Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tứ thơ và cái tôi trữ tình trong thơ hữu thỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.56 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------

PHẠM THỊ THANH MAI

TỨ THƠ VÀ CÁI TƠI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ HỮU THỈNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chun ngành: Lí luận văn học

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------

PHẠM THỊ THANH MAI

TỨ THƠ VÀ CÁI TƠI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ HỮU THỈNH
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đoàn Đức Phƣơng

Hà Nội - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của PGS. TS Đoàn Đức Phƣơng. Các nội dung nghiên
cứu và các kết quả trong đề tài này là hồn tồn trung thực và chưa cơng bố
dưới bất cứ hình thức nào trước đây. Những dẫn chứng phục vụ cho việc so
sánh, phân tích được chính tác giả luận văn thu thập từ các nguồn khác nhau
có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng một số nhận xét, đánh giá của các nhà
nghiên cứu đi trước đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Nếu có bất kỳ sự gian lận nào, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về nội
dung luận văn của mình.
Hà Nội, ngày tháng

năm 201

Tác giả luận văn

Phạm Thị Thanh Mai


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng cảm ơn sâu sắc tới PGS. TS Đoàn Đức Phƣơng,
người thầy đã hướng dẫn tận tình, đưa ra những định hướng, góp ý, nhận xét
trong suốt q trình nghiên cứu và hồn thiện luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Văn học, trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc Gia Hà Nội tham gia
giảng dạy các mơn học trong chương trình đào tạo Thạc sĩ Văn học đã cung
cấp kiến thức nền tảng cho luận văn.
Xin cảm ơn sự khích lệ, động viên của đồng nghiệp đã giúp tơi hồn

thiện q trình học tập và thực hiện đề tài.
Xin gửi lời cảm ơn đến các bạn học viên lớp cao học Văn học K58- 2013
đã cùng tôi trao đổi, chia sẻ các kiến thức trong quá trình cùng học tập và làm
luận văn.
.

Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến những người thân trong gia đình đã ln

động viên, hỗ trợ và tạo động lực cho tơi trong q trình tham gia chương
trình học.
Dù có nhiều cố gắng, song chắc chắn luận văn đề tài Tứ thơ và cái tơi
trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh khơng tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tơi
mong muốn nhận được sự góp ý chân thành của thầy cô và các bạn. Tôi hi
vọng những nghiên cứu đặt ra trong luận văn sẽ trở thành nguồn tư liệu có giá
trị đối với việc dạy học tác phẩm văn chương của Hữu Thỉnh trong nhà
trường phổ thông.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng

năm 201

Tác giả luận văn

Phạm Thị Thanh Mai


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 4

3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................... 7
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7
5. Cấu trúc luận văn........................................................................................... 8
NỘI DUNG....................................................................................................... 9
Chƣơng 1: SÁNG TÁC THƠ VÀ QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA
HỮU THỈNH ................................................................................................... 9
1.1 Hành trình sáng tạo ..................................................................................... 9
1.2 Quan điểm nghệ thuật ............................................................................... 14
Chƣơng 2: TỨ THƠ VÀ CẤU TỨ TRONG THƠ HỮU THỈNH ............ 26
2.1 Khái lược về tứ thơ và cấu tứ trong thơ ................................................... 26
2.1.1 Tứ thơ ..................................................................................................... 26
2.1.2 Cấu tứ ..................................................................................................... 29
2.2 Loại hình tứ thơ trong thơ Hữu Thỉnh ...................................................... 31
2.2.1 Tứ thơ về tình cảm gia đình ................................................................... 31
2.2.2 Tứ thơ về tình u ................................................................................... 37
2.2.3 Tứ thơ về nỗi cơ đơn............................................................................... 40
2.3 Nghệ thuật tổ chức tứ thơ trong thơ Hữu Thỉnh ....................................... 44
2.3.1 Cấu tứ liên tưởng ................................................................................... 44
2.3.2 Cấu tứ gợi mở......................................................................................... 51
2.3.3 Cấu tứ kết chuỗi ..................................................................................... 54
Chƣơng 3: CÁI TƠI TRỮ TÌNH TRONG THƠ HỮU THỈNH .............. 58
3.1 Khái lược về cái tơi trữ tình ...................................................................... 58
3.2 Biểu hiện cái tơi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh ......................................... 63


3.2.1 Cái tôi trách nhiệm với Tổ quốc ............................................................ 63
3.2.2 Cái tôi nhạy cảm, tinh tế ........................................................................ 67
3.2.3 Cái tôi đầy trăn trở suy tư giữa cuộc đời............................................... 71
3.3 Phương thức biểu hiện cái tơi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh .................... 77
3.3.1 Ngôn ngữ thơ .......................................................................................... 77

3.3.2 Giọng điệu .............................................................................................. 81
3.3.3 Biểu tượng thơ ........................................................................................ 83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 95


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc với chiến thắng vào ngày 30-

4-1975 đã đánh dấu một kỉ nguyên mới, lật một trang mới trong lịch sử dân
tộc. Hịa chung với khí thế chống giặc ngoại xâm, văn học đã có đóng góp
khơng nhỏ trong việc khích lệ, cổ động tinh thần cho cuộc kháng chiến. Đồng
thời chính cuộc đấu tranh giành độc lập này đã thúc đẩy sự phát triển mạnh
mẽ của nền thơ ca Việt Nam với sự lớn mạnh về đội ngũ sáng tác. Chưa bao
giờ lực lượng sáng tác thơ lại tập hợp được nhiều thế hệ và nhiều phong cách,
vừa thống nhất vừa bổ sung cho nhau như thời kì này. Từ những nhà thơ xuất
hiện từ trước những năm 1975 như Tố Hữu, Tế Hanh, Xuân Diệu, … đến các
nhà thơ thời kì kháng chiến chống Pháp như Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi,
Hồng Trung Thơng, … tất cả đều có những sáng tác nổi bật và gặt hái được
nhiều thành cơng. Cùng với đó, thời kì này đã xuất hiện rất nhiều các nhà thơ
trẻ với sự sáng tạo độc đáo, mang lại luồng gió mới và đã sớm khẳng định tên
tuổi của chính mình như: Thanh Thảo, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm,
Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh …
Cùng với sự phát triển đông đảo của số lượng các tác giả, diện mạo và
khuynh hướng văn học cũng có một sự phát triển tương đối rõ ràng. Các tác
phẩm viết về hiện thực đặc biệt là hiện thực chiến tranh đã khơng cịn là hiện
thực “nhìn thấy” nữa mà thay vào đó là được hồi tưởng lại trong kí ức của tác

