ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
PHÙNG THỊ LĨNH
(THÍCH NHUẬN AN)
ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI DÂN
TRONG ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
Hà Nội-2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
PHÙNG THỊ LĨNH
(THÍCH NHUẬN AN)
ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI DÂN
TRONG ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60 22 03 09
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Tố Uyên
Hà Nội-2020
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các tư liệu, nguồn trích dẫn, ví dụ trong luận văn này đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận trong luận văn dựa trên những cứ
liệu khoa học đã được trình bày và chưa từng cơng bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác.
Tác giả luận văn
Phùng Thị Lĩnh
LỜI CẢM ƠN
Trải qua hơn hai năm học tập, đến nay luận văn đã hoàn thành. Tác giả
xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cơ giáo đã tận tình dạy bảo trong suốt
thời gian theo học tại khoa Sau Đại học, trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả cũng trân trọng cảm ơn Chư tôn
đức GHPGVN tỉnh Bắc Ninh đã tạo điều kiện để con hoàn thành nhiệm vụ
học tập của mình; đồng thời tác giả xin cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các
thầy cơ Bộ mơn Tôn giáo học, PGS, TS. Trần Thị Kim Oanh chủ nhiệm bộ
môn, tập thể lớp chuyên ngành Tôn giáo học.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn, TS.
Nguyễn Thị Tố Uyên. Cô đã trực tiếp định hướng nghiên cứu cho luận văn
này, đồng thời chỉ dạy tận tình cho tơi ngay từ cách tiếp cận vấn đề nghiên
cứu cho đến khi luận văn này hoàn thành.
Là một tu sĩ Phật giáo nên khả năng lĩnh hội tri thức thế học chưa nhiều.
Mặc dù bản thân đã ý thức trong quá trình thực hiện đề tài, nhưng chắc chắn
khơng tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả hoan hỷ rất mong nhận được sự chỉ
dẫn và những ý kiến góp ý của thầy cơ, đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2019
Tác giả luận văn
Phùng Thị Lĩnh
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU..................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 4
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 5
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu ....................................................... 10
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................ 10
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu .................................................. 11
6. Ý nghĩa của đề tài ........................................................................................ 11
7. Kết cấu của đề tài ........................................................................................ 12
CHƢƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SINH
QUAN PHẬT GIÁO .................................................................................... 13
1.1. Khái quát về Phật giáo và Phật giáo ở Bắc Ninh ................................ 13
1.1.1. Sự ra đời của Phật giáo ........................................................................ 13
1.1.2. Phật Giáo ở Bắc Ninh ........................................................................... 18
1.2. Khái quát về nhân sinh quan và nhân sinh quan Phật Giáo ............. 26
1.2.1. Một số quan niệm về nhân sinh quan.................................................... 26
1.2.2. Nội dung của nhân sinh quan Phật giáo ............................................... 29
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 54
Chƣơng 2. NHỮNG ẢNH HƢỞNG CƠ BẢN CỦA NHÂN SINH QUAN
PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI DÂN BẮC
NINH VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ PHÁT HUY GIÁ TRỊ ............... 56
CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO .................................................... 56
2.1. Khái quát cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội, tình hình tín ngƣỡng
tơn giáo ở Bắc Ninh ....................................................................................... 56
2.1.1. Điều kiện tự nhiên – xã hội ................................................................... 56
2.1.2. Tình hình tơn giáo, tín ngưỡng ở Bắc Ninh .......................................... 58
1
2.2. Thực trạng ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống
tinh thần của ngƣời dân tỉnh Bắc Ninh. ...................................................... 59
2.2.1. Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến lối ứng xử với bản thân của
người dân Bắc Ninh ........................................................................................ 59
2.2.2. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến lối ứng xử với tha nhân
của người dân Bắc Ninh.................................................................................. 65
2.2.3. Ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đến lối ứng xử với môi trường của người
dân Bắc Ninh ................................................................................................... 75
2.2.4. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến văn hóa, văn học, nghệ
thuật ................................................................................................................. 80
3. Một số đề xuất khuyến nghị ..................................................................... 86
3.1. Với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bắc Ninh ..................................... 86
3.2. Với công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.............................................. 88
Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................... 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 95
2
CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
Giáo hội Phật giáo Việt Nam
: GHPGVN
Nhân sinh quan
: NSQ
Nhân sinh quan Phật giáo
: NSQ Phật giáo
Vũ trụ quan
: VTQ
Vũ trụ quan Phật giáo
: VTQ Phật giáo
Nhà xuất bản
: Nxb
3
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một nhu cầu của bộ phận văn hóa tinh thần con người, của
từng cộng đồng xã hội trong lịch sử và hiện tại. Phật giáo nảy sinh ở Ấn Độ
vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Công nguyên trong một bối cảnh xã hội có hệ
thống tư tưởng triết học rất phong phú nhưng lại có sự phân hóa giai cấp sâu
sắc. Phật giáo ra đời vừa là một trào lưu triết học vừa là một tơn giáo với mục
đích hướng con người vượt qua những khổ đau, mất mát để giải thốt giác ngộ,
đem hịa bình cho thế giới.
Phật giáo theo các thương gia Ấn Độ hiện diện ở nước ta vào những năm
đầu Công nguyên. Qua những tư liệu thành văn ghi lại được đã cho thấy đến
khoảng thế kỷ thứ II – III sau Công nguyên, trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Dâu
hoạt động khá nhộn nhịp với hình ảnh Thái thú Sĩ Nhiếp mỗi khi ra đường đều có
Hồ tăng đốt hương theo hầu. Qua lời Đàm Thiên đối đáp với Linh Nhân Hoàng
Thái Hậu cho thấy, trung tâm Phật giáo Luy Lâu thời Sĩ Nhiếp đã hiện diện một
tăng đoàn lớn mạnh, dịch kinh, xây tháp,... Điều này cho thấy, Phật giáo đã sâu
gốc bền rễ và có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của nhân dân nói chung và
người dân Bắc Ninh nói riêng trong lịch sử.
