Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

(Luận văn thạc sĩ) pháp luật việt nam về công ty hợp danh luận văn ths luật 60 38 50

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.72 KB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÙY GIANG

PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ CÔNG TY HỢP DANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hµ néi - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÙY GIANG

PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ CÔNG TY HỢP DANH
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Quang


Hµ néi - 2012

2


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: KHÁI QT CHUNG VỀ CƠNG TY HỢP DANH

5

1.1.

Sự hình thành và phát triển công ty hợp danh trên thế giới

5

1.1.1.

Lịch sử hình thành cơng ty hợp danh trên thế giới

5


1.1.2.

Khái niệm về công ty hợp danh theo pháp luật của một số
quốc gia

7

1.1.3.

Đặc điểm pháp lý của công ty hợp danh theo pháp luật một
số quốc gia

9

1.1.4.

Vai trị của cơng ty hợp danh

21

1.2.

Sự hình thành và phát triển cơng ty hợp danh tại Việt Nam

22

1.2.1.

Lịch sử hình thành


22

1.2.2.

Khái niệm và đặc điểm

26

1.2.2.1. Khái niệm

26

1.2.2.2. Đặc điểm

28

Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÔNG TY HỢP DANH

30

2.1.

Những vấn đề pháp lý chủ yếu của công ty hợp danh

30

2.1.1.

Thành lập công ty hợp danh


30

2.1.2.

Thành viên

33

2.1.2.1. Thành viên hợp danh

34

2.1.2.2. Thành viên góp vốn

38

4


2.1.3.

Vốn trong công ty hợp danh

41

2.1.3.1. Vốn điều lệ và huy động vốn

42


2.1.3.2. Vấn đề chuyển nhượng vốn, rút vốn

44

2.1.4.

Tư cách pháp lý của công ty hợp danh

46

2.1.5.

Cơ cấu tổ chức, quản lý trong công ty hợp danh

48

2.1.6.

Giải thể, phá sản công ty hợp danh

51

2.2.

Những ưu thế và hạn chế của cơng ty hợp danh so với các
loại hình cơng ty khác

56

2.2.1.


Ưu thế

56

2.2.2.

Hạn chế

58

Chương 3:

THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM

61

HỒN THIỆN HƠN NỮA PHÁP LUẬT VỀ CƠNG
TY HỢP DANH

3.1.

Thực trạng về công ty hợp danh tại Việt Nam

61

3.2.

Những giải pháp nhằm hồn thiện hơn pháp luật về cơng ty
hợp danh


72

KẾT LUẬN

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

76

5


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Những năm qua, nền kinh tế thị trường Việt Nam đã bắt nhịp được với
kinh tế khu vực và thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đã có những bước tiến
tích cực kể từ năm 2000 đến nay. Đặc biệt năm 2009 được đánh giá là năm
thứ ba đánh dấu sự hội nhập khá toàn diện với kinh tế thế giới.
Một trong những đặc trưng của nền kinh tế thị trường nước ta là có
nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại song song, cụ thể Hiến pháp 1992 ghi
nhận các thành phần kinh tế sau: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn
đầu tư nước ngồi. Mặc dù Đảng và Nhà nước chủ trương ưu tiên phát triển
các thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, song tốc độ tăng trưởng
của hai thành phần này lại thấp hơn so với kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài. Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục thống kê năm 2007, kinh
tế nhà nước mặc dù chiếm một phần lớn trong tổng số vốn đầu tư phát triển

tồn xã hội nhưng chỉ đóng góp 37-39% GDP thực tế, trong khi đó khu vực
kinh tế tư nhân là 45 - 47%.
Sự đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân, một khu vực kinh tế được
đánh giá là trẻ trung và năng động đã khiến cho các nhà hoạch định chính
sách nói chung và chính sách pháp luật nói riêng phải gấp rút hồn thiện
chính sách của mình.
Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong
khu vực kinh tế tư nhân có nhiều cơ hội hơn khi lựa chọn mơ hình kinh doanh
cho mình, Bằng sự đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là việc lần
đầu tiên ghi nhận thêm một loại hình doanh nghiệp mới là công ty hợp danh
đã tạo thêm cơ hội cho người dân thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình.

6


Đối với một quốc gia đang trong quá trình hội nhập kinh tế với khu
vực và thế giới thì mơi trường pháp lý nói chung và trong hoạt động kinh
doanh nói riêng vơ cùng quan trọng. Chính vì vậy việc liên tục hồn thiện
chính sách pháp luật kinh tế, trong đó có pháp luật về doanh nghiệp ln là
nhiệm vụ trọng tâm. Luật Doanh nghiệp 2005 thay thế Luật Doanh nghiệp
1999 đã góp phần hồn thiện hơn các quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
Riêng đối với công ty hợp danh, từ chỗ chỉ được quy định khiêm tốn trong
bốn điều khoản tại Luật Doanh nghiệp 1999, đã được nâng lên mười điều
khoản trong Luật Doanh nghiệp 2005 (sửa đổi bổ sung 2009). Mơ hình cơng
ty này đã được quy định chi tiết rõ ràng hơn, phù hợp với tình hình kinh tế đất
nước. Tuy nhiên, những quy định ấy vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn,
chưa phát huy được hết những điểm mạnh vốn có của loại hình cơng ty này.
Xét về thời gian, thì cơng ty hợp danh là một trong những loại hình doanh
nghiệp ra đời sớm nhất trên thế giới, nhưng với Việt Nam, mới chỉ được chính
thức tồn tại đúng với tên gọi của nó trong 10 năm. Tuy chưa lâu, nhưng cũng

không thể coi là mới mẻ, xa lạ để các nhà đầu tư ngoảnh mặt với mơ hình này,
nhưng trên thực tế, số lượng công ty hợp danh đang hoạt động hiện nay quá ít.
Theo số liệu thống kê của Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội, tính đến đầu
năm 2007, số công ty hợp danh đang hoạt động trên toàn quốc là 31 trên tổng số
131.318 doanh nghiệp - một con số quá ít ỏi so với ưu thế của loại hình cơng ty
này. Có rất nhiều ngun nhân khách quan và chủ quan, và một trong những
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng trên là môi trường pháp lý chưa thuận
lợi, cụ thể là những quy định của pháp luật về công ty hợp danh chưa tạo được
tiền đề, động lực để các nhà đầu tư thấy sự hấp dẫn khi lựa chọn mơ hình này.
Thậm chí có những quy định cịn cản trở sự phát triển của chúng.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài "Pháp luật Việt
Nam về công ty hợp danh" với mong muốn làm sáng tỏ những đặc điểm, bản
chất pháp lý của loại hình cơng ty này, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm

7


góp phần xây dựng và hồn thiện pháp luật doanh nghiệp nói chung và cơng
ty hợp danh nói riêng.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
2.1. Mục đích
Từ sự phân tích, đánh giá thực trạng của cơng ty hợp danh ở nước ta
hiện nay, luận văn nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích là làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận cơ bản, những vấn đề bản chất của loại hình cơng ty này để từ
đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về cơng ty hợp danh.
2.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu q trình hình thành và phát triển của cơng ty hợp danh
và pháp luật về công ty hợp danh
- Rút ra những kết luận về bản chất pháp lý của công ty hợp danh
- So sánh những kết luận về bản chất pháp lý của công ty hợp danh

với những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
- Phân tích vai trị, đánh giá thực trạng của cơng ty hợp danh và đề xuất
những giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về công ty hợp danh.
3. Cở sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Ngồi ra, luận văn có tham khảo các cơng trình nghiên cứu, bài viết có
liên quan đã được cơng bố.
- Luận văn cịn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh,
đối chiếu, khái quát hóa, thống kê...
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Phân tích, đánh giá một cách tồn diện những đặc điểm pháp lý của
công ty hợp danh nhằm đưa ra những điểm mạnh của loại hình cơng ty này so
với các công ty khác.

8


- Góp phần vào việc đưa ra những cơ sở khoa học pháp lý nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý của pháp luật về doanh nghiệp nói chung và cơng ty hợp
danh nói riêng cho các nhà đầu tư theo xu hướng thơng thống và cởi mở.
- Hy vọng các giải pháp mà đề tài đề xuất sẽ góp phần cung cấp thông
tin và ý nghĩa cho các nhà hoạch định pháp luật cũng như các nhà đầu tư để
nâng cao hơn nữa số lượng và hiệu quả hoạt động của công ty hợp danh trong
nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hội nhập và phát triển.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Khái quát chung về công ty hợp danh.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về công ty hợp danh.

Chương 3: Thực trạng và những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa
pháp luật về công ty hợp danh.

9


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY HỢP DANH

1.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CƠNG TY HỢP DANH TRÊN
THẾ GIỚI

1.1.1. Lịch sử hình thành cơng ty hợp danh trên thế giới
Bất kỳ một hiện tượng kinh tế nào cũng đều có q trình hình thành và
phát triển. Thời gian tồn tại có thể ngắn hoặc dài tùy thuộc điều kiện lịch sử
kinh tế - xã hội. Công ty là một sản phẩm tất yếu của nền kinh tế, là một hiện
tượng kinh tế đặc biệt ra đời từ rất lâu và đem lại rất nhiều lợi ích quan trọng
cho lồi người.
Một trong những loại hình cơng ty có mặt sớm nhất trong lịch sử đó là
cơng ty hợp danh. Người ta đã tìm thấy những quy định về sự hợp danh theo
nghĩa rộng trong các bộ luật thời cổ đại như Bộ luật Hammurabi của Babylon
vào khoảng năm 2300 trước Công nguyên. Thuật ngữ shutolin chỉ một dạng
hợp danh phi thương mại (not a commercial) xuất hiện từ năm 2000 trước
Cơng ngun, sau đó hình thành hợp danh thương mại từ những đồn hội
bn Do Thái. Trong Bộ luật Justinian của đế chế La Mã thế kỷ VI, những
quy định về hợp danh rất gần gũi luật hiện đại như nguyên tắc delectus
personas - sự lựa chọn của cá nhân, một nguyên tắc xác định sự lựa chọn tự
nguyện của các thương nhân khi cộng tác với nhau, hay nguyên tắc người
thực hiện hành vi thông qua hành vi của người khác cho bản thân người đó
(qui facit per alium facit per se).

Ở châu Âu, Châu Á, tập quán kinh doanh của các thương nhân, sự liên
kết những phường, hội người bn là tiền đề ban đầu hình thành nên những
hình thức hợp danh sau này.

10


Từ việc kinh doanh độc lập, nhỏ lẻ, các thương nhân nhận thấy rằng
để thích ứng được với sự địi hỏi của nền sản xuất ngày càng lớn mạnh, để
vươn tới chinh phục những thị trường rộng lớn và sôi động thì cách hay nhất là
mở rộng quy mơ kinh doanh. Muốn làm được điều này cần phải có sự liên kết
với nhiều người, vừa đáp ứng được nhu cầu phát triển vừa chia sẻ được rủi ro.
Những nhà đầu tư riêng lẻ bắt đầu tìm cách liên kết kinh doanh để
nhanh chóng tập hợp một số vốn lớn để phục vụ cho nhu cầu phát triển sản
xuất - kinh doanh, có thể giảm chi phí sản xuất thu lợi nhuận cao hơn, khả
năng cạnh tranh tốt hơn, và phân tán được rủi ro. Cơng ty là mơ hình kinh
doanh nhiều chủ bắt đầu được hình thành.
Ban đầu, cơng ty chỉ là những liên kết giản đơn của các thương nhân
quen biết nhau. Sự quen biết dựa trên yếu tố nhân thân tạo nên sự tin cậy về
mặt tâm lý. Do đó, loại hình cơng ty đầu tiên ra đời trên thế giới là công ty đối
nhân, tức là công ty gồm các thành viên quen biết tin cẩn nhau liên kết lại,
yếu tố con người quan trọng hơn yếu tố vốn.
Tuy vậy, hạn chế của công ty đối nhân là khơng thể tạo ra mơ hình
kinh doanh với quy mơ lớn, vì như vậy sẽ phá vỡ yếu tố nhân thân của thành
viên. Chính vì vậy mà một loại hình cơng ty khác đã ra đời và đáp ứng được
u cầu trên, đó là cơng ty đối vốn. Đây là loại hình cơng ty trong đó các
thành viên chỉ quan tâm đến phần vốn góp của mỗi người mà ít quan tâm đến
nhân thân của nhau. Đặc điểm quan trọng của công ty đối vốn là sự tách bạch
giữa tài sản công ty với tài sản cá nhân. Thông thường công ty đối vốn được
chia thành hai loại: Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.

