Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tư tưởng hồ chí minh về giáo dục con người mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.4 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====================

NINH THỊ ÁNH HỒNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC CON NGƯỜI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====================

NINH THỊ ÁNH HỒNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC CON NGƯỜI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60.22.03.01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Hạnh

Hà Nội – 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ tốt nghiệp "Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục con người mới" là cơng trình nghiên cứu của bản thân dưới sự hướng
dẫn của TS. Trần Thị Hạnh. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong luận
văn tốt nghiệp đã được nêu rõ trong phần danh mục tài liệu tham khảo, được trích
dẫn rõ ràng, trung thực. Nếu có bất cứ sự gian dối tơi xin chịu hồn tồn trách
nhiệm và mọi kỷ luật của Khoa và của Nhà trường đề ra.

Tác giả luận văn

Ninh Thị Ánh Hồng


LỜI CẢM ƠN!
Luận văn thạc sỹ này là kết quả của sự cố gắng và nỗ lực hêt sức của bản
thân tơi trong q trình học tập và nghiên cứu. Có được kết quả này, lời đầu tiên
tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến q Thầy, Cơ giáo, Ban chủ nhiệm khoa
Triết học.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới TS. Trần Thị Hạnh người đã hướng dẫn và giúp đỡ tận tình để tơi có thể hồn thành được luận văn
này.
Tơi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn vơ hạn đến gia đình, bạn bè trong thời
gian qua đã ln ủng hộ và động viên tơi.
Do khả năng cịn hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên bản luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì vậy tơi kính mong sự góp ý từ q
Thầy, Cơ giáo, các bạn...để Luận văn hồn thiện hơn, cũng như có thể rút kinh
nghiệm cho những nghiên cứu tiếp theo.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2014
Học viên


Ninh Thị Ánh Hồng


"Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cần có những con
người xã hội chủ nghĩa"
[35;296]


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, người
chiến sĩ lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và cơng
nhân quốc tế, người thầy vĩ đại, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc và cách mạng
Việt Nam. Hồ Chí Minh đã để lại một tài sản trong kho tàng lịch sử tư tưởng của
dân tộc ta:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại” [18;20].
Trong di sản tư tưởng phong phú vơ giá của Hồ Chí Minh, tư tưởng về
giáo dục con người Việt Nam mới là sự tiếp nối và nâng cao những giá trị tinh
túy trong tư tưởng nhân văn của truyền thống Việt Nam và thế giới. Đây cũng là
sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng con người của chủ nghĩa
Mác – Lênin vào trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tư tưởng về giáo dục con
người Việt Nam mới của Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn vào việc nâng cao dân
trí, bồi dưỡng đào tạo cho cách mạng Việt Nam những con người đủ đức, đủ tài
đưa dân tộc Việt Nam vượt qua mn vàn khó khăn, thử thách, giành được những
thắng lợi to lớn, đưa địa vị nước ta từ nô lệ trở thành một nước độc lập và ngày
càng có vị thế trên trường quốc tế.

Hiện nay, thế giới đang trải qua những biến đổi nhanh chóng và sâu sắc.
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra sự
biến đổi về lực lượng sản xuất, mở ra một thời kỳ kinh tế tri thức và xã hội thơng
tin tồn cầu. Vấn đề con người và giáo dục con người đã trở thành một vấn đề
bức thiết đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc.

1


Ở Việt Nam, ngay từ khi bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước,
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định: con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh
phúc cho con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Giáo dục con
người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội được xác định vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới đất nước theo hướng đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ
bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [20;85]. Nâng cao dân trí, bồi dưỡng
và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định cho
thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước.
Để đảm bảo sự nghiệp đổi mới thành công, Đảng ta tiếp tục khẳng định
nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và phổ biến rộng rãi tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người mới nói riêng, vận dụng
những tư tưởng, lý luận đó một cách sáng tạo vào thực hiện chiến lược giáo dục
con người mới đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đất nước.
Từ lý do trên, tôi chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con
người mới” để làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, chuyên ngành Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu
Đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, có nhiều luận án, luận văn,
nhiều hội thảo, bàn về giáo dục con người, vai trò của giáo dục con người mới trong
sự nghiệp phát triển đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người được
tiếp cận và tìm hiểu ở nhiều góc độ khác nhau:

- Nhóm những cơng trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người,con người mới, giáo dục con người mới.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
Cuốn sách phân tích sâu sắc về khái niệm con người, nhân tố con người, phát huy
nhân tố con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trình bày nguồn gốc, quá trình hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người. Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát huy nhân tố con người theo
u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, kiến nghị phương hướng và giải pháp nhằm

