Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

(Luận văn thạc sĩ) giáo dục đạo đức trong gia đình thời kỳ hội nhập quốc tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.88 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------

PHẠM THỊ NHUNG

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRONG GIA ĐÌNH THỜI KỲ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------

PHẠM THỊ NHUNG

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRONG GIA ĐÌNH THỜI KỲ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS DƢƠNG VĂN DUYÊN

Hà Nội - 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu này do chính tơi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của TS. Dương Văn Duyên. Các tài liệu, số liệu nêu ra trong Luận văn là
trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học, các tài liệu tham khảo có nguồn gốc
xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 10 tháng 01 năm 2016
Tác giả Luận văn

Phạm Thị Nhung


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo trong khoa Triết
học đã tận tình dạy bảo, truyền thụ kiến thức cho tơi trong suốt q trình học
tập.
Đặc biệt, tơi xin gửi lời cảm ơn đến TS. Dƣơng văn Duyên - giảng viên
hướng dẫn, người đã chỉ bảo, giúp đỡ tơi tận tình trong q trình thực hiện và
hồn thành Luận văn.
Xin cảm ơn những người mà tôi chưa từng gặp mặt, nhưng cuộc sống, tư
tưởng, cơng trình của họ đã tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến bản thân tơi,
giúp tơi có niềm tin, động lực để hoàn thành Luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến gia đình, bạn bè
và đồng nghiệp, những người ln bên cạnh động viên, giúp đỡ tơi hồn
thành Luận văn của mình!


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 3
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................... 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 6
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................... 7
6. Đóng góp của luận văn................................................................................ 7
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................ 7
8. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 7
Chƣơng 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRONG GIA
ĐÌNH VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ.................................................................... 8
1.1. Đạo đức trong gia đình, giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam ....... 8
1.1.1. Đạo đức trong gia đình Việt Nam ........................................................... 8
1.1.2. Giáo dục đạo đức trong gia đình Việt Nam .......................................... 17
1.1.3. Nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức trong gia đình hiện nay 20
1.2. Hội nhập quốc tế và tác động của nó đến đạo đức Việt Nam ............ 30
1.2.1. Hội nhập quốc tế ở Việt Nam ................................................................ 30
1.2.2. Những tác động của hội nhập quốc tế đến đạo đức trong gia đình Việt
Nam ................................................................................................................. 34
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 46
Chương 2. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRONG GIA ĐÌNH VIỆT NAM THỜI
KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ................. 48
2.1. Thực trạng và nguyên nhân giáo dục đạo đức trong gia đình Việt
Nam thời kỳ hội nhập quốc tế ...................................................................... 48
2.1.1. Thực trạng của giáo dục đạo đức trong gia đình Việt Nam thời kỳ hội
nhập quốc tế hiện nay ..................................................................................... 48
2.1.2. Nguyên nhân của giáo dục đạo đức trong gia đình Việt Nam hiện nay56

1



2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với giáo dục đạo đức trong gia đình Việt
Nam hiện nay ................................................................................................. 64
2.2.1 Mâu thuẫn giữa yêu cầu xác định các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức
xã hội với sự dao động của các chuẩn mực đạo đức trong giáo dục đạo đức
trong gia đình Việt Nam hiện nay ................................................................... 65
2.2.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng cường vai trò của gia đình đối với trẻ em
và những hạn chế của năng lực giáo dục đạo đức của nhiều bậc cha mẹ ..... 66
2.2.3. Mâu thuẫn giữa hội nhập quốc tế và những hậu quả tiêu cực, hệ luỵ xã
hội của nó đối với giáo dục đạo đức trong gia đình ....................................... 67
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay............................................................... 68
2.3.1.Đổi mới nhận thức, nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức trong gia đình
......................................................................................................................... 68
2.3.2 Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức trong gia đình ........... 71
2.3.3. Nâng cao vai trị quản lý của Nhà nước trong quản lý nhằm tạo điều
kiện cải thiện hiện trạng giáo dục đạo đức trong gia đình ............................. 73
2.3.4. Xây dựng mơi trường giáo dục đạo đức trong sạch lành mạnh ........... 77
2.3.5. Phát huy tính tích cực, tự giác của trẻ em trong việc tự rèn luyện và tu
dưỡng đạo đức................................................................................................. 78
KẾT LUẬN .................................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 84

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi con người sinh ra và lớn lên, nơi trẻ
em được chăm sóc cả về thể chất, trí tuệ, đạo đức lẫn nhân cách để hòa nhập

vào đời sống xã hội. Sự trường tồn của quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều
vào sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình. Gia đình khơng phải là nơi duy
nhất có vai trị và trách nhiệm trong việc giáo dục trẻ em nhưng nó là mơi
trường đầu tiên tạo điều kiện tốt nhất và có vai trị quan trọng quyết định việc
hình thành nhân cách trẻ em.
Cùng với những cơ hội đang thúc đẩy sự tiến bộ của gia đình Việt Nam
thì sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế
với những mặt trái của nó như hiện nay cũng đang đặt ra cho gia đình Việt
Nam trước rất nhiều những thử thách trong việc giáo dục đạo đức. Thực tế
cho thấy, trong quá trình hội nhập quốc tế, thang giá trị đạo đức của con
người có nhiều biến đổi theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Tại đại hội X,
Đảng ta chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia
tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ” [25, tr. 172
- 173]. Đây là một trong những thách thức lớn đang đặt ra đối với sự nghiệp
giáo dục của nước nhà nói chung và giáo dục đạo đức trong gia đình nói riêng.
Cùng với gia đình, nhà trường và xã hội là mơi trường giáo dục quan
trọng đối với sự hình thành phẩm chất đạo đức và nhân cách cho thế hệ trẻ.
Song vai trò của các thiết chế xã hội ngày nay chỉ có thể được phát huy một
cách có hiệu quả khi lấy giáo dục đạo đức trong gia đình làm cơ sở. Nhiều gia
đình tỏ ra lúng túng, thậm chí bất lực trong việc giáo dục đạo đức cho con cái
dẫn đến phó mặc việc này cho nhà trường và xã hội. Do đó việc định hướng
giá trị văn hóa và hình thành các chuẩn mực đạo đức là yêu cầu cấp bách cho
trẻ hiện nay. Quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa và hội nhập quốc tế ở Việt
Nam đang đặt ra những yêu cầu bức thiết với sự nghiệp giáo dục nói chung và

