Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tư tưởng giáo dục của platôn qua tác phẩm nền cộng hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.76 KB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------------

PHẠM BÁ ĐIỀN

TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA PLATƠN
QUA TÁC PHẨM “NỀN CỘNG HỊA”

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chun ngành: Triết học

Hà Nội – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------------

PHẠM BÁ ĐIỀN

TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA PLATƠN
QUA TÁC PHẨM “NỀN CỘNG HỊA”

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đặng Hữu Toàn

Hà Nội – 2012



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi được thực
hiện dưới sự hướng dẫn của Thầy giáo PGS. TS. Đặng Hữu Toàn và có kế
thừa kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài đã được công bố. Những tư
liệu sử dụng để thực hiện đề tài được trích dẫn cụ thể, có xuất xứ rõ ràng.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm trước Hội đồng Khoa học về nội
dung luận văn này của mình.
Hà Nội, ngày 06 tháng 6 năm 2012
Tác giả

Phạm Bá Điền


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả mà em đã đạt được sau 3 năm học tập và rèn
luyện tại Khoa Triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà nội. Trong quá trình thực hiện luận văn em đã nhận được sự
giúp đỡ to lớn của các thầy giáo, cô giáo, các anh chị khóa trước, các bạn
trong lớp và đặc biệt là Thầy giáo PGS. TS. Đặng Hữu Toàn, người đã trực
tiếp hướng dẫn và tận tình chỉ bảo cho em hoàn thành tốt luận văn này.
Mặc dù đã nỗ lực cố gắng, song do năng lực cịn đang hồn thiện, vấn
đề mà luận văn tiếp cận còn mới nên khơng thể tránh khỏi những thiết sót. Vì
vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy giáo, cơ giáo cùng
tồn thể các bạn để đề tài của em được bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1. PLATÔN VỚI TÁC PHẨM “NỀN CỘNG HOÀ” ................... 8
1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội và cơ sở lý luận cho sự ra đời tƣ
tƣởng giáo dục của Platôn .......................................................................... 8
1.1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội................................................... 8
1.1.2. Cơ sở lý luận cho sự ra đời tư tưởng giáo dục của Platôn ........ 13
1.2. Platôn cuộc đời và sự nghiệp ............................................................. 22
1.2.1. Cuộc đời Platôn ............................................................................ 22
1.2.2. Sự nghiệp của Platơn ................................................................... 28
1.3. Về tác phẩm “Nền cộng hịa” ............................................................ 30
Chƣơng 2. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG
GIÁO DỤC PLATƠN TRONG TÁC PHẨM “NỀN CỘNG HỊA” .... 42
2.1. Đối tƣợng giáo dục ............................................................................. 42
2.2. Nội dung giáo dục ............................................................................... 48
2.3. Phƣơng pháp giáo dục ....................................................................... 57
2.4. Mục đích giáo dục .............................................................................. 64
2.5. Bƣớc đầu đánh giá giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng giáo dục
của Platôn .................................................................................................. 70
2.5.1. Giá trị trong tư tưởng giáo dục của Platôn ................................ 70
2.5.2. Hạn chế trong tư tưởng giáo dục của Platôn ............................. 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia, dân tộc.
Giáo dục khơng chỉ là chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát
triển mà còn góp phần ổn định tình hình chính tri, xã hội và nâng cao chỉ số
phát triển con người.
Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học và

cơng nghệ, hàm lượng trí tuệ kết tinh trong mỗi sản phẩm hàng hóa ngày
càng được chú trọng và quyết định đến chất lượng sản phẩm. Song, tài năng,
trí tuệ, năng lực và bản lĩnh trong lao động, sáng tạo của con người không
phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên, tự phát, mà phải trải qua một quá trình
giáo dục, rèn luyện cơng phu, lâu dài mới có được. Chính vậy, giáo dục lại
càng được coi trọng và trở thành yếu tố cấu thành nên nền sản xuất xã hội.
Thực tiễn cho thấy bất kỳ quốc gia nào muốn phát triển đều phải quan tâm,
đầu tư cho giáo dục. Bởi vậy, cuộc chạy đua phát triển kinh tế của thế giới
hiện nay không chỉ dừng lại ở lĩnh vực khoa học, cơng nghệ, mà cịn là cuộc
chạy đua về giáo dục con người.
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm xây dựng và phát huy nhân tố
con người. Bởi vì, con người là chủ thể của tất cả những sáng tạo, những
nguồn của cải vật chất và văn hóa, văn minh của quốc gia, dân tộc. Xây dựng
và phát triển con người có trí tuệ cao, cường tráng về thể chất, phong phú về
tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực, đồng thời cũng là mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội. Có thể nói, nguồn tài ngun và sự giàu có của một quốc gia
khơng phải chỉ nằm trong lòng đất, mà còn nằm trong trí tuệ con người của mỗi
quốc gia, dân tộc. Muốn làm được điều đó thì phải thơng qua giáo dục, bởi nó
chính là nhân tố quyết định đến xây dựng và phát triển con người. Nhận thức
sâu sắc vấn đề này trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần
1


thứ 2, khoá VIII, Đảng ta đã đưa ra và nhấn mạnh: “Thực sự coi giáo dục –
đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục – đào tạo cùng với
khoa học – công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển
xã hội. Đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư cho phát triển” [9, tr. 29].
Trong bối cảnh thực tiễn ln vận động, biến đổi, cùng với chính
sách mở cửa của đất nước nhằm hòa nhập với cộng đồng quốc tế như hiện
nay. Chúng ta muốn phát triển thì phải ln tự chấn chỉnh và đổi mới,