Ngày nay, trong bối cảnh công cuộc đổi mới của đất nước, Bắc Ninh là
một tỉnh không lớn so với các tỉnh nằm trong vùng đồng bằng Bắc bộ, song lại
có sự tăng trưởng kinh tế, văn hóa rất mạnh nên có sự tác động tích cực và tiêu
cực khơng nhỏ đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân nơi đây. Trong
bối cảnh đó, việc nghiên cứu làm rõ ảnh hưởng của tôn giáo, đặc biệt là Phật
giáo đối với đời sống tinh thần nhân dân Bắc Ninh hiện nay là cần thiết. Bởi
tỉnh Bắc Ninh không chỉ nằm gọn trong vùng đất thuộc đồng bằng châu thổ
sơng Hồng mà cịn là cái nôi của Phật giáo – trung tâm Phật giáo Luy Lâu –
Dâu thuộc huyện Thuận Thành ngày nay.
4
Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu, đề tài sẽ phân tích các
thơng tin lịch sử và các dữ kiện thu thập được trong quá trình điền dã, khảo sát
một số cộng đồng tín đồ Phật tử ở một số ngôi chùa tiêu biểu trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh hiện nay nhằm làm rõ những ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời
sống tinh thần của người dân Bắc Ninh hiện nay. Vì thế, chúng tơi lựa chọn đề
tài "Ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần
của ngƣời dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh" làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình tìm hiểu về nhân sinh quan Phật giáo và những ảnh hưởng
của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần của người dân Bắc
Ninh hiện nay. Chúng tơi nhận thấy rằng, có hai hướng tiếp cận chủ yếu trong
các cơng trình nghiên cứu của các học giả đi trước đối với vấn đề này, đó là: 1.
Cách tiếp cận triết học, đây là cách tiếp cận khoa học khi nghiên cứu về nhân
sinh quan nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng. Cách tiếp cận này
làm sáng tỏ những quan niệm nhân sinh quan của một số tôn giáo, về vai trị,
giá trị trong đời sống của tín đồ và 2. cách tiếp cận triết học tôn giáo được xem
là tiếp tục "mã hóa", "cụ thể hóa" các khái niệm từ cách tiếp cận thứ nhất. Soi
chiếu vào các sinh hoạt, hoạt động cụ thể của từng tôn giáo. Hay nói cách khác,
với cách tiếp cận này đã cho thấy ảnh hưởng của nhân sinh quan đối với đời
sống tinh thần của cá nhân các tín đồ tơn giáo hoặc trong cộng đồng tơn giáo
rất rõ ràng.
Ngồi những tài liệu mà đề tài thu thập liên quan đến nhân sinh quan,
nhân sinh quan Phật giáo cịn có nhiều tài liệu hướng về giải thích nhân sinh
quan theo các chiều cạnh khách nhau nhằm chứng minh nguồn gốc quan niệm
nhân sinh nói chung và quan niệm nhân sinh của Phật giáo nói riêng. Tuy
nhiên, trong phạm vi khn khổ của một luận văn, đề tài sẽ chỉ đề cập đến
những tư liệu chính nhằm phân tích, giải thích theo hướng sâu chuỗi để các vấn
đề nhân sinh quan được sáng tỏ trên phương diện triết học và triết học tôn giáo.
5
Về nhân sinh quan, hiện nay đã có nhiều cơng trình, bài tạp chí hay các
bài viết chun sâu nghiên cứu. Đó là các cơng trình Lịch sử triết học của
GS.TS. Nguyễn Hữu Vui chủ biên (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007),
Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, của GS. TS. Nguyễn Hùng Hậu (Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002), Triết học phương Đông - Triết học Ấn Độ
của Hà Thúc Minh (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992), Tứ diệu đế do Võ
Quang Nhân dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính (Nxb Tơn giáo. Hà Nội, 2007),
Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ của học giả Dỗn Chính (Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1997),... Nhìn chung, nguồn tư liệu trên đã chỉ ra được
khái niệm NSQ và NSQ Phật giáo. Chẳng hạn, PGS.TS. Dương Văn Thịnh trên
phương diện triết học nhận định con người và xã hội loài là một bộ phận cấu
thành nên thế giới và có quan hệ chặt chẽ với tồn bộ thế giới (Nxb. Tơn giáo,
Hà Nội, 2011) hay GS.TS. Đỗ Quang Hưng nhận xét trên phương diện triết học
tơn giáo đã cho rằng NSQ có vị trí vơ cùng to lớn trong thần học Kitô giáo và
giáo lý Phật giáo (Nxb. Tơn giáo, Hà Nội, 2011),... Ngồi ra còn một số tài liệu
đề cập đến NSQ của Nho giáo như Đến hiện đại từ truyền thống của học giả
Trần Đình Hượu (Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1996), Việt Nam văn hóa sử cương
của học giả Đào Duy Anh (Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 2006),...
Về nhân sinh quan Phật giáo, có nhiều tài liệu đề cập sâu sắc về vấn đề
này. Đó là các cơng trình: Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong
đời sống tinh thần ở Việt Nam của Lê Hữu Tuấn, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà
Nội, 1999; Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, của GS. TS. Nguyễn Hùng
Hậu (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002), Khổ đau phát sinh và vận hành
như thế nào của Hoàng Phong (Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2002), Vô ngã là
niết bàn của Thích Thiện Siêu (Nxb Tơn giáo, Hà Nội, 2002); Ảnh hưởng của
nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam và
sự biến đổi của nó trong q trình đổi mới hiện nay của Mai Thị Dung, Luận
văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2003; Một số tôn giáo ở Việt Nam của Ban tôn
6
giáo Chính Phủ (Lưu hành nội bộ, 1995), Tư tưởng giải thốt trong triết học
Ấn Độ của Dỗn Chính (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997), Lịch sử Phật
giáo Việt Nam do học giả Nguyễn Tài Thư chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 1998), Kinh văn của các trường phái triết học Ấn Độ do Dỗn Chính
chủ biên (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003), Lịch sử nhà Phật của Đồn
Trung Cịn (Nxb. Tơn giáo, Hà Nội, 2007), Đạo Phật và dòng sử Việt của Đức
Nhuận (Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2008), Kinh Từ Bi của Thích Nguyên Hiệp
(2010); Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh
thần người Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Nguyến (Thích Diệu Luyến),
Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2011; Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật
giáo đến đời sống tinh thần của cư dân Đồng bằng Sông Hồng hiện nay của
Nguyễn Thị Thúy Hằng, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2015,... đây là
những nguồn tài liệu chỉ ra cơ sở hình thành, quan niệm về NSQ của Phật giáo
trên các phương diện: Bối cảnh lịch sử của đạo Phật, người sáng lập đạo Phật;
sự kết tập kinh điển Phật giáo để có được hệ thống quan niệm đầy đủ về nhân
sinh trên ba phương diện chính là quan niệm về con người, ứng xử giữa con
người với con người và ứng xử của con người với thiên nhiên,... Có thể thấy,
khuynh hướng tiếp cận này đã chỉ ra những quan niệm cơ bản về nhân sinh
quan và nhân sinh quan Phật giáo, đặc biệt là từ các nhà khoa học tiếp cận theo
triết học.