giả. Có lẽ bởi vậy, chiến tranh khơng đơn giản là được nhìn nhận bởi những
gì đang diễn ra, sự khốc liệt của cuộc kháng chiến dân tộc, tinh thần đấu tranh
quật cường của nhân dân, … mà còn là những nỗi đau trĩu nặng với những vết
thương nhức nhối khó lành. Và với sự thay đổi về nhu cầu sáng tác, thể loại
trường ca đã được xuất hiện rất nhiều gắn với những tên tuổi lớn như Thanh
1


Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Phạm Tiến Duật … Những trường ca
ra đời thể hiện nhu cầu tổng kết về chiến tranh với cái nhìn tổng quát nhất,
kéo dài trong cả một cuộc kháng chiến từ những giây phút ban đầu cho tới
khi đến thời bình. Đó là một cuộc chiến đầy đau thương mất mát và cũng có
nhiều hi sinh.
Bên cạnh việc viết về chiến tranh, giai đoạn văn học này cịn viết nhiều
về cái tơi cá nhân, những âu lo trong cuộc sống đời thường của mỗi con
người. Những nỗi buồn nhân sinh, sự ưu tư trước cuộc đời dần dần được bày
tỏ qua cái tôi cá nhân. Các nhà thơ ý thức được đã đến lúc tách rời cái ta
chung để đi tìm hiểu chiều sâu tâm hồn con người. Những nỗi buồn trong thời
kì này khơng giống như trong Thơ mới, muốn thốt ly hiện thực mà gắn liền
với hiện thực, bộc lộ những cảm xúc cá nhân trước cuộc đời, con người,
những thay đổi làm nên bi kịch mới của con người. Đất nước kết thúc chiến
tranh, con người khơng cịn có một mục tiêu chung để ra sức chiến đấu, họ trở
về cuộc sống bình thường với mn mặt phải âu lo. Điều đó tạo nên sự bất an,
sự khủng hoảng về niềm tin trước cuộc đời. Đồng thời, nó cịn là thái độ của
con người trước hiện thực cuộc sống với những gian dối, lọc lừa, sự vơ tâm
vơ tình giữa con người và đặc biệt là ở đó có một nỗi niềm cơ độc khơng cịn
ai để có thể bày tỏ sẻ chia. Thơ ca lúc này cũng mang một diện mạo mới với
những tác phẩm đã để lại dấu ấn riêng cho người đọc.
Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ tiên phong trong phong trào thơ
ca cách mạng kháng chiến chống Mỹ. Con đường thơ ca của ông cũng nằm

trong mạch chảy và xu hướng chung của thơ ca cách mạng sau những năm
1975. Những trường ca, những tác phẩm thơ của ông sáng tác về đề tài chiến
tranh đã thể hiện được hiện thực với một quy mô đáng kể, đặc biệt là thơng
qua hình ảnh người lính. Ta không chỉ quan sát được con đường hành quân
đầy gian khổ của người lính trẻ mà cịn thấy được những suy tư, trải nghiệm,

2


những tình cảm đồng đội, gia đình, những cảm xúc trước cuộc đời của họ :
“Chúng tơi có những kỉ niệm riêng, những bài học những điều để nghĩ”.
Chiến tranh đã qua đi nhưng nó chưa bao giờ trở thành quá khứ trong cuộc
đời của mỗi người lính khi tham gia trận mạc. Nó vẫn tồn tại, đầy kỉ niệm và
gieo những ấn tượng khó qn trong lịng mỗi người.
Kết thúc chiến tranh, Hữu Thỉnh cũng như bao người chiến sĩ khác, cởi
bỏ chiếc áo lính để trở về cuộc sống đời thường với những suy tư, trăn trở,
những cô đơn giữa cuộc đời bộn bề. Con người khơng cịn là con người chung
của Tổ quốc, của những chiến tích hào hùng mà là con người của những mảng
khối đa chiều, đa cực. Điều đó thơi thúc nhà thơ viết nên những vần thơ xót
xa, cơ độc :
Càng viết càng thấy mình yếu đuối
Đường nhân nghĩa chừng nào cịn lắm bụi
Anh hiểu vì sao tơi ít lời
(Chạm cốc với Xa-in)
Trong những sự cơ đơn, xót xa trước sự thay đổi của thời cuộc ấy, vẫn
ánh lên những khao khát, những ước mơ của con người về vẻ đẹp tâm hồn của
con người, hướng con người về những chuẩn mực đạo đức chứ không phải là
những ước mơ tiêu cực, muốn thoát khỏi hiện thực. Nguyễn Nguyên Tản một cây bút nghiên cứu phê bình văn học đã viết về Hữu Thỉnh: "Thơ Hữu
Thỉnh có một vẻ đẹp riêng: sắc sảo, tinh tế mà vẫn bình dị, chân thật mà
khơng kém phần hư ảo, hồn nhiên mà bay bổng, tự nhiên mà không nông cạn"

[16, 176]. Cả sự nghiệp thơ của ông đã để lại nhiều tác phẩm đi vào trong
lòng người đọc và để lại dấu ấn khó phai về sự chân tình, giản dị của một con
người hết lịng suy tư về cuộc đời, con người.
Trong thơ, cấu tứ có một vai trị vơ cùng quan trọng. Nó tạo nên hồn
thơ, cái tôi riêng ấn tượng và đặc sắc cho mỗi nhà thơ. Chúng ta có thể bắt

3


gặp cùng một đề tài, một chủ đề ở vô số các tác phẩm của các tác giả khác
nhau nhưng chính tứ thơ khác biệt đã làm nên thành cơng cho mỗi tác phẩm,
giúp ta nhận ra chân dung của mỗi hồn thơ. Hữu Thỉnh là một nhà thơ có
những tứ thơ độc đáo với những dấu ấn riêng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa
có nhiều đề tài nghiên cứu tập trung đi sâu vào để tìm hiểu và chỉ ra được một
cách cụ thể về đặc điểm cấu tứ của thơ ông. Bởi vậy, chúng tôi quyết định lựa
chọn đề tài “Cấu tứ và cái tơi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh” để làm đề tài luận
văn của mình.
2.