3


giáo dục đạo đức trong gia đình nói riêng nhằm góp phần tạo ra một thế hệ trẻ
Việt Nam phát triển tồn diện, vừa có đức vừa có tài. Khơng có những đảm

bảo về đạo đức và giáo dục về đạo đức thì gia đình khơng thể trở thành một tế
bào lành mạnh, do đó cũng khơng thể đảm bảo cho sự phát triển bền vững cho
Việt Nam trong tương lai.
Nhận thức rõ vị trí và vai trị của gia đình trong giáo dục thế hệ trẻ,
Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã
khẳng định : “Gia đình là mơi trường quan trọng để hình thành, ni dưỡng
và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống
tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” [14, tr. 1].
Nói về xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay trong Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta khẳng định: “ Sớm có chiến lược quốc
gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá
trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế
hệ trẻ. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” [27, tr. 223].
Vì tất cả những lý do trên đã thúc đẩy tác giả chọn vấn đề “Giáo dục
đạo đức trong gia đình Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay” làm đề
tài luận văn thạc sĩ Triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề giáo dục đạo đức trong gia đình cũng đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu theo những khía cạnh khác nhau như:
Trong cuốn sách “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi
mới” của GS. Lê Thi đã cung cấp cho chúng ta bức tranh tồn cảnh về gia
đình Việt Nam hiện nay. Đó là những thay đổi về cấu trúc, quy mô, chức
năng, cũng như các quan hệ giữa những thành viên trong gia đình. Hơn nữa,
tác giả cịn đề cập tới vấn đề giáo dục trẻ em vị thành niên và những khó
khăn của các bậc cha mẹ.
4



Trong cuốn “Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt
Nam hiện nay: Phân tích các tài liệu nghiên cứu và điều tra về gia đình Việt
Nam được tiến hành 15 năm gần đây (1990 - 2004)” [72] của tác giả Lê
Ngọc Văn chủ biên đã phân tích tổng hợp về thực trạng gia đình Việt Nam,
dự báo những xu hướng biến đổi của gia đình Việt Nam trong một tương lai gần.
Trong cuốn “Việt Nam phong tục” (1915) của Phan Kế Bính, cuốn
“Việt Nam văn hóa sử cương” (1938) của Đào Duy Anh, thơng qua những
khảo cứu mang dấu ấn dân tộc học, hai công trình nghiên cứu này đã ghi
chép và miêu tả các quan hệ vợ - chồng, cha - con, việc giáo dục con trong
gia đình Việt Nam truyền thống và những xu hướng biến đổi của nó trước
ảnh hưởng của văn hóa Tây Âu.
“Vai trị của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện
nay” (Luận án Tiến sĩ Triết học) của Nghiêm Sĩ Liêm đã đề cập đến việc
giáo dục cho trẻ một cách toàn diện và đặc biệt chú ý việc giáo dục cho trẻ
ngay từ khi mới lọt lịng, khẳng định tính hiệu quả của hình thức giáo dục
bằng tình thương chứ khơng phải bằng roi vọt.
Cuốn “Nho giáo và gia đình” (1995) của Vũ Khiêu đã cung cấp một
khối lượng tri thức rất sâu, rộng về văn hóa gia đình, những tác động, ảnh
hưởng đậm nét của Nho giáo trong giáo dục gia đình, những mặt tích cực và
tiêu cực của Nho giáo đối với việc củng cố gia đình, hình thành nhân cách
trong gia đình và xã hội.
“Khoa học giáo dục con em trong gia đình” năm 1979 do Đức Minh
chủ biên đề cập đến một số quan điểm giáo dục trẻ em và những phương
pháp giáo dục trẻ em trong gia đình.
“Những vấn đề cấp bách trong giáo dục con ở lứa tuổi thiếu niên
trong gia đình thành phố hiện nay” (2001) do Nguyễn Thanh Bình chủ biên
đề cập rất nhiều đến việc giáo dục đạo đức cho con cái trong các gia đình nói
chung và gia đình thành phố nói riêng.

5



Vấn đề hội nhập quốc tế cũng đã được nhiều tác giả nghiên cứu theo
các hướng tiếp cận khác nhau như: “Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc
tế về giáo dục: Một chiến lược, hai kịch bản” (Phạm Đỗ Nhật Tiến); “Chính
sách hợp tác với nước ngồi về đào tạo sau đại học của Việt Nam trong thời
kỳ hội nhập quốc tế” (Luận án tiến sĩ của Chu Trí Thắng năm 2011); “Đổi
mới giáo dục và hội nhập các nền giáo dục tiên tiến: Vấn đề nhìn từ thực
tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” (Huỳnh Cơng Minh); “Hội nhập quốc tế và
giữ vững bản sắc” (Bộ Ngoại giao)…
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu từ nhiều
góc độ khác nhau về vấn đề giáo dục đạo đức và hội nhập quốc tế. Đồng
thời, các tác giả cũng đã làm sáng tỏ phần nào sự tác động hai mặt của q
trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tới sự biến đổi của đạo đức xã hội nói
chung và đạo đức gia đình nói riêng ở nước ta trong quá trình đổi mới, đưa
ra được một số phương hướng, giải pháp để đẩy mạnh quá trình xây dựng
đạo đức mới. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu một cách
hệ thống về vấn đề giáo dục đạo đức trong gia đình thời kỳ hội nhập quốc tế
hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng giáo dục đạo
đức trong gia đình Việt Nam những năm đổi mới, luận văn đưa ra những yêu
cầu giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác này thời kỳ hội nhập quốc tế
hiện nay.
- Nhiệm vụ: Luận văn phân tích lý luận chung về giáo dục đạo đức trong
gia đình và hội nhập quốc tế. Phân tích giáo dục đạo đức trong gia đình thời
kỳ hội quốc tế ở Việt Nam hiện nay thực trạng – giải pháp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức trong gia đình Việt
Nam thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay. Luận văn tập trung nghiên cứu giáo