Về ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đối với đời sống tinh thần của nhân
dân nói chung và nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Có thể thấy, phần lớn
các cơng trình đều tiếp cận triết học tơn giáo. Các cơng trình này cho biết sâu
sắc hơn về quan niệm về nhân sinh của Phật giáo trong tiến trình lịch sử Phật
giáo Việt Nam, đặc biệt là ở tỉnh Bắc Ninh. Trước hết là các công trình lịch sử
như Dư địa chí do Phan Duy Tiếp dịch - Hà Văn Tấn hiệu đính và chú thích,
(Nxb Sử học, Hà Nội, 1960), Lịch triều hiến chương loại chí (Nxb Sử học, Hà
Nội, 1960), Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí,…đặc biệt là cơng trình
7
Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Kinh Bắc phong thổ ký diễn quốc sự của Trần Văn
Giáp (Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản năm 1971) đã cho biết về địa lý cũng như
vị trí và vai trị văn hóa, tín ngưỡng tơn giáo ở tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử.
Về ảnh hưởng của văn hóa, tín ngưỡng tơn giáo, đặc biệt là Phật giáo đối
với nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử. Trong cơng trình Việt Nam cái
nhìn địa - văn hóa của GS. Trần Quốc Vượng (Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội)
đã xem các trung tâm chính trị, văn hóa, tơn giáo Xứ Bắc đều ở trên bờ những
dịng sơng Dâu và sơng Đuống; Cơng trình Luy Lâu lịch sử và văn hóa của tác
giả Trần Đình Luyện (Sở Văn hóa Thơng tin tỉnh Bắc Ninh xuất bản, 1999)
tiếp tục khẳng định rõ hơn về sự ảnh hưởng của trung tâm Phật giáo ở Luy Lâu
– Dâu trên nhiều phương diện, từ chính trị, kinh tế, văn hóa cho đến đời sống
tín ngưỡng tơn giáo của người dân nơi đây,… Mà ngày nay, người dân Bắc
Ninh rất tự hào về truyền thống văn hóa nổi bật là văn hóa Phật giáo.
Trên phương diện lịch sử, ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đối với đời
sống tinh thần của người dân Bắc Ninh còn được thể hiện qua các ngôi chùa,
qua các truyền thuyết,... GS. Trần Quốc Vượng trong cơng trình Việt Nam cái
nhìn địa – văn hóa đã chỉ ra, các trung tâm văn hóa cổ nhất Việt Nam chính là
chùa Phật Tích, chùa Tứ Pháp, chùa Kiến Sơ và chùa Lục Tổ. Cố GS. Trần
Quốc Vượng nhấn mạnh, các ngôi chùa này đều phân bố trên bờ Dâu - Tiêu
Tương (Nxb Văn hóa Dân tộc, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật). Khi nghiên cứu
về lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Lang trong cơng trình Việt Nam Phật
giáo sử luận, (Nxb Văn học, 1992) đã cho biết những nhà sư Ấn Độ đã đem
Phật giáo tới Việt Nam vào đầu cơng ngun. Cịn PGS. Nguyễn Duy Hinh khi
nghiên cứu các tài liệu cổ như Lĩnh Nam chích quái, Thiền uyển tập anh, Đại
Việt sử ký toàn thư,... cho rằng ở Luy Lâu – Dâu thời kỳ đầu Phật giáo truyền
nhập cịn có cả Siva giáo với tục thờ Đá mang tính phồn thực, đồng thời cịn
diễn tả hình tượng giao cấu thiêng của một tu sĩ Ấn Độ với một Bà Mẹ người
Việt. Và như thế, sự giao thoa giữa Phật giáo với tín ngưỡng bản địa đã hình
8
thành lên hiện tượng thờ Tứ Pháp vô cùng đặc sắc trong Phật giáo Việt Nam,
người tu hành đầu tiên của người Việt được biết đến là Nữ giới, và bà được
nhân dân Bắc Ninh tôn xưng là Phật mẫu Man Nương. Sau này, các cơng trình
viết về lịch sử Phật giáo Việt Nam đều đề cập đến các ngôi chùa được xây
dựng vào thời Lý – Trần ở tỉnh Bắc Ninh và những ảnh hưởng của Phật giáo
trong văn học nghệ thuật, điêu khắc, kiến trúc,... qua các thời kỳ. Một số cơng
trình đề cập đến những hoạt động của Phật giáo. Có thể kể đến các cơng trình
như Con đường học Phật ở thế kỷ thứ XX của Thiều Chửu (Nxb Tôn giáo, Hà
Nội, 2002), Phật giáo Việt Nam (từ khởi nguyên đến 1981)của Bồ Đề Tân
Thanh - Nguyễn Đại Đồng (Nxb Văn học, Hà Nội, 2012),...
Tuy đã có nhiều cơng trình đã chỉ ra một số ảnh hưởng của Phật giáo nói
chung và NSQ Phật giáo nói riêng đối với đời sống tinh thần của người dân
Bắc Ninh trong lịch sử. Song về ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống của
người dân Bắc Ninh hiện nay thì ít có cơng trình đề cập một cách rõ ràng, trực
tiếp. Hiện nay, theo sự tìm hiểu của đề tài, chỉ một số bài viết in trong Hội thảo
khoa học: Vai trò của Phật giáo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc, xây
dựng đời sống văn hóa ở Bắc Ninh và vấn đề phát huy tinh thần yêu nước của
Tăng ni, tín đồ Phật tử, Bắc Ninh (Sở Nội vụ Bắc Ninh – Ban tôn giáo, 2019).