2


phát huy nhân tố con người trong thời đại công nghiệp hóa,hiện đại hóa dưới ánh
sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
“Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục” do Hà Thế Ngữ, Nguyễn Đăng Tiễn –
Bùi Đức Thiệp (biên soạn), nhà xuất bản Giáo dục 1990. Tập thể tác giả đã tuyển
chọn những bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh về công tác giáo dục là một nhiệm
vụ của tất cả những người làm công tác giáo dục và quan tâm đến giáo dục, nhất
là trong thời đại cách mạng đang yêu cầu phải đổi mới công tác giáo dục hiện
nay.
- Nhóm những cơng trình của các nhà nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục con người mới.
“Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới”, Nxb Chính trị quốc gia,Hà
Nội của tập thể tác giả: Nguyễn Huy Hoan, Nguyễn Xuân Thông, Nguyễn Thị
Minh Hương, Phạm Thị Lai, Nguyễn Thanh Nga. Tập thể tác giả đã sưu tầm
tuyển chọn khái quát về nội dung và ý nghĩa cho việc xây dựng con người mới,
đánh giá con người, bồi dưỡng con người về trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, xây dựng
mục đích, chăm lo lối sống cho con người
“Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát
triển tồn diện”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. Trong đó tác giả đã chỉ ra mối

quan hệ giữa văn hóa và xây dựng con người mới ở Việt Nam. Đồng thời chỉ rõ
quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất con người Việt Nam phát triển toàn diện
trong bối cảnh hiện nay.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người tồn diện” Nxb Chính trị
Quốc gia Hà Nội. Cuốn sách đã được tác giả khái quát lên nội dung quan trọng có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc về quá trình lao động sản xuất, giáo dục, đào
tạo tồn diện – con đường cơ bản hình thành và phát triển con người toàn diện.
Liên quan đến nội dung của đề tài cũng đã có những luận văn, luận án
nghiên cứu khá rộng và sâu sắc: Luận văn thạc sỹ của Phùng Thu Hiền (2002)
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người với việc phát huy nhân tố con
người trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay”. Tác giả đã nêu khái niệm con

3


người, nhân tố con người, chỉ ra cơ sở hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhân tố con người. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và chỉ ra một số giải pháp nhằm phát huy nhân tố
con người trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Luận văn thạc sỹ của Hoàng Thị Tuyết Thanh (2010) "Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục và vận dụng vào xây dựng xã hội học tập ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay". Tác giả đã đưa quan niệm của Hồ Chí Minh về giáo dục và cho
thấy được tính tất yếu trong việc vận dụng quan điểm đó vào trong xã hội học tập
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Văn Tuyên (2006) “Hồ Chí Minh với sự
nghiệp giải phóng con người Việt Nam”, luận văn nêu quan điểm của Hồ Chí
Minh về con người Việt Nam được giải phóng và sự nghiệp giải phóng con người
Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước và chỉ ra một số giải pháp nhằm đẩy
mạnh sự nghiệp giải phóng con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngồi ra cịn rất nhiều những bài báo, bài viết đăng trên tạp chí khác như

bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục với việc phát triển nền giáo dục Việt
Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI” của PGS.TS Nguyễn Thị Nga trên
tạp chí triết học số 12 năm 2010. Tác giả đã phân tích một cách khái quát tư
tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về giáo dục trên những khía cạnh như mục tiêu,
nội dung và phương pháp giáo dục. Trên cơ sở đó khẳng định tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục khơng chỉ là ánh sáng soi đường, kim chỉ nam cho chiến lược
phát triển con người Việt Nam trong thập niên đầu thế kỷ XXI.
“Hồ Chí Minh với nhân tố con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa” của PGS Trần Thanh – Lê Quang Hoan trên tạp chí nghiên cứu lý
luận. Các tác giải đã khái quát nội dung có ý nghĩa phương pháp luận của Hồ Chí
Minh về vấn đề con người như giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, đạo đức cách mạng.
“Một số phẩm chất cơ bản cần có và định hướng phát huy nhân tố con
người theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của Lê Thị Hương trên tạp chí lý luận và
truyền thông. Bài viết chỉ ra một số phẩm chất của con người trong quan điểm Hồ
4