6


dục của ông bà cha mẹ với con cái, không nghiên cứu giáo dục đạo đức chung
trong gia đình.
- Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn về khơng gian: hộ gia đình đang sinh sống ở Việt Nam.
Giới hạn về thời gian: từ những năm đổi mới 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, về giáo dục đạo đức trong gia đình và hội nhập quốc tế.
- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như: phân tích, tổng
hợp, khái quát, lịch sử - cụ thể…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn làm rõ những yêu cầu đạo đức trong gia đình thời kỳ hội nhập
quốc tế, phân tích thực trạng cơng tác giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt
Nam hiện nay. Từ đó luận văn đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của
công tác giáo dục đạo đức trong gia đình thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Làm rõ giáo dục đạo đức trong gia đình và những yêu
cầu của giáo dục đạo đức trong gia đình thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt Nam
hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho
học sinh, sinh viên, các bậc làm cha mẹ, các thành viên trong gia đình cũng
như những người quan tâm tới lĩnh vực đạo đức trong gia đình với hội nhập
quốc tế hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 2 chương, 5 tiết

7


Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRONG GIA ĐÌNH VÀ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. Đạo đức trong gia đình, giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam
1.1.1. Đạo đức trong gia đình Việt Nam
- Khái niệm gia đình
Trong quan niệm của C. Mác và Ph. Ănghen gia đình là tế bào của xã
hội, tham gia vào mọi quá trình sản xuất, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, từ
việc tái sản xuất ra con người đến việc đào tạo, bồi dưỡng con người đó, từ
việc tạo ra sự khác biệt về sở hữu đến chỗ giải quyết vấn đề sở hữu và ngược
lại, các quá trình sản xuất, tiêu dùng, cải tiến và sử dụng công cụ lao động,
giáo dục và đào tạo…đều tác động trở lại gia đình, củng cố hoặc làm biến đổi
hình thức và kết cấu của gia đình.
C.Mác và Ph.Ănghen đã xem xét gia đình với tư cách là một xã hội thu
nhỏ, các hình thức lịch sử của gia đình, nhất là gia đình với sự xuất hiện của
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Các ông không chỉ dừng lại ở một khái
niệm gia đình thuần túy, mà cịn khám phá nguồn gốc gia đình, tác động của
gia đình tới xã hội và các ảnh hưởng của những biến đổi xã hội tới gia đình,
đặc biệt là ảnh hưởng của sự biến đổi kinh tế, của tiến trình cơng nghiệp hóa,
thơng qua cách mạng kĩ thuật.
Nghiên cứu quan hệ gia đình trong sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là
mối quan hệ giữa gia đình và sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trong di sản lí luận của Chủ nghĩa Mác không những giúp cho ta thấy
được mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế - xã hội với sự phát triển
của gia đình, đồng thời cịn giúp chúng ta nhận thức được vị trí, vai trị của

gia đình trong sự phát triển của xã hội lồi người.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Gia đình là một hình thức
cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu trên

8


cơ sở hôn nhân và huyết thống. Yếu tố huyết thống và tình cảm là đặc trưng
bản chất nhất của gia đình
Kế thừa lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
coi trọng vai trị, vị thế của gia đình. Người nói “Nhiều gia đình cộng lại mới
thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
Hạt nhân của xã hội là gia đình” [51, tr. 523].
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình, Đảng ta đã xác định một
trong những yếu tố quan trọng nhất quy định sự phát triển bền vững của xã
hội là gia đình. Tại Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ X, Đảng ta khẳng định
chủ trương: Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt
Nam thích ứng với những địi hỏi của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của
mỗi con người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là mơi trường quan trọng hình
thành ni dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy
truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Quan niệm về gia đình căn cứ vào thực tiễn của hơn nhân và gia đình ở
nước ta hiện nay: Theo tác giả Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý thì “Gia đình là
một thiết chế xã hội đặc thù và liên kết con người lại với nhau nhằm thực hiện
việc duy trì nịi giống, chăm sóc và giáo dục con cái. Các mối quan hệ gia đình
được gọi là quan hệ họ hàng. Đó là những liên kết ít nhất cũng là hai người dựa
trên quan hệ huyết thống, hôn nhân và việc nhận con nuôi” [37, tr.54].
Theo giáo sư Lê Thi: “Khái niệm gia đình được dùng để chỉ một nhóm

xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống nảy
sinh từ quan hệ hơn nhân đó cùng chung sống. Đồng thời gia đình cũng có thể
bao gồm một số người tuy khơng có quan hệ máu mủ nhưng được gia đình
ni dưỡng” [63, tr20-21].