Phần lớn các cơng trình nghiên cứu khác đều đi sâu nghiên cứu về kiến trúc,
điêu khắc, hoặc ảnh hưởng trong văn học dân gian hay tục lệ,... Có thể kể đến
các cơng trình như Chùa Việt của GS. Trầm Lâm Biền (Nxb. Văn học, Hà Nội,
1998), Bài diễn ca sự tích đền bà Tấm của Trần Văn Giáp (Tạp chí Dân tộc
học, số 3 năm 1975), Phụ nữ Việt Nam qua các đời của Lê Thị Nhâm Tuyết
(Nxb KHXH, Hà Nội, 1975), Văn minh Việt Nam của học giả nổi tiếng
Nguyễn Văn Huyên (Nxb. Hội Nhà Văn, Hà Nội), Phật học phổ thơng của HT.
Thích Thiện Hoa (Nxb. Phương Đơng, Hà Nội, 2011), và gần đây là Báo cáo
sơ kết 06 tháng đầu năm 2019 – phương hướng, trọng tâm 06 tháng cuối năm
2019, của GHPGVN tỉnh Bắc Ninh,...
9
Nhìn chung, đã có một số các cơng trình nghiên cứu sâu về tín ngưỡng,
tơn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và ảnh hưởng của Phật giáo trên các
phương diện chính trị, văn hóa, kiến trúc, mỹ thuật,... Cịn trên các phương
diện ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đối với cách ứng xử với chính bản thân, với
tha nhân và với mơi trường thì ít có cơng trình đề cập. Vì thế, việc tìm hiểu cụ
thể hơn về ảnh hưởng của NSQ Phật giáo trên các phương diện này, đề tài kế
thừa những kết quả nghiên cứu trước đó, đồng thời tiếp tục khảo sát thực tế
trong cộng đồng Phật tử ở Bắc Ninh góp phần làm rõ hơn ảnh hưởng của NSQ
phật giáo đối với đời sống tinh thần người dân Bắc Ninh trong bối cảnh đương
đại. Đối với những người theo Kitô giáo, Tin Lành và một số hiện tượng tơn
giáo mới, hoặc những gia đình theo hai, ba tôn giáo,... những sinh hoạt, hoạt
động tôn giáo khác,... chúng tôi thiết nghĩ cũng cần được tiếp tục nghiên cứu ở
những cơng trình sau này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài phân tích một số ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo
đến đời sống tinh thần của người dân tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Qua đó nêu ra đề
xuất và khuyến nghị với GHPGVN tỉnh Bắc Ninh và các ban ngành trong tỉnh
về công tác tôn giáo trong tình hình mới.
3.2. Nhiệm vụ của nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài tập trung làm rõ những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, khái quát về nhân sinh quan và nhân sinh quan Phật giáo
Thứ hai, tìm hiểu những ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo
đối với đời sống người dân Bắc Ninh trong lịch sử và đặc biệt là trong hiện tại.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu nhân sinh quan
Phật giáo Bắc tông và những ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo
đối với đời sống tinh thần của người dân ở tỉnh Bắc Ninh.
10
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo và những ảnh hưởng của
nhân sinh quan Phật giáo trong cộng đồng người dân ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
Trong phạm vi cho phép tác giả chỉ tập trung đề cập những ảnh hưởng tích cực
của nhân sinh quan Phật giáo, trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm
phát huy vai trị tích cực của nhân sinh quan Phật giáo .
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn triển khai dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, lý luận chung về tôn
giáo học, xã hội học tôn giáo và Phật học.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình triển khai nghiên cứu,
luận văn sử dụng phương pháp lịch sử để làm rõ quá trình hình thành và phát
triển của nhân sinh quan Phật giáo. Đồng thời, luận văn sử dụng phương pháp
quan sát và phỏng vấn để thấy được những ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh
quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh hiện nay.
Ngoài ra, luận văn cịn sử dụng các phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, các phương pháp nghiên cứu liên ngành như triết học, triết học tôn giáo,
xã hội học tôn giáo, đạo đức học,... nhằm phân tích, đối chiếu, so sánh để thấy
được những quan niệm nhân sinh của Phật giáo và những ảnh hưởng cơ bản
của nó trong đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh đương đại.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài góp phần làm rõ những ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đối
với người dân Bắc Ninh trong lịch sử và hiện tại; đồng thời chỉ ra những mặt
tích cực và một số hạn chế trong đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh
hiện nay.
- Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với sinh viên
chuyên ngành Triết học, Tôn giáo học và làm tài liệu tham khảo trong các
trường Trung cấp Phật học trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
11
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của đề tài nghiên cứu khoa học bao gồm 2 chương với 5 tiết.
12
CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẬT GIÁO
VÀ NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
1.1. Khái quát về Phật giáo và Phật giáo ở Bắc Ninh
1.1.1. Sự ra đời của Phật giáo
Về bối cảnh lịch sử tư tưởng và xã hội: Thời kỳ đạo Phật ra đời vào thế
kỷ thứ VI tại Bắc Ấn Độ. Ở thời kỳ này, tư tưởng triết học, tơn giáo rất phong
phú, đa dạng. Đó là sự tồn tại của nhiều loại hình tơn giáo và nhiều trường phái
triết học khác nhau như Số luận, Du Già, Phệ Đà Đa,... trong đó nổi bật nhất là
Bà La Môn giáo. Về xã hội chia làm bốn giai cấp, đó là giới tăng lữ Bà La
Mơn; giới vua quan quý tộc; giới buôn bán, người làm thủ công giàu có và
giới nơ lệ, nơng nơ. Ngồi ra cịn một loại tiện dân là hạng cùng đinh nhất
trong xã hội sống trong công xã nông thôn với chế độ quốc hữu ruộng đất.