trong đó chấn chỉnh và đổi mới giáo dục là một trong những lĩnh vực mà
Đảng và Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
“Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hố, xã hội hố, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế” [10, tr. 131]. Chính vậy, đổi mới giáo dục đã trở
thành nhu cầu và là nhiệm vụ cấp bách của nước ta. Tuy nhiên, theo tinh thần
biện chứng, trong q trình đổi mới, chúng ta khơng được phép phủ định sạch
trơn những tinh hoa, những tư tưởng giáo dục có giá trị của nhân loại nói chung
và của nước nhà nói riêng mà phải biết kế thừa, phát huy và vận dụng một cách
linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
Nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của lịch sử tư tưởng nhân
loại, chúng ta không thể không nhắc đến nhà đại hiền triết Platôn, mà tư
tưởng của ông đã trải qua hàng nghìn năm, song vẫn trường tồn và có sức
sống mãnh liệt. Platôn đã để lại cho nhân loại một di sản đồ sộ trong đó có tư
tưởng về giáo dục. Ông cũng là người đã sáng lập ra trường đại học đầu tiên
trên thế giới mang tên Academi, bản thân Platôn là người thầy xuất sắc,
thường xuyên thuyết giảng cho các học trị mà khơng cần giáo án.
Tư tưởng giáo dục của Platôn nằm trong nhiều tác phẩm, mà tập trung nhất
là ở tác phẩm “Nền cộng hồ”. Có thể nói, đây là một trong những cơng trình lớn
nhất của triết học phương Tây. Khơng có gì giống với nó trước đó và cũng rất ít
2


giống với nó sau này, nhiều câu chuyện đẹp nhất về giáo dục cũng được bắt nguồn
từ tác phẩm này. Tác phẩm “Nền cộng hòa” là sự kết hợp giữa triết học và văn
học ở mức độ cao nhất để trả lời cho câu hỏi: Chúng ta nên sống thế nào để được
hạnh phúc? Cần phải lựa chọn như thế nào giữa công bằng và bất công? Con
đường nào để xây dựng một nhà nước đúng đắn, công bằng – “nhà nước lý
tưởng”? Giáo dục có vai trị gì trong việc tìm ra con đường đó? Để trả lời câu hỏi

này hàng loạt vấn đề về triết học, giáo dục, tôn giáo, đạo đức học, nhận thức luận
… đã được Platôn đề cập đến. Tất cả các vấn đề Platôn nêu trong tác phẩm đan
xen, hòa quyện với nhau tạo nên một tác phẩm tuyệt vời và định hình sự phát triển
về sau của hàng loạt các môn học mà đến nay vẫn còn được các nhà khoa học
quan tâm và giải quyết. Bởi vậy, những triết gia ngày nay vẫn đọc tác phẩm “Nền
cộng hòa” như những người trước đó đã làm, khơng chỉ vì lịng tơn kính đối với
Platơn, mà cịn vì những vấn đề mà Platơn đặt ra vẫn tiếp tục thách thức, làm băn
khoăn và truyền cảm hứng đến cho họ một cách mãnh liệt, trong đó có tư tưởng
của ơng về giáo dục.
Thế nhưng, hiện nay, tư tưởng giáo dục của Platôn trong tác phẩm “Nền
cộng hòa” vẫn chưa được quan tâm và đánh giá một cách đúng mức. Trong khi
việc chấn hưng và đổi mới giáo dục của nước nhà trong bối cảnh hội nhập lại
đang đặt ra và trở thành yêu cầu cấp bách. Vì thế, việc nghiên cứu chuyên sâu
tư tưởng giáo dục trong tác phẩm “Nền cộng hòa” mang một ý nghĩa rất quan
trọng. Với tất cả những lý do đó, chúng tôi chọn: Tư tưởng giáo dục của
Platôn qua tác phẩm “Nền cộng hoà” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
Thạc sĩ chuyên ngành Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trên thế giới, các cơng trình nghiên cứu về lịch sử triết học nói chung và
triết học Platơn nói riêng, có thể nói, tương đối nhiều, kể cả triết học mácxít và
triết học phi mácxít. Bởi lẽ, các nhà triết học trước khi xây dựng học thuyết của

3


mình bao giờ cũng cần phải nghiên cứu lịch sử triết học trước đó. Chúng ta có
thể kể ra một số cơng trình nghiên cứu chun sâu về Platơn như: Tác giả A.
Losev với tác phẩm Cuộc đời và sự nghiệp sáng tạo của Platôn; Asumuxo,
Lịch sử cổ đại; Công trình nghiên cứu của tập thể tác giả Liên xơ, Lịch sử triết
học (Tập 1, Maxítcơva, 1940)…

Ở Việt Nam, đã xuất hiện một số cơng trình dịch thuật khá sớm như
của tác giả Đặng Thai Mai với tác phẩm Lịch sử triết học phương Tây do
nhà xuất bản giáo viên ấn hành năm 1950. Sau những năm đổi mới các
công trình dịch thuật và nghiên cứu về triết học ngồi macxít nói chung và
của Platơn nói riêng đã được quan tâm và dịch thuật khá nhiều. Có thể kể tên
một số tác phẩm về Platôn như sau:
Platôn chuyên khảo của Benjamin Jowett và M.J.Knight do Lưu Văn
Hy và Trí Tri dịch, nhà xuất bản Văn hóa – Thơng tin ấn hành năm 2008.
Trong cuốn sách này tác giả đã dịch thuật những tác phẩm của Platơn như:
Nền cộng hồ, Phiên tòa và cái chết của Socrates, Meno, Bữa tiệc…
Triết học Hy lạp cổ đại do Thái Ninh biên soạn, nhà xuất bản sách khoa
Mác – Lênin ấn hành năm 1987. Trong tác phẩm này, tác giả đã trình bày triết
học Hy Lạp từ khi hình thành đến triết học Hy Lạp hoá, thời kỳ suy tàn của
chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cổ đại. Trong tác phẩm này, ngồi việc trình
bày về tư tưởng của Socrates, tác giả cịn trình bày tư tưởng của Platơn bao
gồm quan niệm về: vũ trụ, nhà nước, mỹ học và lý luận nhận thức.
Lịch sử triết học, Nguyễn Hữu Vui (chủ biên), nhà xuất bản Quốc gia ấn
hành năm 1998, trong đó tác giả trình bày triết học Platơn với các nội dung:
học thuyết về thế giới, nhận thức luận, logic học, nhân bản học, học thuyết
chính trị xã hội và thẩm mỹ học.
Lịch sử Triết học phương Tây, Lê Tôn Nghiêm nhà xuất bản Thành phố
Hồ Chí Minh ấn hành năm 2000. Trong đó tác giả trình bày quan niệm của