9


Theo Từ điển triết học, Nhà xuất bản Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội,
2002 thì “gia đình là một đơn vị xã hội (nhóm nhỏ xã hội), hình thức tổ chức
quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân, dựa trên hôn nhân và quan hệ huyết
thống, tức là quan hệ giữa vợ, chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em
và những người thân khác cùng chung sống và có kinh tế chung”.
Khái niệm gia đình: Theo Luật hơn nhân và gia đình được Quốc hội
nước ta thơng qua năm 2014 thì “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với
nhau do hơn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát
sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật này”.
Dưới khía cạnh xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã
hội. Các nhà xã hội học đưa ra khái niệm về gia đình như sau: “Gia đình là
một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên gắn bó
với nhau bởi mối quan hệ hơn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con
ni, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm
đáp ứng những nhu cầu riêng của các thành viên cũng như để thực hiện tính
chất tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người”.
Như vậy, khi bàn tới khái niệm gia đình cịn rất nhiều vấn đề cần phải
tìm hiểu và nghiên cứu. Như trên đã trình bày, có rất nhiều định nghĩa khác
nhau về gia đình, nhưng khái quát lại chúng ta có thể thống nhất: về cơ bản,
gia đình là một nhóm xã hội cơ bản hình thành trên hai mối quan hệ cơ bản;
quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống được nhà nước và xã hội thừa nhận.
Kế thừa các quan niệm trên, có thể rút ra một cách khái quát về gia

đình như sau: Gia đình là một hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng
đồng của con người, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan
hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục,…
Từ các cách hiểu trên, có thể đề cập đến gia đình với các đặc điểm sau:
Gia đình là một thiết chế xã hội được hình thành trước hết trên cơ sở
của quan hệ hơn nhân, nó nổi bật trên quan hệ đặc trưng có tính chất là quan

10


hệ huyết thống. Nó chỉ phát triển tốt đẹp dựa trên cơ sở của tình u và hơn
nhân chính đáng, hợp pháp. Trong gia đình cịn có quan hệ ni dưỡng là loại
quan hệ giữa chủ thể và đối tượng được nuôi dưỡng.
- Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội. Nó là sự
phản ánh những quan hệ xã hội hiện thực được hình thành trên cơ sở kinh tế.
Khi được hình thành, đạo đức có tính độc lập tương đối và có tác động trở lại
tồn tại xã hội.
Theo Chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức sinh ra trước hết là từ nhu cầu
phối hợp hành động trong lao động sản xuất, trong đấu tranh xã hội, trong
phân phối sản phẩm để con người tồn tại và phát triển. Cùng với sự phát triển
của sản xuất, các quan hệ xã hội, hệ thống các quan hệ đạo đức, ý thức đạo
đức, hành vi đạo đức cũng theo đó mà ngày càng phát triển, ngày càng nâng
cao, phong phú, đa dạng và ngày càng phức tạp.
Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan,
là sản phẩm của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Trong hiện
thực, hành vi đạo đức của con người chỉ diễn ra trong các chủ thể đạo đức.
- Khái niệm đạo đức gia đình
Đạo đức gia đình là những giá trị, những chuẩn mực quy định trách
nhiệm, nghĩa vụ đạo đức của các thành viên trong gia đình để điều chỉnh hành

vi của họ nhằm xây dựng gia đình đáp ứng và phù hợp với u cầu của xã hội.
Đạo đức gia đình là tồn bộ những quan niệm về giá trị và quy phạm về
hành vi của con người trong vấn đề hôn nhân và gia đình. Giáo dục có vai trị
quan trọng trong việc xây dựng đạo đức gia đình. Đạo đức gia đình cịn thể
hiện qua mối quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình. Ở Việt Nam, từ trước
đến nay vẫn đề cao việc chăm sóc con cái và con cái có hiếu đối với ơng bà,
cha mẹ. Đó là nét đặc trưng của văn hóa gia đình Việt Nam, văn hóa gia đình
Phương Đơng.

11


- Những đặc điểm gia đình Việt Nam hiện nay
Dù có rất nhiều thay đổi, nhưng với con người Việt Nam, gia đình vẫn
là một giá trị cao q. Đó là nơi mỗi người được sinh ra, nuôi dưỡng, dạy dỗ,
quan tâm chăm sóc, an ủi suốt cuộc đời. Gia đình là nơi chung sống của
những người có quan hệ hơn nhân và huyết thống, các thành viên có chung
kinh tế, cùng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.
Cơ cấu của gia đình Việt Nam có nhiều biến đổi. Gia đình hạt nhân
chiếm đa số, mỗi cặp vợ chồng có từ 1 đến 2 con, gia đình chỉ có từ 3 đến 4
người, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm đáng kể, tuổi thọ trung bình được nâng
cao. Các mối quan hệ trong gia đình mặc dù vẫn giữ được nền nếp, trên dưới,
gắn bó mật thiết, nhưng ngày càng dân chủ, bình đẳng và tự do hơn. Những
giá trị về tình u, hơn nhân vẫn được đề cao. Bình đẳng giới được thực hiện.
Phụ nữ có vai trị, vị thế quan trọng trong đời sống gia đình. Các chức năng cơ
bản của gia đình như: kinh tế, sinh sản và chăm sóc sức khỏe, giáo dục - xã
hội hóa, tâm - sinh lý tình cảm… ngày càng được củng cố và thực hiện tốt
hơn. Mặc dù có rất nhiều biến đổi, nhưng nhìn chung gia đình Việt Nam vẫn
đang trong quá trình kế thừa, phát huy những giá trị cao quý của gia đình
truyền thống và chọn lọc, tiếp nhận những giá trị tiên tiến của gia đình hiện