Đúng như nhận xét của GS.TS. Nguyễn Hữu Vui cho rằng "sự tồn tại dai dẳng
của công xã nông thôn và chế độ quốc hữu về ruộng đất là hai đặc điểm lớn
nhất, ảnh hưởng tới toàn bộ các mặt của lịch sử Ấn Độ. Từ hai đặc điểm trên,
dẫn tới hệ quả là các bước phát triển của lịch sử xã hội Ấn Độ thời cổ không
mạch lạc như lịch sử xã hội của các nước châu Âu. Thực sự ở Ấn Độ khơng có
quan hệ phong kiến giống như kiểu ở Hy – La, cũng không có kiểu quan hệ
phong kiến giống như ở các nước Tây Âu. Ở Ấn Độ, nô lệ chưa bao giờ là lực
lượng sản xuất chủ yếu, họ chưa bao giờ trở thành nông nô như ở Tây Âu
phong kiến… Mặt khác, quan hệ đẳng cấp ở Ấn Độ càng làm cho kết cấu xã
hội – giai cấp thêm phức tạp"[79, tr. 109].
Trong bối cảnh đó, đạo Phật ra đời với quan niệm mới đã đem lại một
luồng tư tưởng mới về tinh thần từ bi, bình đẳng giai cấp, bình đẳng tơn giáo.
Tuy nhiên, theo kinh điển Phật giáo, Thích Ca Mâu Ni là nhân vật lịch sử,
nhưng trên phương diện tơn giáo thì Ngài lại một trong mn vàn chư Phật.
13
Trước ngài đã có nhiều vị Phật quá khứ và sau ngài sẽ còn nhiều vị Phật tương
lai.
Thái tử Tất Đạt Đa – người sáng lập Phật giáo: Câu chuyện về cuộc đời
Đức Phật rất quan trọng trong lịch sử hình thành đạo Phật. Nhưng sẽ đặc biệt
hơn, nếu đặt câu chuyện trong đời sống cộng đồng tín đồ Phật giáo. Bởi chỉ có
cộng đồng Phật giáo mới cảm nhận, chiêm nghiệm được những huyền diệu từ
cuộc đời ngài. Và sâu sa hơn, cuộc đời Đức Phật đã và đang là mơ hình lý
tưởng nhất để tín đồ Phật tử học tập, tu tập và giải thoát, đồng thời cũng chỉ ra
cho con người hiện sinh một nếp sống đúng đắn trong xã hội đầy biến động.
Kinh Bản sinh ghi chép về cuộc đời Đức Phật bắt đầu với ngày Phật đản
sinh. Đây là câu chuyện về sự tái sinh và niềm tin vào sự tái sinh bởi đó là quả
của một cuộc đời tu tập, đạo hạnh của Đức Phật. Trong sự tái sinh cuối cùng
này, kinh Bản sinh cho chúng ta biết Đức Phật được sinh ra trong một gia đình
hồng tộc và ngài là một vị Thái tử. Mẹ ngài, bà Maya mang thai ngài trong
giấc mơ về một con voi trắng và sinh ra ngài trong khu rừng Lumbini thuộc
dãy Himalaya gần Nepal ngày nay. Khi vừa mới sinh ra, ngài bước bảy bước
trên bảy đóa hoa sen, tay trái chỉ lên trời tay phải đất và nói "Thiên thượng địa
hạ duy ngã độc tơn".
Sau khi ngài đản sinh, một vị tiên tri đến và tiên đốn rằng, nếu ngài vui
sống trong gia đình hồng gia thì ngài sẽ trở thành một bậc quân vương tài ba,
nhưng nếu ngài từ bỏ hoàng gia cùng với những khối lạc trần thế thì ngài trở
thành một "Đấng Tồn Giác". Thời gian đầu, Thái tử Tất Đạt Đa đã sống và
được giáo dục trong một môi trường lý tưởng, sung túc về vật chất và thoải mái
về tinh thần. Nhưng trong một vài lần ra ngoài cung điện, Thái tử đã thấy cuộc
sống thường ngày với nhiều khổ đau: Già – tương lai của mỗi người; người đau
ốm – ai cũng có thể bị đau ốm; người chết - sự kết thúc cuộc sống của mỗi
người; một vị tu sĩ khắc khổ – người đi tìm sự giải thốt khỏi thế giới đau khổ.
Tất cả những gì Thái tử chứng kiến đều mang tính biểu tưởng cho cuộc đời,
14
nhưng đã thơi thúc ngài rời bỏ hồng gia và thực hiện cuộc sống khổ hạnh
nhằm mục đích thốt khỏi những khổ đau đã thấy.
Qua sáu năm khổ hạnh dưới sự dẫn dắt của nhiều vị tu sĩ, nhưng không
một vị nào làm cho ngài hài lòng bởi cuộc sống tu hành khổ hạnh đã không
đem lại kết quả như mong đợi. Ngài đã từ bỏ lối tu khổ hạnh ấy và đón nhận
bát sữa từ một thiếu nữ chăn bò và ngài đã khám phá con đường "Trung dung"
giữa hai lối sống giàu sang và khổ hạnh. Không lâu sau, vị Phật tương lai ngồi
dưới tán cây Bồ đề tu tập và quyết không dời bỏ chốn này nếu không giác ngộ.
Sau khi giác ngộ, Đức Phật đã giảng dạy cho năm vị khổ tu cùng với ngài trước
đây, đó là Tứ diệu đế và từ đây bánh xe Pháp đầu tiên đã dịch chuyển.
Sau gần 50 năm với sự nghiệp hoằng pháp, vào một ngày Ngài nhắc nhở
tín đồ về tính Vơ thường của sự vật, cần phải lấy chuyên cần trong tu tập thực
hành để giác ngộ, giải thốt rồi sau đó, ngài nhập Niết bàn.
Tứ diệu đế là những nguyên lý đầu tiên được ngài khám phá và thuyết
giảng và dần dần ngài thiết lập đời sống tu tập cho mọi tín đồ Phật giáo noi
theo. Tuy nhiên, thời gian đầu những lời Đức Phật thuyết giảng khơng được
ghi lại bằng văn tự, vì thế phải qua những lần kết tập kinh điển thì giáo lý mới
có hệ thống. Và qua hệ thống giáo lý mới thấy rõ quan niệm về vũ trụ và nhân
sinh của đạo Phật, đặc biệt là quan niệm về nhân sinh trong Phật giáo Đại thừa.