Đặc điểm cơ bản của công ty đối nhân là không có sự tách bạch tài sản
cơng ty với tài sản cá nhân. Các dạng của công ty đối nhân gồm công ty hợp
danh, công ty hợp vốn đơn giản và công ty hợp vốn theo cổ phần.
Như vậy công ty hợp danh là loại hình đặc trưng của cơng ty đối nhân. Các
nhà nghiên cứu cho rằng đây là loại hình cơng ty ra đời sớm nhất trên thế giới.

11


Yếu tố nhân thân của thành viên hợp danh được coi trọng hàng đầu
khi thành lập cơng ty, trong đó người ta thường chú tâm tới tổng tài sản dân
sự hơn là số vốn góp vào cơng ty. Đối với bên thứ ba, việc định danh các
thành viên là rất quan trọng khi thực hiện các giao dịch với công ty. Điều đó
lý giải tại sao người ta gọi là công ty hợp danh
1.1.2. Khái niệm về công ty hợp danh theo pháp luật của một số
quốc gia
Không giống các loại hình cơng ty khác, cơng ty hợp danh cho đến
nay vẫn chưa có một định nghĩa chung, thống nhất ở các hệ thống pháp luật.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau như điều kiện kinh tế, xã hội, trình độ lập
pháp, xu hướng phát triển của cơ chế pháp luật trong thời kỳ hội nhập toàn
cầu khiến cho việc xây dựng một định nghĩa đầy đủ và cụ thể là không thể
thực hiện.
Pháp luật Pháp định nghĩa về công ty hợp danh (Société en nom
collectif - SNC) như sau: "Công ty hợp danh là cơng ty mà trong đó các thành
viên đều có tư cách thương gia chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới về các
khoản nợ của công ty" [20].
Như vậy, theo khái niệm của quốc gia đại diện cho hệ thống pháp luật
châu Âu lục địa này thì cơng ty hợp danh mang bản chất đối nhân tuyệt đối;
các thành viên trong công ty hợp danh bắt buộc phải có tư cách thương gia, và
cùng nhau chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty.

Năm 1776, khi nước Mỹ áp dụng hệ thống luật thơng lệ của Anh thì
pháp luật về cơng ty hợp danh cũng bắt đầu được áp dụng. Khái niệm về công
ty hợp danh (Partnership) được ghi nhận tại Luật thống nhất về công ty hợp
danh năm 1914, (sửa đổi năm 1992)" là sự liên kết gồm hai hay nhiều chủ sở
hữu và với tư cách là những đồng sở hữu họ cùng nhau kinh doanh để thu lợi
nhuận" [33].

12


Có thể hiểu ngắn gọn về sự hợp danh theo pháp luật Mỹ, đó là sự hợp
tác của từ hai chủ thể trở lên (có thể là cá nhân, các công ty…) trên phương
diện nhân thân, vốn, công sức lao động nhằm kinh doanh thu lợi nhuận.
Pháp luật Mỹ chia công ty hợp danh thành hai loại: công ty hợp danh
phổ thông và công ty hợp danh hữu hạn. Công ty hợp danh phổ thơng là loại
cơng ty chỉ có một loại thành viên chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa
vụ của cơng ty, cịn cơng ty hợp danh hữu hạn có hai loại thành viên riêng
biệt, thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và thành viên góp vốn chịu
trách nhiệm hữu hạn đối với các nghĩa vụ của công ty
Điều 1020 Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan quy định "Hợp
đồng thành lập công ty hợp danh hoặc công ty là hợp đồng theo đó hai hoặc
nhiều cá nhân thỏa thuận cùng nhau thực hiện công việc chung, trên nguyên
tắc chia sẻ lợi nhuận có được từ cơng việc đó" [3].
Pháp luật Thái Lan chia công ty hợp danh thành hai loại: công ty hợp
danh đơn thường và công ty hợp danh hữu hạn, trong đó quy định về cơng ty
hợp danh đơn thường tại Điều 1035 Bộ luật Dân sự thương mại như sau:
"Cơng ty hợp danh đơn thường là loại hình cơng ty mà ở đó tất cả các thành
viên cùng chịu trách nhiệm vô hạn đối với tất cả các nghĩa vụ của công ty hợp
danh" [3].
Loại hợp danh thứ hai, có thêm sự tham gia của thành viên chịu trách

nhiệm hữu hạn (Điều 1077)
Công ty hợp danh hữu hạn là loại hình cơng ty mà ở đó:
(1) Một hoặc nhiều thành viên có trách nhiệm hữu hạn
trong phần vốn góp mà họ cam kết riêng rẽ đóng góp vào cơng ty
hợp danh và
(2) Một hoặc nhiều thành viên có trách nhiệm vô hạn đối
với tất cả các nghĩa vụ của công ty hợp danh [3].

13


Có thể thấy mỗi quốc gia có có cách quy định khác nhau về công ty
hợp danh, nhưng tựu chung lại về bản chất ta đều thấy những biểu hiện sau:
Đây là loại hình cơng ty đối nhân, và yếu tố nhân thân của các thành viên
công ty luôn được đặt ra đầu tiên. Cơng ty có thể có tư cách pháp nhân hoặc
khơng có tùy theo quy định của mỗi nước. Thành viên trong cơng ty có thể
chỉ có thành viên hợp danh hoặc có cả thành viên góp vốn. Nhưng điểm
chung trong quy định của pháp luật các nước là khơng có sự tách bạch về tài
sản của công ty với tài sản của các thành viên hợp danh và các thành viên này
phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các ngĩa vụ của cơng ty.
Tóm lại, có thể xây dựng một khái niệm khái quát về công ty hợp
danh như sau: Công ty hợp danh là một dạng liên kết mang bản chất đối
nhân, thường không có tư cách pháp nhân. Các thành viên trong cơng ty có
thể chỉ có thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vơ hạn hoặc bao gồm cả
thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình
vào cơng ty.
1.1.3. Đặc điểm pháp lý của cơng ty hợp danh theo pháp luật một
số quốc gia
Khơng có định nghĩa chung về cơng ty hợp danh, do đó đương nhiên
khơng có những quy định khn mẫu, thống nhất về đặc điểm pháp lý của loại