4


Platôn về tri thức luận, học thuyết về những lý tưởng hay biện chứng pháp,
thiên nhiên hay vật lý học, luân lý và chính trị học.
Đại cương về Lịch sử Triết học phương Tây, Đỗ Minh Hợp, Nguyễn
Thanh, Nguyễn Anh Tuấn, Nhà xuất bản Tổng hợp Hồ Chí Minh ấn hành

năm 2006. Trong đó, các tác giả đã trình bày Platôn với tư cách là một nhà
triết học phương Tây cổ đại với các nội dung: cuộc đời và sự nghiệp của
Platôn, học thuyết linh hồn, học thuyết ý niệm, học thuyết về nhà nước…
Lịch sử phép biện chứng, Tập 1 – phép biện chứng cổ đại –, Viện Hàn
lâm Khoa học Liên Xô (Đỗ Minh Hợp dịch, Đặng Hữu Tồn hiệu đính),
nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 1998. Nội dung cốt lõi của
cuốn sách bàn về lịch sử ra đời của phép biện chứng, trong cuốn sách
Platôn với tư cách là một triết gia lỗi lạc cũng được bàn đến trong dòng
chảy của lịch sử phép biện chứng.
Lịch sử triết học, tập 1 – Triết học cổ đại – của tác giả Nguyễn Thế
Nghĩa, Doãn Chính (chủ biên), do nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành
năm 2002. Trong đó, trình bày vắn tắt quan điểm của các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại, Platôn cũng được đề cập với tư cách là một nhà triết học suất
xắc của thời kỳ này. Các tác giả đã tập trung nghiên cứu quan niệm của
Platôn với học thuyết ý niệm, tâm lý học, nhận thức luận, giáo dục, tư
tưởng thẩm mỹ - nghệ thuật.
Ngồi ra, cịn có những cơng trình nghiên cứu về triết học Hy Lạp cổ đại
như: tác giả Hà Thúc Minh, Triết học Hy lạp La mã, Viện khoa học xã hội
Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1993; Tác giả Trần Văn Phòng, Triết
học Hy Lạp cổ đại, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội ấn hành năm
2006; tác giả Đinh Ngọc Thạch, Triết học Hy Lạp cổ đại, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Hà Nội xuất bản năm 1999; Lịch sử Triết học Tây phương, của
tác giả Lê Tơn Nghiêm, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm

5


2000; Lịch sử Triết học của Bùi Thanh Quất, Vũ Tình, nhà xuất bản giáo dục
ấn hành năm 2000;…
Nói chung, các cơng trình nghiên cứu nói trên mới chỉ nghiên cứu một

cách sơ lược hoặc tổng quan về Platôn. Do vậy, cho đến nay ở Việt Nam
vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên cứu chun sâu tư tưởng của Platơn
về giáo dục một cách có hệ thống nói chung, trong tác phẩm “Nền cộng
hồ” của ơng nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
- Mục đích:
Luận giải một cách tương đối có hệ thống tư tưởng giáo dục của Platơn trong
tác phẩm “Nền cộng hồ” để trên cơ sở bước đầu chỉ ra những giá trị và hạn chế
của tư tưởng này đối với giáo dục trong thời đại ngày nay.
- Nhiệm vụ:
+ Phân tích và trình bày một cách khái quát về cuộc đời, về sự nghiệp và
tư tưởng của Platôn về giáo dục trong tác phẩm “Nền cộng hoà”.
+ Đưa ra một số nhận xét và đánh giá về tư tưởng giáo dục của Platơn
trong tác phẩm “Nền cộng hồ”.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên nền tảng lý luận là quan
niệm của các nhà sáng lập triết học Mác – Lênin về lịch sử triết học nói chung
và triết học cổ đại nói riêng; đồng thời kế thừa, tham khảo có chọn lọc các
cơng trình của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng kết hợp những phương pháp nghiên
cứu của lịch sử triết học. Cụ thể là, phương pháp lơgíc kết hợp với phương
pháp lịch sử, phân tích và tổng hợp, hệ thống hoá và so sánh…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Tư tưởng giáo dục của Platôn
trong tác phẩm “Nền cộng hoà”.
6


6. Đóng góp của luận văn:
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo

dục của Platơn ở tác phẩm “Nền cộng hồ” mà cho đến nay vẫn cịn ảnh hưởng
khơng nhỏ đến tư tưởng giáo dục của nhân loại - chủ đề mà ở Việt Nam còn
chưa được nghiên cứu chuyên sâu, thậm chí cịn bỏ ngỏ.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu, làm sáng tỏ tư
tưởng về giáo dục của Platôn.
- Về thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
việc nghiên cứu, giảng dạy lịch sử triết học nói chung và giáo dục học nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 8 tiết.

7


Chƣơng 1
PLATƠN VỚI TÁC PHẨM “NỀN CỘNG HỒ”
1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội và cơ sở lý luận cho sự ra đời tƣ
tƣởng giáo dục của Platôn
1.1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội
Theo C. Mác: “không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của
họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [24, tr. 15]. Trung
thành với quan điểm khoa học đó, trước khi tiến hành nghiên cứu tư tưởng
giáo dục của Platôn chúng ta cần tìm hiểu những nét đặc thù trong điều kiện
kinh tế - xã hội ở thời đại mà Platôn sống. Trên cơ sở đó, chúng ta mới có
được nhận thức khách quan và những đánh giá về những giá trị và hạn chế
một cách đúng đắn về tư tưởng giáo dục của Platôn.
Platôn sinh ra và lớn lên ở Hy Lạp cổ đại, là cái nôi của nền triết học
phương Tây. Đây là một quốc gia rộng lớn có điều kiện thiên nhiên khá ưu
đãi với mưa thuận gió hồ. Hy Lạp bao gồm miền nam bán đảo Ban Căng,

miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hịn đảo ở biển Êgiê.
Hy Lạp được chia làm ba khu vực: Bắc, Nam và Trung bộ, trong đó
phía Nam bộ là bán đảo Pelopongnedơ với nhiều đồng bằng rộng lớn, phì
nhiêu rất thuận lợi cho việc trồng trọt và phát triển nông nghiệp. Miền Trung
bộ có nhiều dãy nũi ngang dọc và những đồng bằng trù phú, tập trung nhiều
dân cư, nơi có thành phố lớn như Aten.
Hy Lạp có vị trí địa lý với rất nhiều lợi thế, các mặt của lãnh thổ gần
như tiếp giáp với biển, đặc biệt là vùng bờ biển phía Đơng của bán đảo Ban
Căng khúc khuỷu, nhiều vịnh nên Hy Lạp dễ dàng mở các cảng biển thông
thương, giao lưu với các nước khác, tạo cơ sở thuận lợi để phát triển kinh tế,
thủ công nghiệp và các ngành nghề khác. Trong đó, các đảo trên biển Êgiê là
8