Vì thế, ở đây, chúng tơi xin được nhắc lại một cách khái quát nhất về quá trình
kết tập kinh điển. Bởi chỉ khoảng 100 năm sau ngày Đức Phật nhập diệt, sự
phát triển của đạo Phật được mở rộng. Tuy nhiên, mỗi vùng đất mà Phật giáo
truyền đến có những sự khác biệt về văn hóa xã hội và đây được xem là ngun
nhân chính dẫn đến những bất đồng trong việc nhận thức lời Phật dạy trước đó
chủ yếu là phương thức truyền miệng. Cho nên, Phật giáo đã phân hóa thành
nhiều bộ phái nhằm thích ứng với những mơi trường mà đạo Phật truyền tới.
Lần kết tập thứ nhất tại thành Vương Xá có 500 vị La Hán được Ca Diếp
mời dự dưới sự bảo trợ của vua A Xà Thế, xứ Ma Kiệt Đà. Khi đức Phật nhập
15
diệt, không lâu sau đã xuất hiện những kiến giải bất đồng về lời Phật dạy. Để
tránh sự sai biệt, và bảo tồn các giáo pháp và luật lệ được toàn vẹn, Ma Ha Ca
Diếp đã đề nghị kết tập và hệ thống hóa lời dạy của đức Phật lại thành kinh điển
với mục đích khơng để xảy ra tình trạng hiểu sai lầm về giáo pháp. Trong cuộc
kết tập này, A Nan Đà chính là người đã đứng ra trì tụng những điều đức Phật đã
thuyết giảng và Upani kể về Giới luật. Sau cuộc kết tập, bốn bộ kinh đầu tiên
được chép lại. Đó là kinh Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm và
Tạp A Hàm. Bốn bộ kinh này được xem là các tài liệu cổ nhất ghi lại cuộc đời
của đức Phật và những hoạt động của Tăng đồn, đánh dấu bước hình thành
Kinh tạng và Luật tạng vô cùng quan trọng sau này.
Lần kết tập thứ hai tại tại thành Tì Xá Ly sau lần kết tập thứ nhất một trăm
năm. Lần kết tập thứ hai này có 700 vị Tỳ kheo tham dự. Hội nghị kết tập lần
thứ hai cơ bản là để thảo luận về những thay đổi một số chi tiết trong giới luật.
Ngồi ra, đại hội cịn nhằm mục đích ngăn khơng để tư tưởng của các đạo khác
thâm nhập vào giáo lý Phật giáo. Kết quả là trong hội nghị, những người không
đồng ý với việc giữ nguyên giới luật ban đầu đã bỏ ra để tổ chức một hội nghị
kết tập riêng và thành lập Đại chúng bộ và số người còn lại vẫn tiếp tục kết tập
kinh điển, sau đó hình thành Thượng tọa bộ,… Như vậy, Hội nghị này đánh
dấu sự phân hóa về tổ chức của Tăng đoàn. Thượng tọa bộ gồm thiểu số các vị
Trưởng lão có khuynh hướng bảo thủ, Đại chúng bộ gồm đa số Tỳ kheo trẻ tuổi
có khuynh hướng cấp tiến, mà nhiều nhà nghiên cứu Phật học sau này cho
rằng, tư tưởng của Đại chúng bộ làm nảy sinh nhiều quan niệm mới về chư
Phật, đặc biệt là Bồ tát, là mầm mống cho việc hình thành phong trào Phật giáo
Đại thừa sau này.
Lần kết tập thứ ba dưới triều vua A Dục thế kỷ 3 trước Công nguyên. Vua
A Dục là người mộ đạo nên Phật giáo được ưu đãi rất lớn. Số lượng tăng ni đơng
đảo và trong đó cũng khơng ít kẻ cơ hội trà trộn tăng đồn gây nên những mối
bất hịa. Trước thực trạng như vậy, vua A Dục đã khởi xướng và bảo trợ cho Hội
16
nghị kết tập kinh điển lần thứ ba trong lịch sử Phật giáo. Có khoảng 1.000 Tỳ
kheo được cử đến. Sau 9 tháng kết tập, lần đầu tiên Tam tạng kinh hoàn thiện và
được con trai vua A Dục đem tới Tích Lan. Các kinh điển này sau đó đã được
dịch sang văn hệ Pali và còn nguyên vẹn cho đến nay.
Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ tư diễn ra vào thời vua Ca Nị Sắc Ka.
Tuy sử liệu khơng hồn tồn thống nhất với nhau về thời gian và địa điểm. Vua
Ca Nị Sắc Ca là một tín đồ trung thành của đạo Phật và rất thích nghe giảng
kinh văn. Vì thế, nhà vua nhận ra có rất nhiều sự khác biệt về các kiến giải
trong kinh nên ông khởi tâm bảo trợ cho lần kết tập thứ tư. Hội nghị đã tập hợp
được 500 cao tăng giỏi về Tam tạng và sau khi kết tập, nhà vua đã cho khắc lại
toàn bộ Tam tạng lên những lá đồng. Ngày nay, chỉ cịn phần thích luận A Tỳ
Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa được Huyền Trang đời nhà Đường dịch sang Hán ngữ
gồm 200 quyển. Ngoài ra, các lần kết tập còn lại đều thuộc bộ phái Thượng tọa
bộ (Nam truyền Phật giáo) tiến hành. Lần kết tập thứ 5 được tổ chức vào năm
1871 trong suốt 5 tháng tại thủ đô của Miến Điện. Số người tham dự gồm
2.400 cao tăng dưới sự bảo trợ của vua Mindon. Kết quả là 3 tạng kinh được
hiệu đính lại và đem khắc trên 729 phiến đá hình vng cất vào trong chùa tháp
Kuthodaw. Lần kết tập gần đây nhất từ ngày 17 tháng 5 năm 1954 tại phía bắc
Ngưỡng Quan trên núi Nghệ Cố. Lần kết tập này dưới sự khởi xướng của Phật
giáo Miến Điện và bảo trợ là chính phủ Miến Điện. Trong suốt hai năm, tất cả
kinh tạng của Phật giáo nam truyền được khảo sát và đúc kết rồi xuất bản để
truyền bá.