Lịch sử vấn đề
Hữu Thỉnh là một cây bút đã thành danh, gây được dấu ấn trong lòng

người đọc. Bởi vậy, đã có rất nhiều các nhà nghiên cứu đã dành nhiều tâm sức
để nghiên cứu về sự nghiệp thơ văn của ông thông qua các yếu tố nội dung,
nghệ thuật,… Tuy nhiên, thơ ca Hữu Thỉnh chỉ mới được nghiên cứu tập
trung nhiều từ những năm 1990 trở lại đây. Đa số các bài nghiên cứu, đánh
giá về thơ Hữu Thỉnh có quy mơ vừa và nhỏ, giới hạn trong các bài nghiên
cứu với phạm vi cho phép, thường tập trung nghiên cứu về một khía cạnh của
nhà thơ như tính triết lý của thơ, đặc sắc của một tập thơ cụ thể.
Tác giả Vũ Nho đã có một bài nghiên cứu Thơ Hữu Thỉnh in trong cuốn

Đi giữa miền thơ năm 2001 với quy mô tương đối lớn. Tuy bài viết đã đưa ra
những nhận định thống nhất, khái quát về phong cách thơ Hữu Thỉnh nhưng
tác giả vẫn chưa khái quát được toàn bộ hệ thống các tác phẩm của nhà thơ
đặc biệt là trường ca Sức bền của đất.
Nhà nghiên cứu Trần Mạnh Hảo đã dành cho tập thơ Thư mùa đông
bài viết Thư mùa đông của Hữu Thỉnh in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội số
4, năm 1996. Ông đã phát hiện và khẳng định những nét đặc sắc và sự sáng
tạo trong lời thơ Hữu Thỉnh đồng thời phát hiện ra chất dân dã, sự đan xen

4


giữa những nét hồn nhiên với những suy ngẫm đầy tính triết lý cùng nỗi cơ
đơn, đau buồn trong tập thơ.
Năm 2005, nhà nghiên cứu Lưu Khánh Thơ đã có bài viết Hữu Thỉnh,
một phong cách thơ sáng tạo đăng trên Tạp chí Văn học và sau này đã được
đưa lại vào trong cuốn Thơ và một số gương mặt thơ hiện đại. Trong bài viết
của mình, Lưu Khánh Thơ không những nhấn mạnh khả năng tiếp thu truyền
thống dân tộc một cách khéo léo qua cách ví von, cách tư duy, liên tưởng độc
đáo của nhà thơ mà còn chỉ ra “sự đằm thắm, đơn hậu” và “chìm lắng yêu
thương” trong hồn thơ Hữu Thỉnh.
Tác giả Lý Hoài Thu là người có nhiều bài viết nghiên cứu về thơ ca
Hữu Thỉnh nhất. Trong tạp chí Văn học số 12 năm 1999, tác giả có bài Thơ
Hữu Thỉnh, một hướng tìm tịi và sáng tạo từ dân tộc đến hiện đại. Nhà
nghiên cứu đã chỉ ra những điều tạo nên sự hấp dẫn trong thơ Hữu Thỉnh
chính là bắt nguồn từ sự kết hợp giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, thể hiện
rõ ý thức luôn biết chủ động “khai thác cái hay cái đẹp của dân gian, của dân
tộc” và linh hoạt để tạo nên những điều mới. Chính điều này đã làm nên cá
tính và dấu ấn đặc biệt trong thơ ông.
Tác giả Nguyễn Trọng Tạo cũng đã có sự đánh giá khá sắc bén và

chính xác về thơ Hữu Thỉnh trong bài viết Hữu Thỉnh, thành phố hồn quê in
trong cuốn Văn chương cảm và luận in năm 1998. Ông viết “Hồn thơ Hữu
Thỉnh là sự sum suê của cây cối từ đất mà lên” ; “Hữu Thỉnh viết về đời sống
bằng một thứ văn hóa nhà quê thật đẹp và thật ngộ”. Ông đã đưa ra những
luận chứng để người đọc thấy rằng thơ Hữu Thỉnh dung dị, mộc mạc nhưng
lại không bị nhầm lẫn với các nhà thơ khác.
Năm 2003, Nguyễn Đăng Điệp có bài viết Hữu Thỉnh và quá trình tự
đổi mới thơ trên tạp chí Văn học số 9. Bài viết đã đưa ra những nét đổi mới
trong thơ ca của Hữu Thỉnh. Đó là việc đào sâu vào sự triết lý, suy tư để tạo

5


nên một kiểu kết tinh mới đồng thời đi sâu vào khám phá bí ẩm thẳm sâu
trong tâm hồn con người bằng những suy tư chân thật tận đáy lòng mình.
Xuân Diệu : Những suy nghĩ nhân đọc Đường tới thành phố – Báo
Văn nghệ số 19, ngày 9/5/1981.
Phan Cung Việt : Nhân đọc Trường ca biển của Hữu Thỉnh – Tạp chí
Văn nghệ qn đội số ra T4/1995.
Hồi Anh : Hữu Thỉnh – nhà thơ và phía khuất lấp cuộc đời – Tạp chí
Văn hóa văn nghệ Cơng an, số 4 – 1999.
Bên cạnh đó cịn có rất nhiều các bài viết, các nhận định về thơ Hữu
Thỉnh : Hữu Thỉnh gửi Thư mùa đông tới mùa … (Thanh Thảo), Mấy ghi
nhận về thơ người lính của Hữu Thỉnh (Phạm Quang Trung), Hữu Thỉnh –
những kỉ niệm nhỏ về đời và thơ (Nguyễn Thanh Kim), … Tất cả những
nghiên cứu đó đã góp phần hồn thiện và xây dựng được hệ thống đánh giá
một cách toàn diện về con đường thơ của tác giả Hữu Thỉnh.
Ngoài những bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình về Hữu Thỉnh,
ta cịn có một số chun luận, khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ cũng
nghiên cứu về thơ ca của ông. Năm 2003, chuyên luận Thi pháp thơ Hữu