nơi trung chuyển cho việc đi lại buôn bán giữa Hy Lạp với các nước thuộc
Tiểu Á và những nước khác. Vùng biển Tiểu Á là đầu nối giao thương giữa
Hy Lạp và các nước phương Đông.
Tất cả những điều kiện tự nhiên thuận lợi đó đã tạo nền tảng vững chắc
cho Hy Lạp cổ đại nhanh chóng trở thành một quốc gia có một nền cơng
thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng, và
chính nơi đây đã trở thành cái nơi của nền triết học phương Tây với những
triết lý bất hủ trong đó có nhà đại hiền triết Platơn.
Về kết cấu giai cấp, từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ VI trước Công
nguyên là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại. Bởi đây là
thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Sự thay
thế công cụ lao động đã tạo ra năng suất lao động tăng nhanh, sản phẩm
làm ra ngày càng nhiều dẫn đến dư thừa, chế độ chiếm hữu tư nhân được
xác lập và ngày càng được củng cố. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã
kéo theo sự phân công mạnh mẽ lao động trong xã hội. Trong nông nghiệp
chăn nuôi đã tách ra khỏi trồng trọt. Chế độ chiếm hữu nơ lệ hình thành

ngày càng rõ rệt kéo theo quan hệ xã hội cũng trở nên phức tạp, tổ chức xã
hội có sự thay đổi mạnh mẽ. Nếu như trước đây các quan hệ cũ trong phạm
vi bộ tộc, bộ lạc mang tính cộng đồng cao, các cá nhân muốn tồn tại và
phát triển buộc phải hịa mình vào cuộc sống cộng đồng, trong xã hội vẫn
chưa xuất hiện giai cấp thì nay chế độ chiếm hữu ra đời, đã làm xuất hiện
các tư tưởng tư hữu và sau đó là chế độ tư hữu về của cải, đã làm hình
thành giai cấp đối kháng với hai giai cấp cơ bản trong xã hội là giai cấp
chủ nô và giai cấp nô lệ. Trong đó giai cấp chủ nơ là giai cấp thống trị, bóc
lột, cịn giai cấp nơ lệ là giai cấp bị trị, bị bóc lột. Giai cấp nơ lệ là lực
lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội, tạo ra của cải vật chất trong xã hội.
Song dưới ánh mắt của người Hy Lạp cổ đại, nô lệ chỉ được coi là công cụ
9


biết nói. Họ khơng bao giờ được hưởng một chút quyền lợi chính trị nào kể
cả quyền làm người.
Thời kỳ này, đã xuất hiện chế độ cộng hòa dân chủ, song nó chỉ giành
cho dân tự do thuộc giai cấp chủ nơ, cịn đối với đơng đảo nơ lệ và kiều dân
thì đó chỉ là nền tàn bạo của giai cấp chủ nơ mà thơi. Do đó, xã hội chiếm hữu
nơ lệ ngày càng phát triển thì đấu tranh giai cấp giữa chủ nô với nô lệ, giữa
người giàu và người nghèo ngày càng mâu thuẫn gay gắt.
Lao động trong xã hội đã có sự phân chia rõ rệt giữa lao động trí óc và
lao động chân tay, chính điều này đã tạo điều kiện cho một số người chỉ
chuyên tâm lao động trí óc. Họ suy ngẫm về thế giới, xã hội và con người
dần dần làm nảy nở các tư tưởng triết học. Các tri thức triết học và khoa
học đã làm phá vỡ ý thức thần thoại và tơn giáo ngun thủy thời đó. Tuy
nhiên, ngay khi mới ra đời các tư tưởng triết học cũng mang tính giai cấp
sâu sắc và bị chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị. Nó là thế giới quan
của giai cấp chủ nô và trở thành tư tưởng thống trị xã hội. Khẳng định điều
này C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Trong mọi thời đại, những tư tưởng của

giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp
nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh
thần thống trị trong xã hội. Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật
chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử
nói chung tư tưởng của những người khơng có tư liệu sản xuất tinh thần
cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối. Những tư tưởng thống trị
khơng phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện tinh thần của những quan
hệ vật chất thống trị, chúng là những quan hệ vật chất thống trị được biểu
hiện dưới hình thức tư tưởng; do đó là sự biểu hiện của chính ngay của
những quan hệ làm cho một giai cấp trở thành giai cấp thống trị; do đó, đó là
những tư tưởng của sự thống trị của giai cấp ấy” [22, tr. 66, 67].
10


Thời kỳ cổ đại, Hy Lạp được phân chia thành nhiều nước nhỏ. Mỗi
nước lấy một thành phố lớn làm trung tâm. Trong đó có hai thành phố lớn và
hùng mạnh nhất là Spác và Aten.
Thành phố Spác nằm ở vùng bình nguyên, đất đai màu mỡ rất thuận lợi
cho sản xuất nơng nghiệp. Chính quyền nơi đây được giai cấp chủ nơ q tộc
duy trì theo kiểu cha truyền con nối. Do đó, Spác đã xây dựng một thiết chế
nhà nước dân chủ thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với giai cấp nô lệ.
Thành bang Aten nằm ở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp. Đây là
thành phố rất phát triển của Hy Lạp thời kỳ cổ đại là trung tâm kinh tế - văn
hóa và là cái nôi của triết học Châu Âu. Tương ứng với sự phát triển kinh tế,
văn hóa là thiết chế nhà nước dân chủ Aten.
Hai thành phố trên là hai thành phố hùng mạnh của Hy Lạp song do sự
tranh giành quyền bá nên thành phố Aten và thành phố Spác luôn luôn tiến
hành các cuộc chiến tranh tàn khốc, chém giết lẫn nhau kéo dài hàng chục
năm và cuối cùng dẫn đến thất bại của thành Aten. Cuộc chiến tranh giữa hai
thành phố diễn ra đã làm cho Hy Lạp suy yếu nghiêm trọng trên tất cả các mặt