đại. Đang trong bước chuyển quá độ, nên gia đình Việt Nam hiện cùng tồn tại
nhiều giá trị khác nhau, cả những giá trị văn hóa gia đình truyền thống và cả
những giá trị văn hóa gia đình hiện đại. Đạo đức là cốt lõi của đời sống gia
đình truyền thống, nó thấm nhuần mọi mối quan hệ trong gia đình, tạo nên nề
nếp, tôn ti trật tự, sự êm ấm của gia đình. Đó là tình nghĩa vợ chồng sâu nặng,
lịng thủy chung son sắt; tình thương yêu của cha mẹ với con cái, sự hy sinh
vô bờ bến của các bậc sinh thành; sự hiếu thảo, tinh thần trách nhiệm và nghĩa
vụ của con cháu đối với ông bà, cha mẹ, đó là tình thương u đùm bọc, gắn
bó keo sơn, giúp đỡ nhau vô tư giữa anh chị em ruột thịt; tương thân tương ái
trong anh em họ hàng. Giáo dục gia đình là nhân tố căn bản tạo dựng giá trị

12


văn hóa cho mỗi con người từ nhỏ. Nó diễn ra trong suốt cuộc đời mỗi người
và góp phần tạo nên phẩm chất hiếu học quý báu. Giáo dục gia đình là
phương thức giáo dục tổng hợp với nhiều nội dung, phương pháp, nhiều chủ
thể, nhiều khung cảnh và cách tiếp cận khác nhau, nhưng chỉ hướng tới mục
đích duy nhất là giáo dục làm người. Nó đóng vai trị quan trọng nhất trong
việc hình thành nhân cách gốc của mỗi người. Nó tạo lập cho mỗi con người
những cơ sở căn bản của đạo đức, tình thương, trách nhiệm, nghị lực, kỹ năng
sống và ý chí vươn lên.
Giá trị tâm lý, tình cảm của gia đình. Gia đình là tổ ấm, ở đó con người
nhận được sự quan tâm chăm sóc, chở che, nâng đỡ, từ khi sinh ra đến khi từ
giã cõi đời, nơi con người hoàn toàn yên tâm nghỉ ngơi phục hồi sức khỏe và
tinh thần. Gia đình vốn là một cộng đồng xã hội, vì vậy, tình cảm, ý thức cộng
đồng được hình thành một cách tự nhiên đối với mỗi người. Từ tình cảm, ý
thức với cộng đồng gia đình, con người hịa nhập vào cộng đồng làng, nước.
Tình cảm cộng đồng là sự quan tâm đùm bọc, tương thân tương ái, giúp đỡ
nhau. Ý thức cộng đồng là thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ đối với mọi

người, đối với cộng đồng. Chính tình cảm, ý thức cộng đồng gia đình là cơ sở
quan trọng để mỗi người tham gia giao lưu và hịa nhập một cách thành cơng.
Gia đình Việt Nam đang chịu sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế. Bên cạnh tác động tích cực, nhiều tác động tiêu
cực đang chi phối, “xâm lấn” các mối quan hệ gia đình. Để phát huy những
giá trị văn hóa tốt đẹp của gia đình, cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
Tích cực, chủ động tuyên truyền, phổ biến Chiến lược phát triển gia
đình Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn 2030, xây dựng gia đình no ấm, tiến
bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã
hội. Từng bước biến Chiến lược thành hiện thực đời sống.
Tăng cường các biện pháp đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng đời sống
văn hóa ở khu dân cư. Ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, phòng, chống

13


tham nhũng, lành mạnh hóa đời sống xã hội, tạo mơi trường văn hóa tốt đẹp,
trong sạch để gia đình tồn tại, phát triển.
Có chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế hộ gia đình; thực hiện
tốt chính sách an sinh xã hội; phát triển hệ thống dịch vụ xã hội hướng vào hỗ
trợ phát triển kinh tế, văn hóa gia đình và lao động nội trợ.
Đầu tư khảo sát, nghiên cứu từng bước chỉ ra những giá trị truyền thống
tốt đẹp cần kế thừa, phát huy, những giá trị tiên tiến cần tiếp thu; đồng thời,
chỉ ra những hạn chế, lạc hậu trong truyền thống cần loại bỏ, những tiêu cực,
lệch lạc cần ngăn chặn.
Đề cao giáo dục gia đình, có biện pháp phối hợp giữa gia đình, nhà
trường và xã hội trong giáo dục đạo đức và nhân cách con người. Xây dựng
và hình thành nền tảng đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ;
Chủ động tuyên truyền, phổ biến và thực hiện các bộ luật gắn với gia
đình, như: Luật Hơn nhân và Gia đình; Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục

trẻ em; Luật Bình đẳng giới, Luật Phịng, chống bạo lực trong gia đình.
Từ những đặc trưng của gia đình Việt Nam ta có thể rút ra đặc trưng
của đạo đức gia đình Việt Nam như sau:
Một là, đạo đức gia đình Việt Nam đang có những biến động to lớn do
những biến động dữ dội của xã hội. Hiện nay, nước ta đang thực hiện tiến
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong xu
hướng tồn cầu hóa. Sự giao lưu mở cửa hội nhập đã đem đến cho gia đình
Việt Nam nhiều cơ hội. Gia đình Việt Nam có điều kiện phát triển kinh tế,
giao lưu hội nhập với các nền văn hóa tiên tiến, văn minh của các nước. Song,
bên cạnh những mặt tích cực đó, mặt trái của cơ chế thị trường cũng nảy sinh
nhiều vấn đề tác động đến đời sống gia đình Việt Nam, làm cho gia đình Việt
Nam đang đứng trước những thử thách, sóng gió. Cuộc sống của xã hội hiện
đại với sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế đã tác động đến đời
sống gia đình, ở một góc độ nào đó đã phá vỡ nề nếp gia phong, đạo đức của