Thỉnh của Nguyễn Nguyên Tản được ra mắt và đã đưa ra một cái nhìn tổng
thể về những chặng đường sáng tác của Hữu Thỉnh, chỉ ra những thành công
về mặt thi pháp để thấy được Hữu Thỉnh là một người luôn tìm tịi và sáng tạo
trên con đường sáng tạo nghệ thuật thơng qua việc tìm hiểu : quan niệm về
con người, không gian, thời gian nghệ thuật và phương thức thể hiện. Đồng
thời, ta cịn một số khóa luận, luận văn nghiên cứu về thơ ông : Nguyễn Thị
Ngọc Linh với Thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh (qua 2 tập thơ Thư mùa
đông và Thương lượng với thời gian) ; Đào Thị Mơ với Tính triết lý trong
thơ Hữu Thỉnh (qua tập thơ Thương lượng với thời gian) ; Nguyễn Minh
Phương với Những chặng đường thơ Hữu Thỉnh; Đỗ Thị Hạt với Đặc điểm
trường ca Hữu Thỉnh dưới góc nhìn thi pháp…
6


Mặc dù có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về thơ ông nhưng tất cả vẫn
tập trung đi vào những vấn đề chung về tư duy nghệ thuật chứ chưa có cơng
trình khoa học nào nghiên cứu riêng biệt về cấu tứ trong thơ ơng. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu về cấu tứ trong thơ Hữu Thỉnh sẽ giúp chúng ta tìm hiểu
sâu hơn về tài năng, sự thành cơng trong việc hình thành tứ thơ để tạo nên dấu
ấn cho tác phẩm. Đồng thời cũng phần nào giúp chúng ta hiểu sâu hơn về cái
tơi trữ tình của nhà thơ.
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1

Mục đích nghiên cứu

- Tìm hiểu loại hình tứ thơ và nghệ thuật tổ chức tứ thơ Hữu Thỉnh
- Nghiên cứu biểu hiện cái tơi trữ tình và nghệ thuật thể hiện cái tơi trữ tình
trong thơ Hữu Thỉnh
3.2


Đối tượng nghiên cứu
Ở đề tài luận văn này, chúng tôi tập trung đi khai thác cách thể hiện của

cái tôi cá nhân và đặc điểm các loại hình tứ thơ cũng như nghệ thuật tổ chức
tứ thơ thông qua sự nghiệp sáng tác của ơng, góp phần làm sáng tỏ những
đóng góp của Hữu Thỉnh trong sự nghiệp thơ ca.
3.3

Phạm vi nghiên cứu
Sự nghiệp thơ ca của Hữu Thỉnh tuy khá dài nhưng những tác phẩm

được xuất bản không quá nhiều. Với đề tài luận văn này, chúng tôi tập trung
nghiên cứu tất cả những tập thơ đã được xuất bản của Hữu Thỉnh (khơng bao
gồm trường ca)
4.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hồn thành luận văn này, chúng tơi vận dụng một cách thích hợp

những kiến thức về lý luận văn học, văn học sử và một số phương pháp chủ
yếu sau:

7


Phương pháp lịch sử - xã hội và phương pháp loại hình
Đặt đối tượng nghiên cứu trong tiến trình lịch sử và chú ý đặc trưng của
thể loại nghiên cứu để xem xét quá trình sáng tác qua các thời kì khác nhau
của Hữu Thỉnh, chỉ ra sự vận động, chuyển đổi tư tưởng cũng như quan niệm

và phương thức biểu hiện, từ đó tìm hiểu những đóng góp riêng của Hữu
Thỉnh trong việc thể hiện cái tôi cũng như thể hiện nghệ thuật tổ chức tứ thơ
của ông.
Phương pháp so sánh, đối chiếu
Để tìm ra những nét chung giữa tư duy thơ của các tác giả và nét đặc
sắc riêng biệt, độc đáo trong cấu tứ thơ của Hữu Thỉnh, luận văn có sự vận
dụng so sánh, đối chiếu giữa các tập thơ của Hữu Thỉnh với một số nhà thơ
cùng thời.
Phương pháp phân tích, tổng hợp
Để chỉ ra những đặc trưng và những yếu tố để làm nên thành cơng về
mặt nghệ thuật, góp phần làm rõ cái tôi cá nhân của Hữu Thỉnh, chúng tôi tiến
hành khảo sát 5 tập thơ của ông và dựa trên kết quả đó để phân tích và khái
qt nên đặc điểm tiêu biểu trong cái tôi của ông.
Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Luận văn vận dụng các khái niệm thi pháp học để tìm hiểu cách thức
tiếp cận, khám phá hiện thực của nhà văn để tìm ra đặc sắc nghệ thuật trong
cấu tứ, cách xây dựng tứ thơ, ngôn ngữ, biểu tượng thơ trong thơ Hữu Thỉnh
5.

Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Sáng tác thơ và quan điểm nghệ thuật của Hữu Thỉnh
Chương 2: Tứ thơ và cấu tứ trong thơ Hữu Thỉnh
Chương 3: Cái tơi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh

8


NỘI DUNG

Chƣơng 1
SÁNG TÁC THƠ VÀ QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA
HỮU THỈNH
1.1 Hành trình sáng tạo
Hữu Thỉnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của các nhà thơ
trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Tiếp bước những
nhà thơ lớn cùng thời kì như Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, … Hữu Thỉnh đã
gây được nhiều tiếng vang lớn với những đặc trưng thơ rất riêng. Cuộc sống
chiến đấu đầy gian khổ đã tạo cho Hữu Thỉnh những chất liệu riêng để ơng
làm thơ ghi lại chính cuộc đời của mình - một chân dung người lính.
Hữu Thỉnh, tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, bút danh Vũ Hữu. Ơng sinh
năm 1942 trong một gia đình nơng dân có truyền thống Nho học ở Tam Đảo,
Vĩnh Phúc. Tuy nhiên q trình lớn lên của ơng cũng khơng hề bằng phẳng : 6
năm ở với bác ruột, 10 tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao dịch cho các đồn
binh Pháp: Vân Tập, chợ Vàng, Thanh Vân. Từ sau hịa bình lập lại năm
1954, ơng mới được đến trường.
Năm 1963, ông tốt nghiệp phổ thông và nhập ngũ bộ đội tăng - thiết
giáp, trở thành một người lính thuộc Trung đồn 202. Từ đó, ơng đã trực
tiếp tham gia chiến đấu chống Mỹ ở nhiều chiến trường và Chiến dịch Hồ
Chí Minh.
Sau khi đất nước thống nhất, Hữu Thỉnh quay trở lại học Đại học Văn
hóa và là một trong số những sinh viên khóa đầu tiên của Trường viết văn
Nguyễn Du khố 1.
Năm 1982, ơng làm cán bộ biên tập, Trưởng ban Thơ, Phó tổng biên
tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội.

9


Từ 1990 đến nay, ông chuyển sang công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam,

làm Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ, tham gia Ban Chấp hành Hội các
khoá 3, 4, 5, Uỷ viên Ban Thư ký khố 3, Phó tổng thư ký Thường trực khoá
5, Tổng Thư ký - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khoá 6-7-8, Chủ tịch Uỷ
ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam.
Đồng thời, nhà thơ Hữu Thỉnh còn kiêm nhiệm Uỷ viên Thường vụ
Đảng uỷ Khối Tư tưởng văn hoá Trung ương, Bí thư Đảng uỷ Đảng bộ Cơ
quan Hội Nhà văn Việt Nam, Bí thư Đảng đồn Hội Nhà văn Việt Nam, Bí
thư Đảng đồn Uỷ ban tồn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam; Đại
biểu Quốc hội khoá X.
Trên lĩnh vực thi ca, Hữu Thỉnh là một trong những tài năng nổi bật. Từ
những biến chuyển trong cuộc đời, Hữu Thỉnh đã cho ra đời nhiều tập thơ
được rất nhiều bạn đọc đón nhận. Các tác phẩm của ông chủ yếu được chia
làm hai mảng lớn : mảng viết về chiến tranh và mảng thơ viết về cuộc sống
hịa bình.
Mảng thơ viết về đề tài chiến tranh được bắt đầu với tập thơ đầu tiên
của ông gồm những bài thơ được sáng tác từ những năm 1968 đến 1982 với
nhan đề Tiếng hát trong rừng. Đây là tập thơ viết về những năm tháng kháng
chiến của ông tại Trường Sơn và đã đạt được nhiều giải thưởng lớn. Tiếng hát
trong rừng chủ yếu ghi lại những cảm xúc của nhà thơ khi chiến đấu ở
Trường Sơn. Đây là những bài thơ ngắn như chuẩn bị cho sự phát triển của
thể loại trường ca sau này. Tiếp đó phải kể đến là giải Ba cuộc thi thơ của Báo
Văn nghệ vào các năm 1972 – 1973 với bài thơ Mùa xuân đi đón, tiếp đó là
giải A cuộc thi thơ 1975 – 1976 với các sáng tác Chuyến đò đêm giáp ranh
và trường ca Sức bền của đất. Sức bền của đất cũng là tập trường ca đầu tiên
mở đường cho Đường tới thành phố - trường ca thể hiện sự hoàn thiện, tài
năng và sự trưởng thành trong nghệ thuật thơ ca của Hữu Thỉnh. Đây cũng là

10



tác phẩm đạt giải thưởng Hội Nhà văn năm 1980. Cảm hứng chủ đạo của
những tác phẩm này là cảm hứng về đất nước, nhân dân, về cuộc chiến đấu
chống kẻ thù Mỹ ngụy. Sức bền của đất có thể coi là bước trung chuyển,
bước đệm tạo đà trên con đường hồn thiện phong cách thơ. Đó là bước
chuyển từ những cảm xúc ngắn sang thể loại dài hơi và hoành tráng, bao quát
một phạm vi rộng lớn đời sống và tâm hồn con người – trường ca Đường tới
thành phố. Đây là cột mốc đánh dấu sự chín muồi trong ý thức về thể loại,
tập trung đầy đủ, hoàn thiện nhất những đòi hỏi mà thể loại trường ca cần
phải có của hồn thơ Hữu Thỉnh. Trường ca của ông là một bản tổng hợp của
biết bao cảnh ngộ, những hi sinh chịu đựng và suy tư trăn trở của nhân dân vĩ
đại. Tất cả mọi mảng, khối của hiện thực rộng lớn đó được liên kết với nhau
gắn liền theo một mạch liên tưởng, suy nghĩ nhịp nhàng giữa các chương, các
khúc, kéo theo đó là sự phát triển của các hình tượng. Tác giả như một người
chỉ huy tài ba điều khiển một dàn nhạc giao hưởng thơ với nhiều giọng, nhiều
bè mà vẫn mạch lạc, trôi chảy
Mảng thơ viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh thấm nhuần tính chất sử
thi cao cả, thể hiện cái tơi sử thi của thơ ca cách mạng hiện đại. Mang đặc
điểm của một hồn thơ hồn hậu, ham giãi bày, giàu suy tư, thơ viết về chiến
tranh của Hữu Thỉnh có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giọng thơ chính luận
và giọng trữ tình đằm thắm.
Mảng thơ thứ hai đó là mảng thơ viết về cuộc sống trong thời bình. Ở
giai đoạn trước năm 1980, tâm thức cộng đồng chiếm ưu thế, con người tồn
tâm tồn ý vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, số phận cá nhân ln đặt trong số
phận của đất nước, cá nhân khơng có ý nghĩa độc lập tự thân mà có ý nghĩa
trong sự hi sinh cống hiến cho dân tộc. Từ đầu năm 80 trở lại đây, những biến
đổi to lớn trong đời sống xã hội đã đi đến sự đổi thay các chuẩn mực khi đánh
giá về các giá trị của cuộc sống và cả văn học nghệ thuật. Sự thức tỉnh về ý