hình liên kết này trong các hệ thống pháp luật trên thế giới. Luật pháp mỗi
nước đều đưa ra những quy chế pháp lý riêng cho công ty hợp danh. Tuy
nhiên, tựu trung lại, các quy định đều tương đối đồng nhất với nhau. Hãy
nhận diện công ty hợp danh qua qua những quy định của một số quốc gia đại
diện cho các hệ thống pháp luật điển hình trên thế giới.
+ Luật pháp của Pháp quy định về công ty hợp danh khá chặt chẽ và
cụ thể. Đây là một trong số những loại hình cơng ty điển hình được quy định
trong Bộ luật Thương mại Pháp từ năm 1807. Tổng tài sản dân sự và yếu tố
định danh của các thành viên hợp danh rất quan trọng. Bởi vậy, cho đến năm

14


1985, luật pháp của Pháp vẫn quy định tên gọi của công ty phải bao gồm tên
của tất cả các thành viên hợp danh.
Phải có ít nhất hai thành viên để thành lập công ty hợp danh. Về
ngành nghề, công ty hợp danh Pháp có thể hoạt động trong bất kỳ ngành nghề
nào, kể cả thương mại hay dân sự. Tuy vậy, một số ngành nghề như bảo hiểm
và các nghề tự do được pháp luật điều chỉnh.
Nét đặc trưng trong luật Pháp là xu hướng phân biệt giữa dân luật và
thương luật. Do đó, các thành viên phải có tư cách thương nhân và phải có
năng lực hành vi để hành nghề, đây là điều kiện bắt buộc. Tuy nhiên luật chỉ
yêu cầu tư cách thương nhân của thành viên, cịn cơng ty khơng có tư cách
này. Người chưa thành niên, hoặc người đã thành niên nhưng bị mất hoặc hạn
chế năng lực hành vi dân sự, dù có người giám hộ cũng không thể là thành
viên của công ty hợp danh. Quy định về tư cách thương gia có ý nghĩa rất
quan trọng đến chế độ trách nhiệm vô hạn của các thành viên. Bởi đặc trưng
của loại hình này là sự liên kết của số lượng ít những người có mối quan hệ
quen biết tin tưởng lẫn nhau- yếu tố tạo nên uy tín của cơng ty.
Cơng ty hợp danh là loại hình cơng ty mà các thành viên dễ gặp rủi ro

nhất bởi tính chịu trách nhiệm cá nhân và liên đới của họ. Khi công ty có một
khoản nợ, đầu tiên là chủ nợ yêu cầu cơng ty thanh tốn, nhưng trong trường
hợp cơng ty khơng thực hiện được nghĩa vụ đó thì chủ nợ có quyền u cầu
bất cứ thành viên nào của cơng ty thực hiện nghĩa vụ. Tính liên đới của trách
nhiệm cho phép chủ nợ quyền yêu cầu này, và thành viên được chủ nợ chỉ
định chỉ có thể thực hiện mà không được phép yêu cầu chủ nợ phải chia trách
nhiệm cho các thành viên khác. Đương nhiên là sau khi trả nợ xong, thành
viên đó có quyền yêu cầu cơng ty hồn trả lại hoặc u cầu các thành viên
khác hồn trả lại theo tỷ lệ vốn góp hoặc theo điều lệ công ty. (Bộ luật
Thương mại, Điều 1844, khoản 1). Nếu quan niệm rằng trách nhiệm hữu hạn
là biểu hiện của bản chất đối vốn và trách nhiệm vô hạn là biểu hiện của bản

15


chất đối nhân thì có thể xếp cơng ty hợp danh của Pháp là công ty mang bản
chất đối nhân tuyệt đối.
Mặc dù quy trình thủ tục cơng ty hợp danh ở Pháp rất nghiêm ngặt,
song công ty hợp danh vẫn tồn tại với một số lượng đáng kể trong nền kinh tế
Pháp. Bởi vì thành viên hợp danh theo luật Thương mại Pháp không hạn chế
là cá nhân, mà còn bao gồm cả pháp nhân. Điều này cho phép hình thành mơ
hình kinh doanh kết hợp, vừa tránh được trách nhiệm vơ hạn của cá nhân mà
vẫn có thể khai thác được những điểm mạnh của công ty hợp danh. (Thành
viên hợp danh là pháp nhân, nhưng thực ra người điều hành công ty là các cá
nhân - những người đứng đầu pháp nhân; tương tự như công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên ở Việt Nam).
Luật Thương mại Pháp quy định rằng, khi một trong số các thành viên
chết, bị phá sản hay bị cấm thực hiện một hoạt động thương mại, công ty sẽ tự
động giải thể trừ trường hợp điều lệ công ty quy định khác. Quy định này
khiến cho những người thừa kế không có cơ hội trở thành thành viên của cơng

ty hợp danh khi thành viên của cơng ty đó là người để lại thừa kế qua đời.
Việc một thành viên cũ ra khỏi công ty hay một thành viên mới vào cơng ty
cũng địi hỏi phải có sự nhất trí của các thành viên. Vấn đề chuyển nhượng
phần vốn góp phải được sự nhất trí của tất cả các thành viên, việc chuyển
nhượng sẽ tuân theo điều lệ công ty giống như cơng ty trách nhiệm hữu hạn.
Chính yếu tố đối nhân khiến cho các thành viên được quyền quản lý, giám sát
chặt chẽ mọi hoạt động của công ty, đồng thời gắn kết ràng buộc họ với nhau.
Việc điều hành công ty do người quản lý thực hiện. Người quản lý có
thể là thể nhân hoặc pháp nhân, có thể là người Pháp hoặc người nước ngồi,
có thể là thành viên hoặc không là thành viên của công ty. Người quản lý
cũng đồng thời là người đại diện cho công ty.
Công ty hợp danh của Pháp luôn là công ty thương mại kể cả khi
ngành nghề kinh doanh của công ty không phải là các hành vi thương mại