14


gia đình truyền thống Việt Nam. Tình trạng ly hơn, ly thân, sống chung như
vợ chồng không đăng ký kết hơn, quan hệ tình dục trước hơn nhân và việc
nạo phá thai trong giới trẻ gia tăng, để lại những hậu quả nặng nề về nhiều
mặt đối với gia đình và xã hội. Xu hướng hôn nhân với người nước ngồi
ngày càng nhiều và sau hơn nhân nhiều phụ nữ di cư theo chồng sinh sống ở
nước ngoài cũng đặt ra mối quan tâm lo lắng của toàn xã hội. Các giá trị văn
hóa gia đình truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam đang có biểu hiện
xuống cấp, mai một. Nhiều tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, rượu chè, mại
dâm, HIV/AIDS đã và đang xâm nhập vào các gia đình. Mâu thuẫn xung đột
giữa các thế hệ về phép ứng xử, lối sống và vấn đề chăm sóc người cao tuổi
đang đặt ra những thách thức mới. Tình trạng bạo lực trong gia đình có chiều
hướng ngày càng gia tăng mạnh mẽ đến mức báo động.

Hai là, đang diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa cái cũ và cái mới, cái
truyền thống và cái hiện đại. Xung đột giữa truyền thống và hiện đại biểu hiện
ở sự “xung đột thế hệ”: giữa thế hệ đi trước với thế hệ sau, giữa thế hệ già và
thế hệ trẻ. “Thế hệ già” thường gắn bó nhiều hơn với truyền thống, với những
gì đã trở nên ổn định, thường không tin tưởng và không mong muốn vào
những biến động nào đó của xã hội và hay có những phản ứng “đề phòng” đối
với những điều mới mẻ của xã hội hiện đại. Còn “thế hệ trẻ”, trong sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, với những biến động nhanh chóng về
xã hội, chính trị và dưới ảnh hưởng của các xu hướng giao lưu, hội nhập quốc
tế, rất dễ bị tác động từ nhiều phía, dễ bị mất phương hướng trong thái độ đối
với truyền thống và tìm cách thích nghi với hồn cảnh. Từ đó, đang diễn ra sự
khác biệt giữa các thế hệ - cả về định hướng giá trị, cả về phong cách sống, thị
hiếu, thời trang… Những khác biệt, mâu thuẫn trên cũng là hiện tượng khách
quan, và chỉ có thơng qua q trình giải quyết chúng thì đạo đức mới có được
bước phát triển từ “chất” cũ sang “chất” mới. Chính các yếu tố khác biệt như
vậy tạo xung lực cho sự phát triển của đời sống đạo đức con người. Chính vì

15


thế, công tác giáo dục đạo đức phải khắc phục đồng thời cả hai khuynh hướng
cực đoan: hoặc là theo chủ nghĩa truyền thống, chỉ ca ngợi, đề cao và phục
hồi truyền thống theo kiểu một chiều trong một môi trường đóng cửa, khép
kín; hoặc là đón nhận, tiếp thu những yếu tố mới, hiện đại khơng có chọn lọc,
khơng cân nhắc, chạy theo “hiện đại hóa” bằng bất cứ giá nào. Chúng ta coi
trọng và giáo dục truyền thống chứ không theo chủ nghĩa bảo thủ; tiếp nhận
các giá trị hiện đại phù hợp chứ không theo “chủ nghĩa hiện đại” lai căng.
Nhiệm vụ của những người làm công tác giáo dục là kế thừa và phát huy các
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc; đồng thời tiếp thu và kết hợp với những
giá trị tiến bộ của thời đại (cả của trong nước và từ nước ngoài). Điều đó vừa

giúp chúng ta bảo tồn và phát huy sức mạnh nội sinh của dân tộc, vừa làm
chúng phong phú hơn nhờ sức mạnh ngoại sinh; đào tạo nên một lớp người
mới có đủ khả năng và bản lĩnh thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ những năm đầu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Trong
di sản văn hóa truyền thống có những giá trị cơ bản, đặc sắc, độc đáo. Nhưng
nó là nền văn hóa xây dựng trên cơ sở nền văn minh nơng nghiệp nên cũng có
nhiều điểm hạn chế, thiếu hụt. Do đó, phải “nâng cao trình độ khoa học kỹ
thuật”, phải xây dựng “đời sống mới”, “nền văn hóa mới” và “con người
mới”. Người viết tác phẩm Đời sống mới để hướng dẫn, giáo dục lối sống mới
cho mọi tầng lớp nhân dân.
Trong quan điểm về kế thừa và đổi mới, Người luôn tự khẳng định tư
duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, ln có ý thức “gạn đục khơi trong”, “đãi cát
tìm vàng”, tìm “hạt nhân hợp lý” để phát triển, đổi mới chúng cho phù hợp
với thực tiễn dân tộc Việt Nam và xu thế thời đại. Người chỉ rõ: “Đời sống
mới không phải cái gì cũng bỏ hết, khơng phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ
mà xấu thì phải bỏ… Cái gì cũ mà khơng xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa
đổi cho hợp lý… Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm… Cái gì mới mà
hay thì ta phải làm” [49, tr94 – 95].
16