Chí Minh: cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, tinh thần lao động quên mình,
vì lối sống lành mạnh văn minh và chỉ ra một số định hướng cơ bản về phát huy
tiềm năng và sáng tạo con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những cơng trình trên đã nêu và khái quát được những nét lớn chủ yếu
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về giáo dục con người, đào tạo con
người mới xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cịn rất ít cơng trình trực tiếp nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người Việt Nam mới tiếp cận dưới góc độ
của khoa học triết học. Song những tư liệu trên là tài liệu quý giá để tác giả tham
khảo trong quá trình viết luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích:
Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người Việt Nam

mới, từ đó vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người mới trong việc
giáo dục con người Việt Nam hiện nay
Nhiệm vụ:
- Luận giải những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người,
giáo dục con người mới
- Phân tích quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị, mục đích,
nội dung giáo dục con người mới
- Bước đầu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người mới
trong giáo dục con người Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học
của triết học Mác – Lênin về vấn đề con người, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng con người Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu

5


Luận văn chủ yếu dựa trên phương pháp phân tích – tổng hợp, phương
pháp logic - lịch sử, đồng thời sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác của
khoa học xã hội.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
con người Việt Nam mới.
Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người mới thông qua
các tác phẩm của Hồ Chí Minh, các tài liệu lịch sử và các bài viết của các nhà
nghiên cứu trong nước.

6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đã trình bày một cách có hệ thống và khái quát nội dung cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người mới và vận dụng vào trong việc
xây dựng con người Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các giáo viên, sinh viên,
người nghiên cứu và tìm hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết Luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Phần Nội
dung bao gồm 2 chương, 4 tiết.

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
GIÁO DỤC CON NGƯỜI VIỆT NAM MỚI
1.1. Điều kiện khách quan, tiền đề tư tưởng cho việc hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục con người mới
1.1.1 Điều kiện khách quan
* Tình hình quốc tế.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản Phương Tây chuyển
nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa), nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh đã đặt ra yêu cầu bức thiết về
thị trường. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cuộc chiến tranh xâm lược các
quốc gia phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu
thụ sản phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất
khẩu tư bản của các nước đế quốc. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung
của các dân tộc thuộc địa. Có một thực tế lịch sử, trong quá trình xâm lược và
thống trị của chủ nghĩa thực dân tại các nước ở Châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ

Latinh, sự bóc lột theo phương thức phong kiến trước kia vẫn được duy trì và bao
trùm lên nó là sự bóc lột theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh các giai
cấp trước kia, ở nhiều nước thuộc địa phương Đông đã xuất hiện thêm các giai
cấp, tầng lớp xã hội mới, trong đó có giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. các
nước đế quốc xâm lược thuộc địa càng tăng đã làm cho mâu thuẫn giữa dân tộc
thuộc địa và thực dân ngày càng gay gắt, sự phản ứng của nhân dân các thuộc địa
càng quyết liệt.
Trong cuộc chạy đua xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây
thế kỉ XIX, từ năm 1897 thực dân Pháp đã tiến hành chương trình khai thác thuộc
địa lần thứ nhất. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), để bù đắp những
tổn thất do chiến tranh gây ra, thực dân Pháp vừa tăng cường bóc lột trong nước,
7


vừa đẩy mạnh khai thác thuộc địa. Ở Đông Dương, Pháp tiến hành khai thác
thuộc địa lần thứ hai với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ nhanh. Trong
chương trình này, Pháp nhằm vào hai trọng tâm là khai mỏ và đồn điền; phát
triển một số ngành công nghiệp với nguyên tắc không cạnh tranh với công nghiệp
chính quốc; ra sức phát triển giao thơng vận tải, kể cả đường sắt, đường bộ và
đường thủy để phục vụ các mục tiêu kinh tế và chính trị. Pháp tăng cường các
ngân hàng cũ, lập nhiều nhân hàng mới để cho vay lấy lãi cao, thông qua ngân
hàng Đông Dương để thâu tóm và kiểm sốt mọi hành động kinh tế ở Đơng
Dương. Pháp thi hành chính sách độc chiếm thị trường, dùng hàng rào thuế quan
để ngăn chặn hàng nhập từ nước khác. Các thứ thuế đều tăng hai, ba lần so với
trước. Chính sách độc quyền rượu, thuốc phiện, muối tạo một nguồn thu lớn cho
thực dân Pháp. Pháp thực hiện chế độ mộ phu hết sức man rợ và ra sức chiếm
đoạt ruộng đất của nông dân, làm cho đời sống nhân dân ngày càng cực khổ,
thiếu ăn, thiếu mặc, không được học hành.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành cơng. Đó là cuộc cách
mạng vơ sản, đồng thời rất có ý nghĩa đối với cơng cuộc giải phóng dân tộc của