16


theo luật của Pháp, trong mọi trường hợp nó đều phải tuân thủ mọi nghĩa vụ
của thương gia và tranh chấp của cơng ty có thể giải quyết tại tịa Thương
mại. Quy định về tư cách thương gia của thành viên cũng thể hiện rõ nét tính
thương mại của cơng ty.
Ngoài những quy định chung được áp dụng với tất cả các cơng ty, có
một ngoại lệ đối với cơng ty hợp danh, đó là việc thành lập phải được công bố
trên báo, và nếu không thực hiện quy định này có thể dẫn tới chế tài là cơng ty
bị vô hiệu (Điều L.235 - 2 Bộ luật thương mại Pháp)
Thành viên hợp danh còn xuất hiện trong một loại hình cơng ty nữa ở
Pháp, đó là cơng ty hợp vốn đơn giản (Société en commandite simple). Cơng
ty này có bản chất giống công ty hợp danh hữu hạn của Mỹ, cơng ty hợp danh
có thành viên góp vốn ở Việt Nam theo luật Doanh nghiệp năm 2005. Thành
viên hợp danh có địa vị pháp lý tương tự thành viên trong công ty hợp danh,

chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới, có tư cách thương nhân, quyền quản lý
cơng ty. Trong loại hình cơng ty này cịn có thành viên góp vốn, khơng có tư
cách thương nhân, cũng khơng phải cổ đông như trong công ty hợp vốn cổ
phần. Chế độ trách nhiệm của thành viên góp vốn giống cổ đơng trong cơng
ty cổ phần, đó là được giới hạn trong phần vốn góp vào cơng ty, nhưng điểm
khác cổ đông là họ không được phép chuyển nhượng vốn dưới dạng chứng
khốn. Tuy luật pháp của Pháp khơng gọi tên loại hình này là cơng ty hợp
danh, nhưng về đặc điểm pháp lý cho thấy đây là một biến thể của công ty
hợp danh với bản chất đối nhân tương đối.
+ Pháp luật Mỹ quy định công ty hợp danh tại khoản 1 Điều 6 Luật
Công ty hợp danh là " một hội gồm hai thể nhân trở lên và với tư cách là
những đồng sở hữu họ cùng nhau kinh doanh để thu lợi nhuận" [33]. Thuật
ngữ "đồng sở hữu" ở đây được hiểu là việc các thành viên là cá nhân cùng sở
hữu tài sản của công ty cũng như cùng chia sẻ lợi nhuận và rủi ro phát sinh từ
hoạt động kinh doanh của công ty.

17


Để thành lập công ty hợp danh tại Mỹ, cần có ít nhất hai thành viên
trở lên, tự nguyện, liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty. Luật
thống nhất về công ty hợp danh của Mỹ (Unfrorm Partnership Act) quy định
các cá nhân, công ty hợp danh, cơng ty có tư cách pháp nhân, kể cả người vị
thành niên đều có quyền trở thành thành viên của công ty hợp danh. Tuy
nhiên người vị thành niên có thể rút khỏi cơng ty hợp danh bất kỳ lúc nào, và
điều này không ảnh hưởng tới sự tồn tại của công ty.
Những thành viên của công ty hợp danh tại Mỹ cùng nhau tiến hành
các hoạt động kinh doanh thương mại hoặc nghề nghiệp nhằm tìm kiếm lợi
nhuận. Nếu như những hoạt động đó được thực hiện với mục đích phi lợi
nhuận thì họ khơng được coi là thành viên hợp danh.

Công ty hợp danh theo pháp luật Mỹ được chia thành hai loại: Công ty
hợp danh phổ thơng và cơng ty hợp danh hữu hạn (hay cịn gọi là hợp danh
tuyệt đối và tương đối).
Công ty hợp danh phổ thơng là loại hình liên kết mang đầy đủ bản
chất đối nhân, nó cũng là loại hình cơng ty ra đời sớm nhất. Sự hợp danh ở
đây được hình thành từ những thỏa thuận giữa hai cá nhân hoặc pháp nhân trở
lên nhằm hợp tác cùng nhau kinh doanh vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Yếu
tố nhân thân có vai trị quan trọng và được các thành viên quan tâm hàng đầu.
Loại hình cơng ty này khơng có tư cách pháp nhân, luật pháp Mỹ coi
nó là thực chất là một dạng hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong đó chứa đựng
những thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của các thành viên (các bên hợp danh)
chứ không phải của công ty. Hợp đồng hợp danh được phép tồn tại dưới dạng
văn bản hoặc lời nói hoặc hành vi. Đây là một quy định rất cởi mở của pháp
luật Mỹ, "tuy nhiên đôi khi xảy ra tranh chấp, các bên phải chứng minh được
có hình thành quan hệ hợp danh phổ thông hay không, nên hợp đồng bằng lời
nói thường hạn chế" [1, tr. 32].

18


Các thành viên trong công ty hợp danh phổ thông chịu trách nhiệm vô
hạn và liên đới với những khoản nợ của cơng ty, có nghĩa là họ phải chịu
trách nhiệm bằng tài sản cá nhân của mình đối với những khoản lỗ từ hoạt
động kinh doanh. Thậm chí, ngay cả khi họ đã ra khỏi công ty, nhưng vẫn bị
ràng buộc trách nhiệm bởi những hợp đồng hoặc thương vụ được thiết lập
trước thời điểm họ thôi là thành viên.
Các thành viên trong công ty hợp danh phổ thông khơng thể chuyển
nhượng vốn góp, vì họ hoạt động kinh doanh dưới một tên chung nên ảnh
hưởng đến sự tồn tại của công ty. Nếu một thành viên hợp danh rút khỏi cơng
ty, hoặc bị chết, mất tích theo tun bố của tịa án, thì cơng ty có thể bị giải