1.1.2. Giáo dục đạo đức trong gia đình Việt Nam
- Khái niệm giáo dục
Có rất nhiều ngành khoa học nghiên cứu về giáo dục, do đó cũng sẽ có
rất nhiều quan điểm khác nhau về giáo dục. Tuy nhiên, để nắm được cốt lõi
cái nghĩa của giáo dục, chúng ta nên tìm hiểu và để ý đến gốc rễ của từ “giáo
dục”. Từ “giáo dục” theo nghĩa gốc trong tiếng La Tinh là “educere” có nghĩa
là “lơi ra”, “đưa ra khỏi”. Vào thời đại La Mã cịn đời sống thơn dã và tiếng
La Tinh là ngôn ngữ của dân chăn cừu thì “educere” chỉ có nghĩa rất đơn sơ là

bước đi trước đàn cừu của mình và dẫn chúng ra ngồi. Như vậy, giáo dục có
thể được hiểu là q trình làm sống dậy, khơi ra những đức tính cao cả, những
năng lực còn đang “nằm ngủ”, những khả năng còn đang tiềm ẩn trong một
chủ thể.
Giáo dục - hiểu theo nghĩa rộng là quá trình trao đổi và chuyển giao tri
thức, là sự đạt được những giá trị và các mơ hình hành vi theo một mục đích,
u cầu định sẵn. Hiểu theo nghĩa hẹp, giáo dục là một quá trình hình thành
nhân cách con người dưới ảnh hưởng của hoạt động có mục đích của nhà giáo
dục trong hệ thống các cơ quan giáo dục và dạy học.
Khái niệm về “giáo dục”: Giáo dục theo nghĩa chung là hình thức học
tập, theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay
nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác,
nhưng cũng có thể thơng qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng
đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể
được xem là có tính giáo dục. Giáo dục thường được chia thành các giai đoạn
như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học, và giáo dục
đại học.
Giáo dục là một q trình hai mặt, một mặt, đó là sự tác động từ bên
ngoài vào đối tượng giáo dục; mặt khác, thông qua sự tác động này làm cho đối
tượng tự biến đổi bản thân mình, tự hồn thiện, tự nâng mình lên qua giáo dục.
17


- Khái niệm giáo dục đạo đức trong gia đình
Giáo dục đạo đức là quá trình tác động đến đối tượng của giáo dục
nhằm hình thành ở họ ý thức, tình cảm, niềm tin, lý tưởng, hành vi đạo đức,
đó là những phẩm chất đạo đức cần thiết theo yêu cầu của xã hội, trong từng
giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Giáo dục đạo đức trong gia đình là sự tác động có hệ thống, có mục

đích của những người lớn trong gia đình và tồn bộ nếp sống của gia đình tới
con cái [73, tr. 233]. Giáo dục gia đình bao gồm nhiều nội dung khác nhau,
trong đó nội dung giáo dục đạo đức được coi là nội dung cơ bản của giáo dục
gia đình. Giáo dục đạo đức trong gia đình là sự tác động có hệ thống, có mục
đích của những người lớn trong gia đình nhằm chuyển hóa những ngun tắc,
chuẩn mức đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức nhân cách cho con
cái, hình thành ở chúng thái độ đúng đắn trong giao tiếp, ý thức tự giác, tự
nguyện thực hiện các chuẩn mực đạo đức của xã hội, thói quen chấp hành các
quy định của pháp luật. Như vậy, giáo dục đạo đức trong gia đình là hoạt
động giáo dục diễn ra trong phạm vi gia đình nhưng khác với các thiết chế
giáo dục khác, nó dựa trên quan hệ thuyết thống, tình cảm thiêng liêng và có
chú ý đến tính cá biệt của từng đối tượng giáo dục. Giáo dục đạo đức trong
gia đình góp phần hiện thực hóa mục tiêu giáo dục chung của tồn xã hội đó
là giáo dục trẻ em trở thành con ngoan – trò giỏi, giáo dục các thành viên
trong gia đình trở thành những người cơng dân tốt cho xã hội.
Như vậy có thể hiểu một cách khái quát về giáo dục đạo đức trong gia
đình là hoạt động có mục đích bằng những biện pháp phù hợp của các thành
viên trong gia đình nhằm chuyển hóa những ngun tắc, những chuẩn mực,
những giá trị đạo đức trong xã hội thành những phẩm chất đạo đức của các
thành viên trong gia đình để họ tự giác thực hiện nhằm xây dựng gia đình
thực sự trở thành tế bào của xã hội.

18


Như vậy, giáo dục đạo đức trong gia đình là quá trình giáo dục của các
thành viên trong gia đình tới những thành viên khác để chuyển hóa những yêu
cầu, chuẩn mực đạo đức của xã hội thành các phẩm chất của các thành viên
trong gia đình. Khi nói tới giáo dục đạo đức trong gia đình, người ta thường
nghĩ đó là sự dạy dỗ những đạo lý trong cuộc đời, những trách nhiệm và

nghĩa vụ đạo đức trong gia đình của các bậc cha mẹ cho con cái. Tuy nhiên để
giáo dục đạo đức cho con cái, các bậc cha mẹ phải khơng ngừng rèn luyện, tự
hồn thiện mình và khơng ngừng học hỏi vươn lên. Có như vậy, cha mẹ mới
có kiến thức, mới trở thành tấm gương sáng để con cái noi theo. Điều đó cũng
hợp với tư duy của C.Mác “Nhà giáo dục cũng phải được giáo dục”
Có thể nói giáo dục đạo đức trong gia đình thường được hiểu là giáo
dục của cha mẹ với con cái. Song trong thực tế cuộc sống không bao giờ giáo
dục nói chung và giáo dục đạo đức trong gia đình nói riêng xảy ra một chiều
mà giáo dục đạo đức bao giờ cũng mang tính chất hai chiều. Trong khi giáo
dục con cái về đạo lý làm người trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội các
bậc cha mẹ đã phải tự suy xét về quan niệm và hành vi đạo đức của mình.
Một người làm ăn gian dối khơng thể giáo dục cho con cái tính trung thực,
hoặc có thể nói ra thì bản thân phải suy nghĩ dằn vặt với chính mình. Hơn thế
nữa, hiện nay con cái có thể tiếp cận những thơng tin mới, những kiến thức
mới mà cha mẹ chưa biết được hoặc chưa có điều kiện tiếp cận, vì vậy cha mẹ
học tập lại con cái cũng là những điều kiện bình thường trong xã hội.
Như vậy, chủ thể chính là các bậc cha mẹ, ngồi ra cịn có ơng bà, anh
chị em, nhà trường, xã hội…và đối tượng giáo dục ở đây là con cái. Trong
thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, đời sống của các gia đình ngày càng
được nâng cao, bản thân cha mẹ có điều kiện hơn để nâng cao trình độ, hiểu
biết xã hội, tiếp thu tư tưởng đổi mới về chăm sóc và giáo dục con cái. Khi đề
cập tới chủ thể giáo dục đạo đức không chỉ bao gồm các thành viên trong gia
đình, mà tham gia vào cơng việc này cịn có đảng cầm quyền, nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội.
19