của đời sống xã hội, tình hình kinh tế - chính trị rất bất ổn, đời sống nhân dân
rất khó khăn. Trong xã hội đã diễn ra các cuộc nổi dậy của giai cấp nơ lệ
nhưng đều thất bại vì họ xuất thân từ nhiều bộ lạc, họ nổi dậy một cách tự
phát, khơng có ngơn ngữ chung và khơng được tham gia các hoạt động chính
trị, xã hội. Nhân cơ hội này vua Philip ở phía bắc Hy Lạp đã đem quân xâm
chiếm toàn bộ bán đảo Hy Lạp vào thế kỷ thứ II trước Công nguyên, trong
điều kiện suy yếu Hy Lạp nhanh chóng bị rơi vào tay của đế quốc La Mã. Tuy
đế quốc La Mã đã chiếm được Hy Lạp song do nền văn hóa của Hy Lạp phát
triển rực rỡ khiến Đế quốc La Mã lại bị đồng hóa về mặt văn hóa.
Thời kỳ cổ đại, Hy Lạp đã xây dựng được những thành tựu rực rỡ trên
các lĩnh vực như văn học, thiên văn học, nghệ thuật…. đây là cơ sở để hình
thành nền văn minh phương Tây hiện đại. Cụ thể như:
11


Về nghệ thuật: Người Hy Lạp đã sáng tạo nên những cơng trình kiến
trúc, điêu khắc, hội họa có giá trị, thể hiện được tinh thần và tư tưởng của
người Hy Lạp.
Về văn học: Họ đã để lại một kho tàng văn học thần thoại đồ sộ rất
phong phú, những tập thơ thấm đẫm tình cảm, những vở kịch độc đáo phản
ánh cuộc sống sôi động, bền bỉ của người Hy Lạp.
Về luật pháp: Người Hy Lạp đã xây dựng được một nền pháp luật và
được thực hiện khá nghiêm tại thành bang Aten.
Về khoa học tự nhiên: Họ đã để lại những thành tựu toán học, vật lý
làm nền tảng cho sự phát triển khoa học tự nhiên sau này. Với các tên tuổi nổi
tiếng như Talet, Pytago, Heraclit…
Về lĩnh vực thiên văn: Người Hy Lạp đã biết Trái đất hình cầu, đã dự
báo được hiện tượng Nhật thực và Nguyệt thực, đã quan sát được các vì
sao trên bầu trời…
Về mặt lý luận: ý tưởng về sự bất tử của thần linh cũng tồn tại song

song với ý tưởng về sự vĩnh cửu của vũ trụ như sự kết hợp thế giới quan thần
thoại với tri thức khoa học và những mầm mống của tư duy triết học…
Như vậy, có thể nói Hy Lạp cổ đại đã xây dựng được một nền văn minh
phát triển rực rỡ sớm nhất nhân loại. Những thành tựu đó vẫn cịn giá trị đến
ngày nay mặc dù con người đã đạt được những bước tiến vượt bậc song con
người vẫn phải quay trở lại và thán phục. Đánh giá vấn đề này Ph.Ăngghen đã
cho rằng “về mặt triết học cũng như các lĩnh vực khác, chúng ta phải luôn
luôn trở lại với thành tựu của dân tộc nhỏ bé mà năng lực và sự hoạt động về
mọi mặt đã tạo ra cho nó một địa vị mà khơng một dân tộc nào khác có thể
mong ước được trong lịch sử của nhân loại” [ 25, tr. 397].

12


1.1.2. Cơ sở lý luận cho sự ra đời tư tưởng giáo dục của Platôn
Cơ sở lý luận cho sự ra đời tư tưởng giáo dục của Platơn đó chính là học
thuyết ý niệm và học thuyết linh hồn. Điều này được biểu hiện cụ thể như sau:
* Học thuyết ý niệm:
Platôn là nhà triết học duy tâm khách quan. Platơn cho rằng ý thức là có
trước và quyết định vật chất. Cụ thể, trong triết học của ông, ông gọi ý thức là
“ý niệm” và từ đó sinh ra hết thảy mọi sự vật hiện tượng. Từ điểm xuất phát
này Platơn đã xây dựng nên tồn bộ hệ thống triết học của mình. Thuật ngữ “ý
niệm” theo quan niệm của Platôn được hiểu theo năm nghĩa như sau:
Một là, ý niệm của vật là ý nghĩa của vật. Trong quá trình nhận thức và
phân biệt sự vật trong trạng thái hỗn loạn phổ biến của hiện thực. Chúng ta
luôn cố gắng trả lời cho câu hỏi rằng: Vật đó là gì và nó khác với mọi vật
khác ở điểm nào? Trả lời câu hỏi này chính là ý niệm của vật.
Hai là, ý niệm của vật là sự toàn vẹn nội tạng của mọi bộ phận riêng
biệt và mọi biểu hiện của vật. Một sự tồn vẹn khơng phân chia được thành
những bộ phận riêng biệt của vật ấy và thể hiện là một chân lý mới so với

chúng. Một cạnh của tam giác không thể tạo ra một tam giác toàn vẹn. Cạnh
thứ hai, cạnh thứ ba cũng vậy. Mặc dù vậy, một cách hợp nhất nào đó giữa
các cạnh sẽ đem lại một cái mới, một chất mới là tam giác.
Ba là, ý niệm của vật là sự thống nhất những đặc điểm cấu thành của
nó. Sự thống nhất này là quy luật của sự xuất hiện và những biểu hiện riêng
biệt của sự vật. Việc ý niệm là quy luật chung, quy định sự xuất hiện và biểu
hiện những đặc điểm riêng của nó, là thể hiện rõ ở mọi vật, vật càng phức tạp
thì quy luật chung của ý niệm của nó càng bộc lộ rõ hơn. Ví dụ: Khi nói anh
A là một con người, chúng ta xét anh A riêng biệt dưới ánh sáng của con
người nói chung, cịn con người nói chung – như quy luật quy định sự tồn tại
của mỗi con người riêng biệt. Như vậy, Ý niệm ở đây chính là quy luật.