thể. Quy định khắt khe này cho thấy vai trò của yếu tố nhân thân trong loại
hình liên kết đặc biệt này. Ngồi quy định chặt chẽ đó, pháp luật Mỹ ít can
thiệp vào cơng ty này, và thay vào đó là sự tự do hợp đồng của các thành viên
được luật trao cho một phạm vi rất rộng rãi.
Công ty hợp danh hữu hạn (limited partnership) theo quy định của
Luật thống nhất về công ty hợp danh hữu hạn Mỹ (năm 1916, sửa đổi năm
1976) là hợp danh trong đó bao gồm hai hay nhiều người, với ít nhất một
thành viên hợp danh và một thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn. Khác với
hợp danh phổ thông, hợp danh hữu hạn là sự kết hợp hai chế độ trách nhiệm,
chế độ trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh và chế độ trách nhiệm
hữu hạn của thành viên góp vốn. Sự tồn tại hai loại thành viên hợp danh và
góp vốn là sự kết hợp ưu thế của công ty hợp danh phổ thông và lợi thế huy
động vốn góp của các loại hình cơng ty khác. "Cơng ty hợp danh hữu hạn có
thể thực hiện những hoạt động kinh doanh như công ty hợp danh phổ thông,
ngoại trừ một số ngành như bảo hiểm, ngân hàng" [1, tr. 33].
Thành viên hợp danh về nghĩa vụ, điều kiện cũng giống như thành
viên trong công ty phổ thông, nhưng thành viên hữu hạn thì trách nhiệm của
họ chỉ giới hạn trong số vốn góp. Họ khơng có quyền tham gia quản lý công

19


ty, chỉ đơn thuần góp vốn và hưởng lợi nhuận, khơng bị lấy tài sản riêng để
thanh tốn cho các khoản nợ của cơng ty. Đây chính là sự hiện diện của yếu
tố đối vốn trong công ty đối nhân này, vì thế nó khơng cịn mang bản chất đối
nhân nguyên thủy, truyền thống nữa.
Trong việc quản lý điều hành công ty, thành viên hợp danh vẫn là
người giữ vị trí nịng cốt, có quyền ngang nhau trong việc quyết định hoạt
động hay giải thể công ty. Sự tồn tại của công ty hầu như không bị chi phối
bởi sự tồn tại của thành viên góp vốn. Điều này khiến cho việc chuyển

nhượng vốn góp, rút vốn, để lại thừa kế khá dễ dàng đối với thành viên hữu
hạn, không cần thiết phải thông qua sự đồng ý của các thành viên khác.
Pháp luật Mỹ can thiệp vào công ty hợp danh hữu hạn nhiều hơn hợp
danh phổ thông, bởi sự hiện diện của thành viên góp vốn. Quy định về số
lượng thành viên, về thủ tục thành lập. Nếu như việc thành lập công ty phổ
thông chỉ cần hợp đồng giữa các thành viên hợp danh, thì việc thành lập loại
hình hợp danh hữu hạn địi hỏi phải có giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
Số lượng thành viên hợp danh có thể bị hạn chế bởi tính chất đối nhân,
nhưng số lượng thành viên góp vốn thì khơng bị hạn chế bởi nó chỉ liên quan
tới việc tăng giảm quy mô kinh doanh chứ không ảnh hưởng gì đến bộ máy
quản lý, nhân sự của công ty.
Về tư cách pháp lý, cũng như công ty hợp danh phổ thơng, loại hình
hợp danh hữu hạn khơng có tư cách pháp nhân. Mọi hoạt động đều được giao
dịch dưới tư cách thương gia của các thành viên hợp danh.
+ Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan quy định "Hợp đồng thành
lập công ty hợp danh hoặc cơng ty là hợp đồng theo đó hai hoặc nhiều cá
nhân thỏa thuận cùng nhau thực hiện công việc chung, trên nguyên tắc cùng
chia sẻ lợi nhuận có được từ cơng việc đó" [3].

20


Về cơ bản, các quy định về công ty hợp danh của Thái Lan giống công
ty hợp danh của Mỹ. Pháp luật Thái Lan cũng chia công ty hợp danh thành
hai loại: hợp danh đơn thường và hợp danh hữu hạn.
Điều 1025 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định "Công ty
hợp danh đơn thường là loại hình cơng ty mà ở đó tất cả các thành viên cùng
chịu trách nhiệm vô hạn đối với tất cả các nghĩa vụ của công ty hợp danh" [3].
Như vậy, loại hình này giống cơng ty hợp danh phổ thơng của Mỹ,

cơng ty hợp danh của Pháp, đó là cũng bao gồm sự liên kết dựa trên yếu tố
nhân thân của các thành viên. Chế độ trách nhiệm là vô hạn và liên đới, trách
nhiệm của thành viên hợp danh đối với các nghĩa vụ của công ty chỉ chấm dứt
sau hai năm kể từ ngày thành viên này ra khỏi cơng ty.
Pháp luật Thái Lan có những quy định tạo ra cơ chế kiểm soát chặt
chẽ giữa các thành viên, như việc quy định tất cả các thành viên trong công ty
đơn thường phải chịu trách nhiệm đối với bất kỳ hành vi của bất kỳ thành
viên nào trong cơng ty liên quan đến q trình kinh doanh, trách nhiệm này là
liên đới và vô hạn. Quy định này tạo ra sự liên hệ chặt chẽ giữa các thành viên,
mọi hoạt động nhân danh công ty phải được thông qua tất cả các thành viên.
Nhằm bảo vệ lợi ích chung của cơng ty cũng như lợi ích của các thành
viên, pháp luật Thái Lan quy định các thành viên hợp danh khơng được tự
mình tiến hành các hoạt động kinh doanh có cùng tính chất với việc kinh
doanh của cơng ty bất kể vì lợi ích của mình hay người khác, trừ trường hợp
được sự đồng ý của các thành viên còn lại. Rõ ràng sự tồn tại và phát triển của
cơng ty hợp danh phụ thuộc vào trình độ, uy tín cá nhân, bằng cấp, kinh
nghiệm của mỗi thành viên, do đó nếu các thành viên tự mình tiến hành riêng
rẽ các hoạt động kinh doanh cùng tính chất với công ty sẽ ảnh hưởng trực tiếp
tới quyền lợi của công ty cũng như các thành viên khác. Việc vi phạm quy
định này sẽ bị áp dụng chế tài là phải nộp toàn bộ lợi nhuận thu được hoặc bồi
thường những tổn thất do hoạt động kinh doanh đó gây ra.