Đảng ta đưa ra quan điểm, đường lối xây dựng giáo dục gia đình. Trên
cơ sở đó định hướng sự phát triển gia đình trong một giai đoạn nhất định. Nhà
nước thực hiện vai trò quản lý các lĩnh vực đời sống xã hội trong đó có vấn đề

giáo dục đạo đức trong gia đình. Thực hiện vai trị này, nhà nước phải xây
dựng hệ thống pháp luật để quản lý đời sống đạo đức trong gia đình: như luật
hơn nhân, luật bảo vệ bà mẹ và trẻ em, luật phịng chống bạo lực gia đình…
Các tổ chức chính trị - xã hội là những nơi tập hợp quần chúng nhân dân, vừa
là nơi bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, vừa là nơi tuyên truyền phổ
biến quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới nhân dân,
vừa là nơi truyền đạt kinh nghiệm, phổ biến những kiến thức cần thiết đến
mọi người, đồng thời là nơi thu thập ý kiến của quần chúng nhân dân tới
Đảng và Nhà nước. Các tổ chức quần chúng là nơi thuận lợi nhất cho việc phổ
biến những kiến thức, những kinh nghiệm giáo dục con cái của các cha mẹ,
xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.
Giáo dục đạo đức trong gia đình Việt Nam hiện nay vừa mang tính
truyền thống vừa mang tính hiện đại. Trước đây, trong gia đình truyền thống,
giáo dục gia đình mang nặng tính độc quyền, gia trưởng. Ngày nay, giáo dục
đạo đức trong gia đình tiếp thu tinh thần bình đẳng, dân chủ, bao dung, vị tha…
Nội dung giáo dục đạo đức trong gia đình khơng chỉ bao gồm những
chuẩn mực đạo đức gia đình, xã hội trong phạm vi quốc gia mà cịn xuất hiện
những chuẩn mực mang tính quốc tế. Như vậy, phương pháp giáo dục trong
gia đình cũng cần có nhiều đổi mới, dân chủ và bình đẳng hơn.
1.1.3. Nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức trong gia đình hiện nay
1.1.3.1. Nội dung giáo dục đạo đức trong gia đình Việt Nam hiện nay
Giáo dục đạo đức cho con cái là giáo dục các giá trị đạo đức, các chuẩn
mực ứng xử cần thiết. Nội dung giáo dục đạo đức cho con cái trong gia đình
truyền thống chủ yếu tập trung vào giá trị đạo đức như: lịng hiếu thảo, tình
u thương, lễ phép, kính trọng đối với người trên, tôn sư trọng đạo, trung

20


thực, thẳng thắn,…Ngày nay, trong gia đình Việt Nam, nội dung giáo dục đạo

đức dựa trên những giá trị đạo đức tốt đẹp ấy vẫn đang tồn tại, đồng thời tiếp
thu những giá trị đạo đức của gia đình hiện đại trong xu hướng tồn cầu hóa
và hội nhập quốc tế.
Giáo dục sự kính trọng, lịng hiếu thảo với ơng bà, cha mẹ.
Đây là chuẩn mực đạo đức truyền thống được quan tâm giáo dục nhiều
nhất trong các gia đình hiện nay. Sự kính trọng, lịng hiếu thảo với ơng bà,
cha mẹ là một nguyên tắc, một quy chuẩn đạo đức của người làm con trong
gia đình. Sự hiếu thảo của con cái đối với ông bà, cha mẹ vốn là một giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, được truyền từ đời này sang đời khác. Sự
hiếu thảo, kính trọng với ơng bà cha mẹ cịn được viết qua bài ca dao:
Ngày nào em bé cỏn con
Bây giờ em đã lớn khôn thế này:
Cơm cha, áo mẹ, công thầy,
Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao.
Nuôi con cho được vng trịn,
Mẹ thầy dầu dãi, xương mịn gối long.
Con ơi, cho trọn hiếu trung,
Thảo ngay một dạ, kẻo luống công mẹ thầy.
Qua bài ca dao trên, chúng ta thấy rằng công ơn sinh thành nuôi dưỡng
của ông bà cha mẹ chúng ta không thể nào diễn tả hết. Vì vậy, mỗi con người
chúng ta được lớn lên trong vịng tay chăm sóc, u thương, dạy dỗ của ơng
bà, cha mẹ, do vậy không được phụ công sinh thành ni dưỡng đó.
Lịng hiếu thảo của con cái khơng phải là đức tính tự nhiên mà phải nhờ
được giáo dục ngay từ bé mới hình thành được. Ngày nay khi kinh tế gia đình
ngày càng được nâng lên thì việc cha mẹ lo cho con cái có một cuộc sống no
đủ sung túc là điều hợp lý. Chẳng hạn: cha hay mẹ đưa đón con cái đến
trường mỗi ngày, lo cho con ăn mặc và có tiền tiêu xài để khỏi thua kém

21



×