11



thức cá nhân, sự quan tâm nhiều hơn đến con người trong tính cụ thể, cá biệt,
với nhu cầu trong thời bình là bước chuyển tất yếu của xã hội. Con người
được miêu tả trong tất cả tính đa dạng của nó đã tạo thành nét chính trong sự
định hướng về giá trị văn học của công chúng hôm nay. Nói khác đi, tinh thần
dân chủ và cảm hứng nhân bản là đặc điểm nổi bật của thời kỳ đổi mới. Sự
thay đổi này dĩ nhiên sẽ dẫn đến những thay đổi về đề tài, chủ đề, nhân vật và
thể loại, phương thức trần thuật và cách biểu hiện trữ tình.
Sự nghiệp thơ ca của ơng được tiếp tục gặt hái được thành công sau khi
đất nước quay lại thời kì hịa bình với giải Nhất trong cuộc thi thơ viết về Nhà
trường, thầy cô do Bộ ĐH&THCN cùng Trung ương Đoàn TNCSHCM tổ
chức với bài thơ Thưa thầy. Năm 1995, tập thơ Thư mùa đông đã mang lại
cho ông giải A của Hội Nhà văn Việt Nam và giải thơ ASEAN năm 1999.
Một trường ca nữa lại tiếp tục ra đời và khẳng định chỗ đứng vững chắc của
Hữu Thỉnh trong thể loại trường ca: Trường ca biển. Tập thơ này được viết
vào giai đoạn cuối thời kì bao cấp và giai đoạn đầu của thời “mở cửa”, đổi
mới và phát triển đất nước. Trường ca biển vẫn còn là tia hồi quang quá khứ
vinh quang của người lính khi được tái hiện trong hành trình “đi tới biển”.
Trường ca này được Bộ Quốc phòng tặng thưởng giải xuất sắc. Tuy nhiên, số
phận cá nhân của người lính cách mạng trong tác phẩm này đã có sự khác
biệt. Khơng giống như trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, giờ đây họ sống
gian lao, vất vả và cuộc sống không hề thanh thản. Họ phải gồng mình lên để
cố lấp đi cái khoảng trống trong tâm hồn, nỗi đắn đo giữa được và mất, cống
hiến hay hưởng thụ. Điều này ta có thể gặp trong tác phẩm văn xi khá nổi
tiếng : Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh). Và gần đây nhất, tập thơ Thương
lượng với thời gian đã thể hiện một màu sắc khác trong các tác phẩm thơ của
ông, đậm chất triết lý, suy tư, rung cảm với cuộc đời. Đây là tập thơ bao gồm

12



56 bài thơ đa số là ngắn – tập hợp những sáng tác trong khoảng 10 năm trở lại
đây của nhà thơ. Một tập thơ với những gom nhặt của tác giả trong gần mười
năm với những bài thơ mang tính thế sự, trong một hành trình đi “tìm người”.
Và sự tìm kiếm đó là sự đan xen giữa thất vọng và hi vọng trước hiện thực
cuộc sống, của xã hội ngập tràn tiêu cực và xô bồ đang đem lại. Tập thơ đã
giành giải thưởng của Hội nhà văn năm 2006, cùng với tác phẩm Cánh đồng
bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.
Cảm hứng chính của mảng thơ viết về thời bình là cảm hứng đời tư thế
sự mang theo cay đắng, niềm bâng khuâng trước sự thay đổi, nỗi cô đơn, trăn
trở trước số phận con người mà chưa tìm thấy tri âm tri kỉ. Giọng điệu chủ
đạo là buồn, mang sự suy tư, triết lý.
Đây là các tập thơ được viết trong thời kì đất nước đang trên đà đổi
mới. Sau chiến tranh, cả đất nước đang đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, cơ
chế bao cấp kéo dài làm hạn chế nhiều mặt về kinh tế, chính trị, xã hội. Cũng
bởi điều đó mà xuất hiện những luồng tư tưởng mới, cách suy nghĩ mới chưa
hề có trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Những biến động trong đời sống
chính trị (sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991) cùng những bức xúc chung
quanh việc quản lý lãnh đạo xã hội và văn nghệ, sự mở cửa về mặt kinh tế cho
phép người dân có những cách làm ăn mới, suy nghĩ mới làm thay đổi nhiều
quan niệm về những giá trị cũ được hình thành trong suốt thời kì kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng của văn nghệ sĩ.
Các sáng tác của Hữu Thỉnh tương đối liền mạch và tiêu biểu cho quá
trình vận động của thơ ca cách mạng Việt Nam trong khoảng 25 năm cuối thế
kỉ XX. Nó cũng là hành trình của người chiến sĩ trên con đường đấu tranh
chống ngoại xâm cho đến đấu tranh cho lẽ phải, cho đạo đức, những phẩm
chất cao cả của thời đại.