21


Giống như đa số các quốc gia, những công ty có thành viên chịu trách
nhiệm vơ hạn và liên đới như công ty hợp danh thường không bị pháp luật đòi
hỏi nhiều thủ tục pháp lý khi thành lập, và những thỏa thuận trong hợp đồng
thành lập luôn luôn được pháp luật tôn trọng. Việc thành lập công ty đơn
thường ở Thái Lan khá thuận lợi về mặt thủ tục, việc đăng ký ở Bộ thương

mại là không bắt buộc.
Nếu công ty hợp danh đơn thường chỉ gồm thành viên hợp danh, thì
cơng ty hợp danh hữu hạn tại Thái Lan cũng giống ở Mỹ, gồm hai loại thành
viên. Điều 1077 luật Dân sự và thương mại Thái Lan quy định:
Cơng ty hợp danh hữu hạn là loại hình cơng ty mà ở đó:
(1) Một hoặc nhiều thành viên có trách nhiệm hữu hạn
trong phần vốn góp mà họ cam kết riêng rẽ đóng góp vào cơng ty
hợp danh; và
(2) Một hoặc nhiều thành viên cùng nhau có trách nhiệm vô
hạn đối với tất cả các nghĩa vụ của công ty hợp danh [3].
Số lượng thành viên hợp danh có thể là một, vị trí pháp lý tương tự
thành viên trong công ty hợp danh đơn thường. Họ là người chịu trách nhiệm
quản lý, điều hành công ty, nếu họ khơng tham gia điều hành trực tiếp thì có
quyền giám sát, kiểm tra hoạt động này.
Thành viên góp vốn chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty
trong phạm vi số vốn góp vào cơng ty. Họ khơng tham gia vào việc quản lý,
và luật quy định nếu họ can thiệp vào việc quản lý cơng ty thì họ cũng phải
chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới. Quy định này nhằm bảo vệ quyền quản
lý, điều hành của thành viên hợp danh trong trường hợp thành viên hữu hạn
đòi hỏi can thiệp quá sâu. Luật pháp Thái Lan rất chặt chẽ khi quy định về
trách nhiệm của thành viên hữu hạn trong trường hợp họ thông báo với bên
thứ ba về số vốn đóng góp của họ, nếu lớn hơn số vốn đã đăng ký thì họ phải
chịu trách nhiệm trong số vốn thơng báo đó. Quy định này nhằm bảo vệ bên

22


thứ ba, cũng như uy tín của cơng ty. Có thể nhận thấy Thái Lan rất coi trọng
yếu tố nhân thân cũng như uy tín cá nhân của các thành viên hợp danh, và có
nhiều quy định giúp họ bảo vệ được danh tiếng của công ty.

Thành viên hữu hạn có thể chuyển nhượng phần vốn góp của mình, để
lại thức kế tài sản và tư cách thành viên mà không cần thông qua các thành
viên khác. Ngược lại, điều này rất khó thực hiện ở thành viên hợp danh, bởi
nó sẽ dẫn đến sự giải thể hoặc phá sản của cơng ty.
Thành viên hữu hạn cũng có thể tiến hành bất cứ hoạt động kinh
doanh nào họ muốn và trong khuân khổ pháp luật mà không cần quan tâm
hoạt động đó có cùng tính chất hay cạnh tranh với công ty mà họ đang là
thành viên không.
Việc thành lập công ty hợp danh hữu hạn được pháp luật quy định
chặt chẽ hơn công ty hợp danh đơn thường do ngồi yếu tố hợp danh cịn có
thêm yếu tố hợp vốn. Việc đăng ký kinh doanh ở cơ quan nhà nước có thẩm
quyền là thủ tục bắt buộc, cơng ty chỉ được phép hoạt động sau khi được cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+ Qua phân tích đặc điểm pháp lý của công ty hợp danh của những
nước điển hình đại diện cho hai hệ thống pháp luật trên thế giới, có thể thấy
rằng việc đưa ra những tiêu chí chung về cơng ty hợp danh là khơng thể, bởi
quan niệm về hợp danh, công ty hợp danh ở mỗi nước là khác nhau. Ví dụ
hợp danh tại một số nước như Mỹ, Việt Nam hiểu là sự liên kết của ít nhất hai
thành viên hợp danh, cịn một số nước như Đức, Thái Lan thì hợp danh là sự
liên kết tối thiểu một thành viên hợp danh với các thành viên góp vốn khác.
Hoặc về tư cách pháp nhân của công ty, một số nước quy định công ty hợp
danh có tư cách pháp nhân như Pháp, Đức, Việt Nam, và có những nước
khơng quy định tư cách pháp nhân cho công ty hợp danh như Anh, Mỹ, Thái
Lan. Nhưng tựu trung lại, ta có thể thấy cơng ty hợp danh có một số đặc điểm
cơ bản sau:

23


Thứ nhất, yếu tố nhân thân của các thành viên hợp danh ln giữ vai

trị quan trọng và quyết định trong việc hình thành cơng ty. Bất kỳ một cơng
ty nào khi thành lập đều đòi hỏi ở các thành viên sự tham gia đóng góp phần
vốn nhất định. Nhưng trong cơng ty hợp danh, phần đóng góp của các thành
viên xuất phát từ đặc điểm nhân thân của họ, và nó được thể hiện khơng chỉ
dưới dạng vật chất nhất định như đa số các loại hình cơng ty khác, mà cịn thể
hiện dưới nhiều dạng khác như trình độ, tay nghề, kỹ năng thực hành, bằng
cấp, uy tín cá nhân, bằng sáng chế… Dạng vốn góp này khơng phải ai cũng có
được, bởi vậy việc lựa chọn thành viên tham gia vào công ty hợp danh không
hề đơn giản. Điều này kéo theo hệ quả là việc rút khỏi công ty của mỗi thành
viên đều ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty. Nếu một công ty đơn thuần chỉ
hoạt động dựa vào phần vốn góp vật chất, thì việc một thành viên rút vốn chỉ
ảnh hưởng đến việc thu hẹp quy mô kinh doanh, nhưng ở công ty hợp danh,
do yếu tố nhân sự, yếu tố con người với những đặc điểm nhân thân phù hợp
với lĩnh vực kinh doanh của công ty được xếp trên yếu tố vốn góp vật chất,
nên nếu một thành viên hợp danh rút vốn, chết, hoặc bị mất uy tín nghề
nghiệp đều có thể dẫn tới nguy cơ cơng ty chấm dứt hoạt động. Vì thế, pháp
luật các nước đều quy định rất chặt chẽ việc chuyển nhượng vốn của các
thành viên hợp danh, hoặc là cấm, hoặc là đưa ra những điều kiện khắt khe
cho việc chuyển nhượng.
Có thể nói, yếu tố nhân thân của mỗi thành viên hợp danh là một trong
những yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại của công ty. Thanh danh
cá nhân thành viên cũng chính là thanh danh của cơng ty. Đó cũng là yếu tố
khiến cho sự liên kết giữa các thành viên chặt chẽ hơn, và cũng là lý do dẫn
đến chế độ trách nhiệm của các thành viên.
Thứ hai, về chế độ trách nhiệm của các thành viên trong cơng ty. Nếu
trong cơng ty hợp danh có bản chất đối nhân tuyệt đối, thì trách nhiệm của tất
cả các thành viên là vô hạn và liên đới trước mọi nghĩa vụ của công ty. Đây là
một đặc điểm pháp lý đặc biệt và chỉ có ở cơng ty hợp danh. Đặc điểm đặc