13


Bốn là, ý niệm của vật khơng mang tính vật thể. Điều này là rõ ràng, vì
bản thân ý niệm khơng phải để chỉ một vật thể nào đó, mà ý niệm tồn tại vĩnh
viễn, bất kể vật thể đó cịn tồn tại hay khơng tồn tại.
Năm là, ý niệm của vật có sự tồn tại của riêng mình và hồn tồn độc
lập, bởi nó cũng tồn tại ở dạng lý tưởng đặc biệt dưới hình thức đầy đủ và
hồn hảo của mình, chỉ tồn tại trên trời hay cao hơn trời.
Trong năm đặc điểm kể trên thì bốn đặc điểm đầu cho thấy Platôn biết
cách vạch ra các quy luật của tư duy con người và các điều kiện cho tính
khách quan của nó. Nhờ có sự giúp đỡ của tư duy mà con người mới nhận
thức được sự vật, tìm được cái chung của sự vật và xác định được quy luật
của chúng. Tuy nhiên, đặc điểm cuối cùng đã làm cho tư tưởng của Platôn về
ý niệm trở nên kỳ lạ, hão huyền.
Để làm rõ hơn về ý niệm Platôn đã minh họa thông qua dụ ngôn “hang
động”. Trong dụ ngôn này Platôn dẫn ra cảnh tượng của những tù nhân sống
trong hầm tối dưới đất, với một lối vào mở ra ánh sáng và một lối đi dài dẫn

xuống hầm. Những tù nhân này đã sống ở đây từ nhỏ và họ bị xiềng ở cổ và
chân khiến họ không thể đứng dậy và quay lại được phía sau mà chỉ nhìn
được về phía trước. Ở xa hơn một chút phía trên có một ngọn lửa dọi sáng
phía sau lưng họ và giữa các tù nhân và ngọn lửa là một con đường mịn có
lan can được xây dọc theo nó, giống như bức màn ở một cuộc biểu diễn con
rối, che khuất những người biểu diễn nhưng cho thấy những con rối ở phía
trên. Các tù nhân bị giam giữ như thế khơng thể nhìn thấy điều gì của chính
họ hay của người khác, ngoại trừ những cái bóng do ngọn lửa chiếu vào
những người đi đi, lại lại lên bức tường qua ánh lửa. Khi họ nghe thấy tiếng
người dội lên từ vách hang thì họ nghĩ rằng những tiếng nói đó phát ra từ cái
bóng. Vì thế họ đã nhầm lẫn và coi những cái bóng trên tường là thực tại. Giả
sử một người nào đó được giải phóng khỏi xiềng xích và buộc phải đứng dậy
một cách đột ngột rồi quay đầu lại và đi bộ với cặp mặt hướng về phía có ánh

14


nắng ngoài hang, hẳn họ sẽ thấy đau đớn và khó chịu khi họ ra ngồi ánh
sáng, mắt họ sẽ ngợp ánh nắng khiến họ chưa thể nhìn thấy sự vật. Khi họ đã
nhìn quen các đồ vật trong ánh sáng của Mặt trời, họ nhận ra rằng Mặt trời tạo
ra các mùa và thời gian trong năm và chi phối mọi sự trên thế giới hữu hình
và hơn nữa Mặt trời là nguyên nhân của mọi cái mà họ đã quen nhìn thấy,
anh ta cũng sẽ hiểu rằng những gì mà anh ta và bạn anh ta nhìn thấy trên
tường là những cái bóng của thế giới hữu hình. Rồi người được giải thốt
khỏi cái hang đó nghĩ mình thật hạnh phúc khi được thay đổi và buồn cho
các bạn tù của họ. Họ có thể đã từng có thói quen ca ngợi và tự thưởng lẫn
nhau, với các giải thưởng giành cho người nào có con mắt tinh nhất khi nhìn
những cái bóng đi qua và có trí nhớ tốt nhất về thứ tự mà chúng đi sau nhau
hay đi cùng nhau. Khiến cho họ có thể đốn đúng được điều gì sẽ đến tiếp
theo. Rồi anh ta quay trở lại cái hang và ở lại chỗ cũ trong hang. Đột ngột ra

khỏi ánh sáng Mặt trời, mắt anh ta sẽ đầy tăm tối, anh ta có thể được yêu cầu
một lần nữa cho biết ý kiến của mình về cái bóng kia, để thi tài với các bạn
tù chưa từng được giải phóng. Trong khi mắt anh ta còn đang lờ mờ, chưa
ổn định và anh ta sẽ cần một thời gian để làm quen với bóng tối. Các bạn tù
sẽ cười nhạo anh ta và nói rằng việc đi lên miệng hang để trở về với cặp mắt
hỏng, dù chỉ để thử thôi, là việc không đáng làm. Nếu họ có thể đặt tay vào
người đang cố gắng giải phóng họ, hẳn họ sẽ giết chết người ấy.
Từ dụ ngơn trên Platơn khẳng định có hai thế giới đó là “thế giới tối
tăm của cái hang và thế giới rạng rỡ với ánh sáng Mặt trời. Hang giam giữ tù
nhân tương ứng với thế giới các sự vật hữu hình và ánh lửa trong đó tương
ứng với sức mạnh của Mặt trời. Việc đi lên khỏi hang để nhìn các sự vật ở thế
giới bên trên có thể coi là điều biểu thị cho cuộc hành trình đi lên của linh hồn
vào vùng của các sự vật khả tri” [2, tr. 174].
Platôn cho rằng thế giới ý niệm là thế giới có trước cịn thế giới sự vật
cảm tính là do thế giới ý niệm sinh ra. Trong đó, thế giới ý niệm quyết định
thế giới sự vật cảm tính, thế giới sự vật cảm tính sinh ra bằng cách bắt chước
15


thế giới ý niệm. Ý niệm nằm ngồi khơng gian và thời gian. Thời gian có thể
cuốn trơi tất cả những gì con người nhìn thấy xung quanh song chỉ riêng ý
niệm thì thời gian và khơng gian khơng thể chi phối được.
Platôn quan niệm thế giới sự vật cảm tính là khơng chân thật, chỉ là
cái bóng của thế giới ý niệm, bởi vì mọi sự vật hiện tượng đều không ngừng
vận động, sinh ra và mất đi, chúng khơng ổn định và bền vững. Cịn thế giới
ý niệm là thế giới của những cái phi cảm tính, phi vật thể là thế giới đúng
đắn chân thật. Chính vậy, tất cả những gì chúng ta nhìn thấy chỉ là cái bóng
của ý niệm, là bản sao của ý niệm. Giải thích quan niệm này Platơn đã minh
chứng “trên thế giới này có những cái giường và vơ số những cái bàn...
nhưng chỉ có hai ý niệm hay mơ thế của chúng; một cái về cái giường, một