13



1.2 Quan điểm nghệ thuật
Sau chiến thắng vĩ đại của lịch sử, nền văn học Việt Nam vẫn tiếp nối
mạch chảy của văn học dân tộc là miêu tả cuộc chiến tranh giành độc lập, tự
do cũng như công cuộc xây dựng đất nước trong thời bình. Thơ trữ tình thời
kì này có sự phát triển mạnh, phong phú và đa dạng với nhiều cung bậc, từ
lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, ý chí dũng cảm chiến đấu hi sinh cho tới
những vui buồn, trăn trở, lo toan trong cuộc sống hàng ngày, thể hiện tình yêu
trong quan hệ của con người với cộng đồng, con người với con người. Nếu
như trước đây trong những năm kháng chiến của dân tộc, các nhà văn, nhà thơ
được coi là chiến sĩ trên mặt trận, dùng vũ khí là nghệ thuật để hồn thảnh
nhiệm vụ của mình thì sau những năm tháng hịa bình, quan niệm đó đã có
phần thay đổi. “Văn học, nghệ thuật là bộ phận đặc biệt nhạy cảm của văn
hóa, thể hiện khát vọng của con người về chân, thiện, mĩ, có tác dụng bồi
dưỡng tình cảm tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh của các thế hệ công dân, xây
dựng môi trường đạo đức trong xã hội, xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa” [9,72]. Ở giai đoạn này, hiện thực đời sống lịch sử xã hội và tâm hồn
tư tưởng con người được hiện lên một cách đầy đủ, nhiều mặt và phong phú
hơn giai đoạn trước. Chiến tranh được phản ánh trong thơ không chỉ hùng
tráng, ca ngợi những chiến cơng mang đầy tính sử thi mà nó cịn nêu lên bao
tổn thất, đau đớn, những bi kịch của cuộc đời. Thậm chí đến Tố Hữu, người
vốn ln gắn cuộc đời mình với cách mạng, với sự nhiệt huyết và tâm hồn của
Đảng cũng có lúc viết lên những vần thơ đầy tâm trạng về nỗi cơ đơn trong
Một tiếng đờn buồn: “Mới bình minh đó đã hồng hơn… Khuấy động lịng ta
biết mấy buồn” và “Trái tim tự xát muối cô đơn”.
Trong sự nghiệp của mình, Hữu Thỉnh khơng phải một nhà thơ có
nhiều tun ngơn về nghệ thuật. Thế nhưng với vai trò vừa là một nhà thơ,
vừa tham gia giảng dạy ở các trường viết văn, trường đại học, ông đã phần

14



nào bộc lộ được quan điểm sáng tác của mình thông qua những chia sẻ rất
chân thành, những bài giảng với các thế hệ học trị. Qua những gì ơng đã thể
hiện qua sự nghiệp văn chương của mình, ta có thể thấy, với ơng, thơ ca chính
là nơi để ghi lại hiện thực cuộc sống. Theo tiếng gọi của Tổ quốc, đã có rất
nhiều các nhà thơ hăm hở lên đường, mang theo nhiệt huyết mạnh mẽ với một
niềm tin lớn lao về cuộc kháng chiến thắng lợi của dân tộc như Phạm Tiến
Duật, Thanh Thảo, … Họ đều là những người lính trực tiếp tham gia vào cuộc
kháng chiến đầy máu lửa của dân tộc, có cùng một chí hướng và đồng thời
cũng gần gũi với nhau về quan niệm sáng tác. Với Hữu Thỉnh, thơ ca là
phương tiện giúp ơng ghi lại cuộc đời mình, ghi lại những âm thanh, màu sắc,
những gì tươi đẹp, thậm chí là khốc liệt của cuộc đời. Cũng chính vì vậy,
người đọc có thể dễ dàng nhận ra thơ ơng là tấm gương phản ánh chân thực
cuộc đời, là cuốn sách sử bằng thơ, là người họa sĩ chân dung ghi lại cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là những chân dung của những người dân
bình dị quen thuộc:
Mưa choang choang như đá đập trên đầu
Đất đẫm ướt gian nan không định trước
Rừng cảm thấy điều gì khơng nói ra khơng được
Ta nóng lịng ơm súng ngóng ngày lên
(Đêm chuẩn bị)
Ở Hữu Thỉnh, thơ chính là chân dung chân thực về cuộc đời, đây chính
là hệ tư tưởng lúc trước giai đoạn 1980. Đọc thơ Hữu Thỉnh, người ta nhận ra
ở Hữu Thỉnh một hồn thơ khỏe khoắn, chân thành, miêu tả một cuộc sống rất
chân thực về chiến trường Trường Sơn khốc liệt nhưng không hề bi lụy ở
trường ca Đường tới thành phố:
Núi cao cho thác đổ hồi
Trường Sơn dài rộng cho tôi mặn mà


15


Xe thồ vành hỏng tháo ra
Còn lăn theo suốt đời ta đời mình
Trực tiếp tham gia kháng chiến, trực tiếp quan sát và trải nghiệm cuộc
sống gian khổ nơi đầu bom mũi đạn, các nhà thơ này thấm thía hơn ai hết và
hiểu hơn ai hết về chiến tranh. Hữu Thỉnh cũng như vậy, và ơng đã nhận ra để
góp phần làm nên sức mạnh của cả quân đội, của cả dân tộc bấy giờ, khơng gì
hơn là thơ ca. Thơ ca chia sẻ những nỗi mất mát hi sinh, thơ ca nâng bước, cổ
động tinh thần cho những người chiến sĩ đang trên đường hành quân. Những
vần thơ của ông mang một sức mạnh khỏe khoắn, đầy nhiệt huyết nhưng cũng
rất tình cảm:
Thơ hãy đến góp một vài que củi
Cho em nhận ra anh, đồng đội nhận ra mình
Đó là “que củi nhỏ nhoi” nhưng lại tỏa sáng giữa đêm tối mịt mù, giữa
những hi sinh mất mát nơi chiến trường u ám. Thơ ca với ơng chính là sức
mạnh, ông miêu tả lại hiện thực không đơn giản chỉ là miêu tả một cuộc chiến
tranh tàn khốc mà gửi vào đó những ước mơ, tình u thương mạnh mẽ.
Giống như Phạm Tiến Duật, hiện thực chiến tranh có thể là “những chiếc xe
khơng kính”, có thể là “bụi phun tóc trắng như người già”,.. thế nhưng họ sẵn
sàng bắt tay nhau qua cửa kính vỡ, nở nụ cười lạc quan “nhìn nhau mặt lấm
cười ha ha”. Hữu Thỉnh cũng đã đưa tinh thần lạc quan và những khao khát
say mê rất đời thường của những người lính trẻ vào trong thơ ca. Ở đó có biết
bao chàng trai đang độ tuổi thanh xuân, đang say sưa trên con đường học tập,
và họ thèm “sách vở”, nỗi thèm khát đơn giản nhưng lại khó khăn.
Khơng có sách chúng tơi làm ra sách
Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình
Nhà thơ đã làm sáng lên những phẩm chất, tinh thần lạc quan yêu đời,
niềm tin chiến thắng của những người chiến sĩ. Họ ra đi khơng tiếc đời mình