24



thù này tạo nên sự hấp dẫn cho các đối tác kinh doanh của cơng ty. Như đã
phân tích ở trên, chính đặc điểm nhân thân của mỗi cá nhân thành viên tạo ra
chế độ trách nhiệm liên đới lẫn nhau, bởi vậy, các cá nhân khi thực hiện
những hoạt động dưới danh nghĩa công ty đều phải thông qua ý kiến của
thành viên còn lại. Đây là một đặc trưng cơ bản của cơng ty hợp danh nói
riêng và cơng ty đối nhân nói chung.
Ngồi chế độ trách nhiệm vơ hạn của các thành viên hợp danh, loại
hình cơng ty hợp danh có bản chất đối nhân tương đối cịn có chế độ trách
nhiệm hữu hạn của các thành viên góp vốn. Vốn góp bao nhiêu thì trách
nhiệm tương ứng bấy nhiêu đối với các khoản nợ của công ty. Thơng thường
thành viên góp vốn khơng tham gia vào hoạt động kinh doanh của công ty.
Thứ ba, tư cách pháp lý của thành viên hợp danh không thể chuyển
nhượng hay để lại thừa kế (trừ khi được các thành viên đồng ý). Điều này
xuất phát từ bản chất đối nhân của cơng ty. Vì thế, khi một thành viên ra khỏi
cơng ty, hoặc chết thì cơng ty đó có thể sẽ phải giải thể.
Thứ tư, tên gọi của công ty hợp danh phản ánh mối liên hệ chặt chẽ
giữa các thành viên hợp danh, và thường liên quan đến nhân thân của thành
viên. Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có tên gọi, nhưng riêng loại hình cơng ty
hợp danh tên gọi mang ý nghĩa rất quan trọng vì nó luôn đi kèm với nhân thân
của thành viên hợp danh. Ví dụ tên cơng ty là tên gọi của các thành viên ghép
lại, hay tên gọi của người có uy tín nhất và khơng bao giờ kèm theo tên thành
viên góp vốn.
Như vậy, với một số đặc điểm pháp lý nêu trên, có thể nhận dạng cơng
ty hợp danh và phân biệt được chúng với các loại hình cơng ty khác một cách
rõ ràng.
Qua sự phân tích các quy định về công ty hợp danh của pháp luật một
số quốc gia, ta có thể thấy sự quy định rõ ràng và khá cởi mở của pháp luật
dành cho loại hình liên kết này. Trước hết, là sự phân định rạch ròi hai loại


25


hình hợp danh là hữu hạn và vơ hạn. Điều này giúp cho các nhà đầu tư hiểu rõ
hơn về bản chất của sự liên kết, quyền và nghĩa vụ của họ, quy chế thành lập,
hoạt động và giải thể công ty, đồng thời nắm bắt và lựa chọn kịp thời khi cơ
hội đầu tư đến.
Ngoài ra, một quy định rất thơng thống của pháp luật một số nước là
cho phép thành viên hợp danh không chỉ hạn chế là cá nhân, mà mở rộng cả
đối tượng là pháp nhân. Quy định này tạo điều kiện cho các pháp nhân dễ
dàng liên kết với các đối tác khác mà không cần phải thành lập công ty mới,
chỉ cần lập một bản hợp đồng hợp tác kinh doanh, vừa tiết kiệm được thời
gian lại giản tiện chi phí, lại vẫn đảm bảo được đòi hỏi của pháp luật.
1.1.4. Vai trò của cơng ty hợp danh
Là một trong những loại hình cơng ty xuất hiện sớm nhất trong lịch
sử, và cho đến ngày nay vẫn tiếp tục phát triển về số lượng, điều này cho thấy
vai trị vơ cùng quan trọng của công ty hợp danh trong nền kinh tế. Bên cạnh
vai trị chung như các cơng ty khác, cơng ty hợp danh cịn có vai trị riêng
khiến cho nó khơng thể thiếu được trong môi trường kinh doanh.
Trước hết, sự ra đời của công ty hợp danh đáp ứng được nhu cầu của
những nhà đầu tư nhỏ, mong muốn cùng liên kết chia sẻ với những người
quen thân, anh em họ hàng trong gia đình, dịng tộc, đồng nghiệp. Có rất
nhiều lý do khiến những nhà đầu tư thích tìm kiếm người hợp tác với mình là
những người họ đã biết từ trước, hoặc những người có uy tín nghề nghiệp.
Bản chất đối nhân Bên cạnh đó nó cũng đáp ứng nhu cầu liên kết giữa các tập
đồn, cơng ty bằng cách tạo ra chi nhánh chung hoặc công ty con.
Công ty hợp danh ra đời cũng đáp ứng được nhu cầu kinh doanh cũng
như sử dụng các dịch vụ như khám chữa bệnh, tư vấn thiết kế cơng trình xây
dựng, kiểm tốn, tư vấn luật… những ngành nghề địi hỏi phải có tính nghiêm

túc và trách nhiệm cao của những người hành nghề. Sự đòi hỏi của pháp luật
đối với tư cách pháp lý của các thành viên sẽ khiến cho người tiêu dùng yên

26


×