Như vậy, sau khi Đức Phật nhập diệt và qua các lần kết tập đã hình thành
hệ thống kinh điển Phật giáo, đồng thời cũng cho chúng ta thấy sự phân hóa
của Phật giáo. Và đến thế kỷ thứ VII sau Công nguyên, Phật giáo ở Ấn Độ suy
thoái nhưng lại rất phát triển ở các nước như Miến Điện, Tích Lan, Trung
Quốc, Nhật Bản, Việt Nam,...
Theo Phật sử, từ thế kỷ I trước Công nguyên, tư tưởng Phật giáo Đại
thừa đã xuất hiện và có xu hướng tự do. Đến thế kỷ thứ 3, qua các trước tác của
17
Long Thọ thì tư tưởng của Phật giáo đại thừa đã rõ ràng và có bước phát triển
rực rỡ và ảnh hưởng rất lớn lên các hệ tư tưởng khác, khơng những trong nước
mà cũng được truyền bá và thích hợp đối với nhiều nước như Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam,... Trong đó, quan niệm nhân sinh, lý tưởng Bồ
tát đã tạo một điểm mạnh để đạo Phật có sức lan tỏa rộng lớn qua các vùng
miền mà đạo Phật truyền tới và cả những thay đổi của thời đại.
1.1.2. Phật Giáo ở Bắc Ninh
Đối với Phật giáo ở Bắc Ninh, như lời nhận xét của cố GS. Trần Quốc
Vượng viết trong cơng trình Việt Nam cái nhìn địa – văn hóa cho biết: "Các
trung tâm văn hóa cổ nhất Việt Nam: Phật Tích, chùa Tứ Pháp (Dâu, Đậu,
Giàn, Tướng), chùa Kiến Sơ (Phù Đổng) và nếu cần kể thêm chùa Lục Tổ,
chùa Tràng Liêu (Tiêu Sơn) cũng đều phân bố trên bờ Dâu - Tiêu Tương"[82,
tr. 154]. Có thể nói, đúng như lời nhận xét của tác giả chùa Phật ở Bắc Ninh
đồng thời là trung tâm văn hóa, nên có ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần nhân
dân.
Ngược dòng lịch sử, Phật giáo được truyền nhập vào nước ta ở Luy Lâu
và hình thành một trung tâm Phật giáo vô cùng quan trọng, Nguyễn Lang nhận
định: "Trung tâm Luy Lâu được hình thành do sự viếng thăm của những tăng sĩ
Ấn Độ. Các vị tăng sĩ này đến Việt Nam bằng con đường biển, theo các thuyền
buôn người Ấn. Nhưng trước khi các vị tăng sĩ Ấn Độ tới Việt Nam, các
thương gia Ấn Độ cũng đã tới Việt Nam rồi và đã mang theo sinh hoạt Phật
giáo tới xứ ta"[39, tr. 21]. Truyện Man Nương trong tác phẩm Lĩnh Nam chích
qi có chép về một nhà tu hành người Ấn Độ tên là Già La Xà Lê đến Luy
Lâu vào thời Sĩ Nhiếp. Tại đây có một nữ đệ tử là Man Nương theo học. Một
lần Man Nương ngủ trong bếp, Già La Xà Lê khơng biết mà bước ngang qua
người Man Nương. Từ đó, Man Nương thụ thai và sinh một người con gái và
đem trả cho ơng. Ơng liền đặt đứa bé vào hốc cây đa. Về sau cây đa đổ và trôi
về sông Dâu, nhưng không ai vớt lên được. Man Nương đang giặt áo bèn ném
18
giải yếm và kéo được cây đa lên bờ. Bà nhờ thợ đã thành bốn khúc và tạc thành
bốn pho tượng. Đó là tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lơi và Pháp Điện. Cịn
con gái của Man Nương đã hóa đá. Khi người dân ném xuống sơng thì tỏa hào
quang bèn vớt lên thờ phụng gọi là Thạch Quang Phật. PGS. Nguyễn Duy Hinh
cho rằng "Đây là sự kết hợp giữa tôn giáo Siva (dạng linga) với tục thờ Đá
trong thần điện Cây Đa - Hòn Đá cổ truyền của người Việt mang tính phồn
thực đã diễn đạt qua hình tượng giao cấu thiêng của một tu sĩ Ấn Độ với một
Bà Mẹ người Việt [32, tr. 15]. Như thế, có thể nói tín đồ Phật giáo đầu tiên ở
nước ta là nữ giới, và bà được nhân dân tôn là Phật mẫu, hiện còn được thờ tại
chùa Tổ làng Mãn Xá, còn Thạch Quang Phật và Pháp Vân thờ tại chùa Dâu
thôn Khương Tự. Tác phẩm Thiền uyển tập anh cịn khẳng định thêm một chi
tiết quan trọng, đó là khi đạo Phật chưa truyền đến Trung Quốc thì ở Luy Lâu Dâu đã là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng. Ngay tại trung tâm này đã có
những nhà sư nổi tiếng như Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương
Lương, Mâu Bác... đang cư trú và giảng pháp[47, tr. 89]. Điều này có nghĩa là,
ở Luy Lâu thời bấy giờ đã hình thành một cộng đồng tín đồ Phật tử lớn "gồm
có ni và tăng, người Ấn Độ, người Việt gốc Ấn Độ, người Việt"[32, tr.22].
Trong thời kỳ đầu truyền nhập của đạo Phật vào Luy Lâu - Dâu, các tác
phẩm hiện còn đến ngày nay là Lý Hoặc Luận của Mâu Tử và Lục độ tập kinh
của Khương Tăng Hội. Hai tác phẩm này đã cho biết khá rõ không chỉ về hành
trạng của tăng sĩ mà còn về Phật giáo Bắc Ninh và cũng là của đạo Phật Việt
Nam. Mâu Tử là một sĩ phu người Trung Quốc tị nạn đến Luy Lâu vào thời Sĩ
Nhiếp. Ơng tinh thơng Nho giáo, Đạo giáo và khi đến Luy Lâu tiếp tục học
Phật pháp. Ở đây, ông viết tác phẩm Lý Hoặc Luận nhằm bênh vực đạo Phật.