16


và cũng lưu lại trong tim những gì đơn giản mà lãng mạn nhất. Thế nhưng,
thực tế vẫn luôn không cho phép những người lính có nhiều thời gian để dành
cho sự lãng mạn. Họ sống trong hiện thực và phải chọn lựa những điều cần
nhất cho chiến tranh:
Mỗi quyển sách nặng bằng năm viên đạn
Chúng tôi đành mang đạn trước tiên
….
Chúng tơi cịn biết xoay xở ra sao
Gạo chỉ mang đủ mười ngày còn dành mang súng
Còn mang thuốc
Còn mang nhau
Trong những cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, những nhà văn ln
đóng vai trị vừa là người chiến sĩ mô tả lại hiện thực khốc liệt của cuộc
kháng chiến vừa phải viết những vần thơ hô hào, cổ vũ tinh thần chiến đấu
của những người lính ngồi mặt trận. Nhà thơ lấy nghệ thuật phục vụ trực tiếp
cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng:
Xin cám ơn câu thơ các anh đã đến cùng ngọn lửa
Mấy đứa nhớ nhà ngắt ngọn tàu bay
Đường chẳng cịn dài như nó vốn từng dài
Suối cứ đổ trong bình minh nõn chuối
Đó là hiện thực nơi chiến trường xa xôi, nơi điều kiện của con người vô
cùng thiếu thốn trong Thư mùa đông:
Thư viết cho em nhòe nét mực
Phên thưa sương muối cứ bay vào
Núi rét đêm qua chừng mất ngủ
Sáng ra thêm bạc một nhành lau.


17


Thế nhưng trong hồn cảnh khó khăn ấy, người lính vẫn mang một tâm
hồn lãng mạn. Mơ về người con gái nơi xa, những bóng hồng nơi lưu giữ tình
cảm của anh nơi quê nhà. Viết về cảm xúc của người lính, ơng khơng hề có sự
ủy mị, ướt át mà thay vào đó là sự ấm áp, những cảm xúc làm tan đi cái giá
lạnh mùa đông, sưởi ấm con người. Có lẽ, ở nơi xa, người con gái ấy chính là
động lực cho người chiến sĩ chiến đấu qn đêm ngày:
Bao năm khơng thấy màu con gái
Vó ngựa nghe nhầm tiếng guốc em...
Mây đến thường rủ anh mơ mộng
Biết vậy, khuya em đỏ ánh đèn
Cũng như bao nhà thơ yêu nước khác, viết về chiến tranh, ông viết về
đất nước về nhân dân với hình ảnh của người lính, người mẹ, người vợ, những
gốc cây cằn, …Điều đó tưởng chừng như đơn giản nhưng lại chính là những
yếu tố góp phần nên những chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Đất nước trong thơ
ông là một đất nước kiên cường bất khuất, nhân dân là những con người thầm
lặng và biết hi sinh.
Hữu Thỉnh đã đưa ra một quan niệm trong thơ của mình“ Nhưng đừng
viết về chúng tôi như cốc chén đứng trên bàn/ xin hãy viết như dịng sơng
chảy xiết”. Viết về cuộc đời người lính, người ta không chỉ mô tả đơn thuần
như tô vẽ một bức tranh, mà hơn thế nữa, bức tranh ấy phải làm nổi bật rõ
từng chân dung con người. Đó là chân dung con người với cảm xúc, có sự
thay đổi với sức mạnh lan tỏa. Hữu Thỉnh đã xây dựng nên những chân dung
người lính khơng hề khơ khan, lúc nào cũng hướng đến cuộc chiến tranh, luôn
hô hào về niềm tin, chiến thắng mà còn đan xen sự mộc mạc, dịu dàng của
những cái gì đó rất người, rất lãng mạn trong tâm hồn mỗi người. Thơ đến
trong lòng người, trong cảm xúc xuyến sang của một buổi chiều mưa “Thơ cứ

đến và mưa chiều mau ngớt” (Đường tới thành phố)

18


Người lính ghi lại chân thực cuộc chiến khốc liệt, sự tàn khốc nơi chiến
trường. Sự vất vả gian lao của người lính, sự chân tình của những mẹ, những
chị, những con người hậu phương, sự biến chuyển của nhân dân đất nước.
Nghệ thuật trong thời kì này có vai trị như những người bạn đồng hành của
người lính, nó thôi thúc, giục giã, là sức mạnh tinh thần cho những người
chiến sĩ thêm mạnh mẽ, vững vàng cầm cây súng để bảo vệ Tổ quốc. Đó là
niềm lạc quan, vất vả gian lao nhưng tràn ngập mục tiêu, vì lý tưởng cách
mạng. Ở đó có hình ảnh của biết bao con người, những cô gái thanh niên xung
phong vô danh nhưng lại làm nên chiến thắng được tái hiện trong Đường tới
thành phố:
Tôi đã nghe bài hát xốn xang lịng
Các cơ gái làm đường đi đào củ chụp
Hố thì sâu mà tay em gầy guộc
Mưa miền Đông ướt áo các em rồi
Đó là người mẹ anh hùng đã nuốt nước mắt vào trong tim để ba đứa
con cùng ra trận. Một mình mẹ gánh chịu niềm lo lắng, nỗi đau khi các cuộc
chiến cứ lần lượt kéo đến. Người mẹ ấy cũng như bao người mẹ trong những
cuộc chiến tranh gian khổ, luôn cầu mong cho đứa con của mẹ trở về bình an:
Ba đứa con có mặt trong này
Mấy cuộc chiến tranh mẹ gánh một lúc
Chiến tranh chưa bao giờ chấm dứt
Nếu một đứa con của mẹ không về
Miêu tả hiện thực chiến tranh còn đồng thời là miêu tả về cuộc đời con
người. Đó là những người chị sống cuộc sống tảo tần vất vả, hi sinh cho gia
đình:

Chị chơn tuổi xn trong má lúm đồng tiền
Chị vẫn nhớ anh và mong anh như thế

19


×