về cái bàn” [2, tr. 204]. Hoặc khi chúng ta có thể nói một người đẹp hay là
một bơng hoa đẹp là vì chúng ta biết ý niệm về cái đẹp. Chúng ta khi nhìn
một sự vật nào đó chúng ta sẽ có sự đánh giá cho rằng nó đẹp, khi quan sát
nhiều sự vật như vậy, chúng ta nhận ra rằng cái đẹp của một hình thể thì
giống với các hình thức khác, tức là cái đẹp tồn tại ở nhiều hình thức khác
nhau. Từ đó, chúng ta đi đến kết luận ở mọi hình thức đều cùng là một cái
đẹp, và chúng ta sẽ hình thành dần khái niệm về cái đẹp. Cái đẹp này khi nó
với tư cách là một khái niệm, nó sẽ tồn tại khách quan, nghĩa là cái đẹp của
một sự vật cụ thể nào đó sẽ mất đi nhưng cái đẹp nói chung thì ln ln tồn
tại. Cụ thể như đối với bông hoa, cái đẹp của nó khi tàn sẽ mất đi, nhưng ý
niệm về cái đẹp vẫn cịn. Chính vậy, ý niệm tồn tại bất tử, cho nên nó khơng
thể đồng thời với sự vật cảm tính thường xun biến đổi khơng ngừng.
Theo phân tích như trên thế giới ý niệm và thế giới sự vật cảm tính
tồn tại biệt lập với nhau, vậy điều gì kết hợp chúng lại với nhau. Giải quyết
vấn đề này Platôn đã cho rằng bản thân thế giới ý niệm và thế giới các sự
vật cảm tính khơng thể tự kết hợp với nhau, do vậy phải có ai đó kết hợp
chúng với nhau. Người đó chính là Đấng sáng thế, Đấng sáng thế có thể
16


được ví như là nghệ nhân, là người tinh thơng, là người lành nghề, là nhà
điêu khắc, là họa sỹ thần thành. Đấng sáng thế sẽ tạo ra thế giới cảm tính
theo khn mẫu của thế giới ý niệm. Chẳng hạn như trên cơ sở ý niệm về
cái bàn, nghệ nhân mới tác động vào vật chất thuần túy để làm ra cái bàn
theo ý niệm cái bàn đã có sẵn. Theo đó nghệ nhân chỉ đóng vai trị trung
gian làm cầu nối giữa thế giới ý niệm và thế giới sự vật cảm tính. Tuy
nhiên, có khéo léo tài ba đến đâu thì người nghệ nhân cũng khơng thể tạo
ra sự vật hoàn hảo đúng như nguyên mẫu hay nói cách khác là ý niệm của
nó. Vậy vấn đề đặt ra là Đấng sáng thế trong khi tạo ra các sự vật của thế
giới có theo ý muốn chủ quan của ông không? Lý giải vấn đề này Platôn

khẳng định Đấng sáng thế là người có thiện chí, mà đã là có thiện chí thì
ơng ta ln mong muốn cho mọi việc trở nên giống ông ta nhiều nhất.
Như vậy, rõ ràng ý niệm là cái tồn tại trước, là nguyên mẫu, còn các sự
vật của thế giới là bản sao, và ý niệm là mơ hình hồn hảo, không bao giờ đạt
tới của sự vật, sự vật là sự sao chép khơng hồn hảo của ý niệm, thế giới ý
niệm là kế hoạch còn thế giới các sự vật là hiện thực hóa kế hoạch đó.
Đồng thời, với việc coi ý niệm là tồn tại thực, Platôn cũng khẳng
định cái khơng tồn tại cũng có thực. Cái khơng tồn tại là một khía cạnh của
tồn tại. Ví như, vật chất là cái khơng tồn tại, bởi vì chúng ta không thấy vật
chất tồn tại dưới dạng thuần túy bao giờ. Tuy nhiên, vẫn tồn tại khái niệm
vật chất nói chung và bản thân sự vật cảm tính vẫn là dạng biểu hiện cụ thể
của vật chất. Chính vậy, dưới cịn mắt của Platơn, bản thân vật chất cũng
tồn tại vĩnh viễn và không hề do thế giới ý niệm sinh ra mặc dù nó khơng là
gì cả nhưng vẫn cần thiết.
Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý niệm thì ý niệm là bản chất chung
của mọi sự vật, đem lại sinh khí cho chúng, và là cơ sở thống nhất cho tồn vũ
trụ, cịn vật chất là căn nguyên tạo ra hình thù, chất liệu cho mỗi sự vật cụ thể,

17


làm cho chúng đa dạng và không ngừng biến đổi. Vì vậy, các sự vật là trung
gian giữa ý niệm và vật chất.
* Học thuyết linh hồn
Thượng đế tạo ra “hạt giống và xuất phát điểm”. Linh hồn con người
cũng vậy, do thượng đế sinh ra nhưng linh hồn con người không phải được
tạo ra từ linh hồn thế giới mà được tạo hóa nhào nặn bằng chính những thành
tố cấu thành nên linh hồn thế giới nhưng với cách thức pha trộn khác nhau.
Platôn quan niệm mỗi linh hồn là một cá thể, chúng cư ngụ trên các vì sao
trên trời, có bao nhiều vì sao thì có bấy nhiêu linh hồn. Thượng đế đã đặt các