Nội dung tác phẩm này gồm 37 điều. Trong đó, những nội dung quan trọng
nhất đó là việc bàn về chữ Hiếu, nhất là bàn về việc bố thí, từ bi, nhẫn nhục và
đây cũng là những nội dung tu tập của Phật giáo ở Luy Lâu,...; Khương Tăng
Hội là một người gốc Ấn Độ, sinh ra và lớn lên tại Luy Lâu. Tác phẩm Lục độ
19
tập kinh của ơng gồm 91 đoạn trích dịch từ các kinh Phật theo 6 chủ đề (lục
độ). Cũng như Lý Hoặc Luận, Lục độ tập kinh cho thấy tư tưởng từ bi, bố thí
nổi bật nhất trong Phật giáo Luy Lâu thời kỳ này. Do đó, hiếu, bố thí có ảnh
hưởng lớn đến cộng đồng người dân ở vùng Luy Lâu – Dâu, và cũng là tư
tưởng xuyên suốt của Phật giáo ở Bắc Ninh và Việt Nam sau này.
Có thể thấy, Phật giáo truyền bá vào Luy Lâu trực tiếp từ các nhà sư từ
Ấn Độ. Nhưng Phật giáo phát triển tại đây phải trên nền tảng tín ngưỡng vùng
Dâu bấy giờ và dần trở thành một trung tâm Phật giáo có ảnh hưởng mạnh
khắp vùng đồng bằng sơng Hồng. Đó chính là hệ thống chùa Tứ Pháp ở Hà
Nội, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên mà ngày nay vẫn cịn tồn tại dưới hình
thức thờ phụng Tứ pháp và nghi thức cầu mưa. Đặc sắc hơn là tư tưởng từ bi,
bố thí nhẫn nhục thuộc tư tưởng Phật giáo Đại thừa nhưng đậm chất Phật giáo
dân gian vùng Dâu và sau này trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình lịch sử
Phật giáo ở Bắc Ninh.
Đến thế kỷ thứ 6, trung tâm Phật giáo Luy Lâu vẫn là đại diện duy nhất
ở nước ta. Năm 580, Sư Tì Ni Đa Lưu Chi đến vùng Dâu và tại chùa Pháp Vân,
ơng đã dịch kinh Tổng trì, rồi truyền pháp cho Pháp Hiền. Đại sư Pháp Hiền
bấy giờ là đệ tử của sư Quán Duyên, tu tập ở chùa Chúng Thiện, núi Thiên
Phúc, Tiên Du. Sau theo học và đắc pháp với Tì Ni Đa Lưu Chi thì ông trở về
chùa giảng pháp cho hàng trăm đồ đệ và rất nổi tiếng là người uyên thâm Phật
pháp. Đến mức, vua Tùy Cao Tổ khi nhận được bản tấu của Thứ sử Lưu
Phương đã sai người đem 5 hòm xá lợi Phật cùng sắc điệp ban cho Pháp Hiền
xây tháp cúng dường. Với 5 hòm xá lợi Phật dựng tháp thờ ở Dâu, Phong
Châu, Hoan Châu, Trường Châu, Ái Châu thì Phật giáo ở vùng Dâu đã phổ
biến khắp vùng đồng bằng sông Hồng đến các tỉnh miền trung Việt Nam hiện
nay. Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi truyền đến thiền sư Y Sơn (1216), được 19
đời. Vua Lý Thái Tông (1028 - 1054) đã truy tán Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi
như sau:
20
Mở lối qua Nam Việt
Nghe ơng chín học thiền
Nguồn tâm thơng một mạch
Cõi Phật rộng quanh miền
Lăng già ngời bóng nguyệt
Bát nhã nức mùi sen
Biết được bao giờ gặp
Cùng nhau kể đạo huyền. (TT. Mật Thể dịch)
Đến thế kỷ thứ 9, một thiền phái nữa truyền vào Bắc Ninh, đó là thiền
phái Vô Ngôn Thông. Thiền sư Vô Ngôn Thông người Quảng Châu, đồ đệ của
thiền sư Bách Trượng Hoài Hải. Năm 820 ơng đến nước ta tìm người có học
vấn Phật pháp thâm sâu để học hỏi. Bởi khi ấy, bản thân ông đã nhận rõ ở nước
ta bấy giờ rất nhiều cao tăng uyên thâm Phật pháp, đặc biệt là vùng Dâu - Luy
Lâu. Ngoài Thiền uyển tập anh ghi chép cịn có Đại Đường cầu pháp cao tăng
chuyện của Nghĩa Tịnh (635-713) ghi tên nhiều nhà sư như Vận Kỳ, Mộc Xoa
Đề Bà, Khuy Sung, Huệ Diệm, Trí Hành, Đại Thặng Đăng,... Vì thế, các nhà
sư thời kỳ này cũng thông thạo chữ Phạn, Hán, nhiều kinh điển Phật giáo được
dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán. Sau, thiền sư Vô Ngôn Thông đến chùa Kiến Sơ
tu hành ở đây suốt 9 năm và truyền pháp cho sư Lập Đức. Dịng thiền Vơ Ngơn
thơng đến năm 1221, được 15 đời với 49 sư tổ.
Trong thời gian này, tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu, ngoài các nhà sư
Ấn Độ cịn có sự hiện diện của các nhà sư Trung Quốc. Và như thế, từ khi xuất
hiện hai thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi và Vơ Ngơn Thơng, Phật giáo Luy Lâu –
Dâu nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung có sự gia tăng về Phật học, ảnh
hưởng của Thiền tông Trung Quốc ngày càng mạnh.
Nhà Đinh – Tiền Lê đóng đơ ở Hoa Lư, Ninh Bình ngày nay. Phật giáo
thời kỳ này phát triển và có sự gắn bó với vương triều. Nhà Lý (1009 – 1225)
chọn Thăng Long làm trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước. Phật
21