyền.
Kết quả hoạt động của những người đại diện của pháp nhân khi thực
hiện các hoạt động nhân danh pháp nhân: “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm
dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập,
thực hiện nhân danh pháp nhân” [44, điều 93]. Pháp nhân không thể chối bỏ
trách nhiệm của mình, khi người đại diện tham gia xác lập các giao dịch với
tư cách của pháp nhân và trong phạm vi thẩm quyền theo quy định của điều lệ
hoặc của pháp luật.
1.2. Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người đứng đầu
doanh nghiệp, thay mặt doanh nghiệp thực hiện các giao dịch vì lợi ích của
doanh nghiệp, với đối tác, khác hàng và với cơ quan nhà nước, đại diện cho
công ty với tư cách là nguyên đơn, bị đơn trong vụ kiện, tranh chấp thương
mại... Hành động của người đại diện theo pháp luật chịu sự ràng buộc trong
phạm vi đại diện được giới hạn theo quy định của điều lệ công ty và các quy
định pháp luật.
Hiện nay, quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ
phần được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005; Nghị định số
102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều
của Luật Doanh nghiệp.

18


Về chức danh, điều kiện của người đại diện theo pháp luật:
Thứ nhất, Về chức danh của người đại diện theo pháp luật của công ty

cổ phần: người đại diện theo pháp luật của cơng ty cổ phần có thể là chủ tịch
hội đồng quản trị hoặc tổng giám đốc/giám đốc, chức danh cụ thể được quy
định trong điều lệ của công ty.
Ngƣời đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần là tổng giám
đốc/giám đốc của công ty: Trường hợp điều lệ công ty không quy định
chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật thì giám đốc
hoặc tgổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty. Giám
đốc hoặc tổng giám đốc là người điều hành công việc kinh doanh hằng
ngày của công ty; chịu sự giám sát của hội đồng quản trị và chịu trách
nhiệm trước hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các
quyền và nhiệm vụ được giao.
Nếu chủ tịch hội đồng quản trị là ngƣời đại diện theo pháp luật của
công ty: Ngoài việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của theo chức danh của
mình, chủ tịch hội đồng quản trị còn thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
người đại diện theo pháp luật công ty.
Thứ hai, về điều kiện trở thành người đại diện theo pháp luật của công
ty cổ phần: Theo pháp luật Việt Nam thì tiêu chuẩn và điều kiện trở thành chủ
tịch hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng giám đốc cũng là điều kiện, tiêu
chuẩn của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần và áp dụng theo
quy định tại Luật Doanh nghiệp và điều lệ công ty hoặc của hợp đồng lao
động ký với cơng ty. Các điều kiện đó có thể kể đến là:
Có đủ năng lực hành vi dân sự, không thuộc đối tượng bị cấm thành lập
và quản lý doanh nghiệp quy định của Luật Doanh nghiệp;
Cổ đơng là cá nhân sở hữu ít nhất 5% tổng số cổ phần phổ thơng hoặc
cổ đơng sở hữu ít hơn 5% tổng số cổ phần, người không phải là cổ đơng thì

19


phải có trình độ chun mơn hoặc kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh hoặc

trong ngành, nghề kinh doanh chính của công ty.
Phải thường trú ở Việt Nam; trường hợp vắng mặt trên ba mươi ngày ở
Việt Nam thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác theo quy định tại
điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nhiệm vụ của người đại diện theo
pháp luật của cơng ty.
Ngồi ra giám đốc hoặc tổng giám đốc cơng ty cổ phần không được
đồng thời làm giám đốc hoặc tổng giám đốc của doanh nghiệp khác.
Tuy nhiên, việc quy định vấn đề về tiêu chuẩn và điều kiện của những
người lãnh đạo quan trọng vốn là vấn đề nội bộ của doanh nghiệp và nhất
thiết phải dành doanh nghiệp có quyền tự chủ trong việc đưa ra các quy định
về tiêu chuẩn, điều kiện phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình
trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Về bầu, bổ nhiệm người đại diện theo pháp luật:
Tùy theo quy định tại điều lệ để xác định chức danh là đại điện theo pháp
luật của cơng ty. Theo đó ta cũng biết được thẩm quyền bầu hoặc bổ nhiệm
người đại diện theo pháp luật thuộc về hội đồng quản trị hoặc đại hội đồng cổ
đông, cụ thể:
Nếu người đại diện theo pháp luật là tổng giám đốc hoặc giám đốc thì
hội đồng quản trị bổ nhiệm một người trong số họ hoặc thuê người khác làm
tổng giám đốc hoặc giám đốc.
Nếu người đại diện theo pháp luật là chủ tịch hội đồng quản trị. Thì việc
bầu được thực hiện theo quy định của điều lệ: Đại hội đồng cổ đông hoặc hội
đồng quản trị bầu chủ tịch hội đồng quản trị. Trường hợp hội đồng quản trị bầu
chủ tịch hội đồng quản trị thì chủ tịch được bầu trong số thành viên của mình.
Như vậy, việc bầu hoặc bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, đồng thời là đại
diện theo pháp luật phải dựa trên quy định của điều lệ công ty. Đại hội đồng

20



×