vì sao lên cỗ xe. Từ đó, linh hồn nhìn ngắm quan sát vũ trụ. Tạo hoá cũng ban
cho linh hồn con người một số phận bất di bất dịch. Platôn khẳng định linh
hồn tồn tại tiên nghiệm, có năng lực tiếp cận chân lý và giá trị, định sẵn con
đường lý tưởng thế giới và các lồi sinh vật khác. Tạo hố đã ban cho các linh
hồn con đường “tiếp cận tới các thiên thần” đó chính là Trái đất và các hành
tinh, ban cho “những công cụ nhất thời” để đưa linh hồn tới tồn tại hữu hình,
đó là thân xác, nuôi dưỡng làm con người lớn lên và khi thân xác chết đi
thượng đế lại tiếp nhận lại linh hồn.
Linh hồn con người mang bản chất tinh thần vơ hình, phi vật chất, siêu
trần thế. Chỉ khi linh hồn được cấy vào “những công cụ nhất thời” kết hợp với
thể xác thì khi đó mới sinh ra các tri giác cảm tính. Linh hồn con người bao
gồm 3 bộ phận: bộ phận thứ nhất là linh hồn lý trí, đây là linh hồn có khả
năng nhận thức được thế giới ý niệm, cơ quan của nó là đầu óc; bộ phận
thứ hai là linh hồn dũng cảm, là cơ sở cho sự giận dữ, tính tự trọng, gan dạ
và dũng cảm; bộ phận thứ ba là linh hồn dục vọng, đây là cơ sở cho những
tham vọng, ham muốn, nhu cầu ăn uống, nhu cầu tình cảm… Trong ba bộ
phận này thì chỉ có linh hồn lý chí là tồn tại bất tử, hai bộ phận cịn lại thì
chết cùng với thể xác.

18


Tuy linh hồn bao gồm 3 bộ phận song theo Platơn chúng ln thống
nhất với nhau. Trong đó, ơng đã so sánh linh hồn con người với “năng lực
gắn kết cỗ xe ngựa đối với người lái xe ngựa”. Người lái xe có vai trị như
linh hồn lý trí. Hai con tuấn mã có vai trị như hai bộ phận còn lại của linh
hồn, một con trắng đẹp bên phải đại diện cho linh hồn dũng cảm, một con đen
xấu xí bên trái đại diện cho linh hồn dục vọng, một con thì khơng cần roi vọt
gì cả, chỉ cần người cầm cương nói và hướng dẫn là nó đi đúng đường, còn
con kia ngang ngược và bất kham dùng roi vọt mới trị được nó. Muốn cho

con ngựa đi đúng hướng thì người cầm cương phải biết điều khiển, biết kết
hợp cả hai con ngựa một cách khéo léo, sao cho cả ba đều kết hợp và làm việc
cùng nhau để đạt được mục tiêu chung. Bằng hình ảnh như vậy, Platơn chỉ rõ
phần linh hồn lý trí nắm quyền điều khiển linh hồn dũng cảm và linh hồn dục
vọng để tạo nên sự hài hòa thống nhất với nhau.
Theo Platôn linh hồn trước khi nhập vào thể xác, bộ phận lý trí đã thấy rõ
ý niệm và chân lý. Khi linh hồn nhập vào thể xác, thì nó sẽ quên hết những
gì đã chiêm nghiệm trước đây. Mặc dù vậy, linh hồn vẫn có khả năng hồi
tưởng lại những gì đã biết. Tuy nhiên, hai bộ phận cịn lại của linh hồn là
linh hồn dũng cảm và linh hồn dục vọng, là hai linh hồn nhất thời, là nơi
trú ngụ của những nhu cầu, cảm xúc nguy hại khơng tránh khỏi, đã ngăn
cản q trình hồi tưởng của linh hồn lý trí làm cho nó khó có thể nhớ lại
những gì đã thấy, khiến cho linh hồn lý trí rơi vào tình trạng lầm lạc, dẫn
đến ngu dốt và là nguyên nhân của mọi điều xấu và ác.
Linh hồn theo quan điểm Platôn không chỉ dừng lại là một thực thể
tinh thần, mà còn là nguyên lý vận động và cuộc sống. Tất cả mọi lồi có
sự sống từ thực vật, động vật đều luôn tự vận động. Sự tự vận động của sự
sống là bởi vì nó có linh hồn. Do đó, linh hồn khơng chỉ là tinh thần, ý thức
mà còn là nguyên lý của sự sống, nó là nền tảng là cơ sở của mọi sự vận
động trên thế gian này.
19


Platơn cho rằng linh hồn cịn là khâu trung gian giữa cảm tính và lý
tính. Với tư cách là tinh thần, linh hồn con người là nơi chứa đựng ý niệm,
cịn với tư cách là linh hồn cảm tính, linh hồn là nơi chứa đựng nội dung sinh
khí. Một mặt nhằm thức tỉnh các ý niệm và mặt khác thông qua các ý niệm thì
linh hồn mới lộ diện được. Linh hồn con người gắn kết với thể xác một cách
tự nhiên, nó chính là nhịp cầu nối giữa thế giới ý niệm và thế giới các sự vật
cảm tính xung quanh chúng ta và tạo nên cấu trúc vũ trụ. Thơng qua linh hồn

mà khả năng cảm tính của con người nói riêng và thế giới cảm tính nói chung
thông dự vào các ý niệm và chúng giữ vai trị như vậy là do linh hồn vừa là lý
trí vừa là tự vận động.
Trong học thuyết linh hồn của Platơn, một trong những tư tưởng quan
trọng của ơng đó là sự luân hồi của linh hồn. Linh hồn sau khi được thượng
đế tạo ra nó được đầu thai vào các vật trên trái đất. Trong lần đầu thai đầu
tiên, các linh hồn đều như nhau khơng có linh hồn nào thiệt thòi cả. Sau khi
trải qua lần đầu thai thứ nhất, linh hồn dời khỏi thể xác và chịu sự phán quyết
trước toà án của những người quá cố. Sau đó, linh hồn được tái sinh lần thứ
hai. Lúc này các linh hồn tự chọn cho mình một đường đời tương lai của
mình. Người nào được giải thốt trước tiên, người đó được lựa chọn trước
đường đời của mình, và sau này họ không thể thay đổi được. Về đức hạnh
hồn tồn phụ thuộc vào người đó tơn trọng hay hắt hủi nó. Thơng thường
đa số mọi người lựa chọn dựa trên thói quen từ kiếp trước. Nếu như một
người đàn ông ở lần tái sinh thứ hai lại mang bản tính của một phụ nữ thì
cũng là vì kiếp trước khả năng cảm tính nổi trội hơn lý trí của anh ta, nên
bây giờ trở thành một phụ nữ. Nếu một con lươn lựa chọn mình thành một
con sư tử, thì cũng vì ở kiếp trước nó đã phải nếm trải mùi thú dữ…chỉ khi
nào linh hồn trong cuộc đời của nó ít nhiều tiếp cận được với khái niệm và

20


×