các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Mặc dù đang vấp phải những khó khăn trong và ngoài nước, nước Nga
cách mạng đã trở thành thành trì của cách mạng thế giới, giúp đỡ tích cực các dân
tộc anh em. Một trong những việc quan trọng đó là nước Nga đã thành lập
trường Đại học Phương Đông, nhằm tập hợp những người lãnh đạo trẻ tuổi tích
cực, thơng minh của các nước thuộc địa để đào tạo, bồi dưỡng thành "hạt giống
đỏ" của phong trào cách mạng, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới...
"Trường Đại học Phương Đơng gồm có 1025 sinh viên, trong đó có 151 nữ
sinh. Trong số sinh viên ấy có 865 đảng viên cộng sản thành phần xã hội của học
sinh như sau: 547 nông dân, 265 công nhân, 210 trí thức vơ sản. Nếu người ta
chú ý rằng các nước phương Đông đều là những nước hầu như hồn tồn nơng
nghiệp thì sẽ hiểu tại sao số sinh viên nông dân chiếm tỉ lệ cao hơn". [35; 250].
8


Trường đã làm cho đội tiên phong của giai cấp vô sản các nước thuộc địa
tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp
tác thật sự sau này, chỉ có sự hợp tác đó mới có thể bảo đảm cho giai cấp công
nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng.
Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga đã mở đường cho việc xây dựng
nền văn hóa mới trên cơ sở tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và kế thừa những
tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đó là văn hóa Xơ Viết.
Thành tựu của cơng cuộc xây dựng nền văn hóa Xơ Viết được thể hiện
trong việc xóa bỏ tình trạng mù chữ và nạn thất học, phát triển hệ thống giáo dục
quốc dân, đấu tranh chống các tư tưởng của chế độ cũ, phát triển văn học nghệ
thuật.
Trước cách mạng ba phần tư dân số Nga mù chữ; trong ngơn ngữ của các
dân tộc khơng có từ "học tập". Chỉ trong vòng 20 năm (1921 - 1940), khoảng 60
triệu người đã thoát nạn mù chữ. Đến cuối những năm 30 nạn mù chữ về căn bản
được thanh toán, chế độ giáo dục phổ cập được thực hiện. Trong vòng chưa đầy

30 năm nước Nga "đi giày cỏ" năm kia đã trở thành một đất nước, trong đó đa số
người dân có trình độ văn hóa cao, có một đội ngũ tri thức đông đảo, phục vụ đắc
lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Liên bang Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Xơ Viết ra đời. đã mở ra một thời đại
mới, mọi sự kiện lớn của thế giới – nhiều hay ít – đều có dấu ấn và chịu ảnh
hưởng của Liên Xơ. Cục diện thế giới có sự thay đổi lớn về chính trị và kinh tế.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ra đời,
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường của cách mạng vô sản
phát triển mạnh mẽ ở khắp các châu lục Á, Phi, Mỹ Latinh. Cho đến thập kỷ 60,
hàng loạt các nước thuộc địa và phụ thuộc đã tuyên bố độc lập. . Những vấn đề
về lý luận và thực tiễn cách mạng, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục mới được

9


đặt ra và sẽ giải quyết theo những điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia, từng
dân tộc.
* Tình hình trong nước
Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược và đặt ách thống trị trên đất nước ta.
Do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế
Việt Nam có sự biến đổi, quan hệ kinh tế ở nông thôn bị phá vỡ thay vào đó là
những đơ thị mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Thực dân
Pháp khơng du nhập một cách hồn chỉnh phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa vào nước ta. Vì thế khơng thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách
bình thường được, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ
thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.
Sau khi dập tắt các phong trào yêu nước, hồn thành căn bản cơng cuộc
bình định nước ta về mặt quân sự, thực dân Pháp đã tiến hành hai cuộc khai
thác thuộc địa, áp đặt một chính sách thống trị quy mô và triệt để trên các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, đặc biệt về văn hố giáo dục... nhằm biến Đông Dương

thành thuộc địa khai khẩn, bảo đảm siêu lợi nhuận cho chính quốc.
Cuối thế kỷ XIX phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ
bùng lên, dâng cao và lan rộng trong cả nước, song các phong trào đó đều thất
bại vì chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng, còn nặng về tư tưởng ý thức
hệ phong kiến.
Khi thực dân Pháp vào xâm lược nước ta, họ đã làm đảo lộn xã hội Việt
Nam cổ truyền vốn êm ả và bình lặng. Những chính sách thuế, phu dịch nặng
nề đã đẩy người dân vào con đường khổ cực, bần cùng hóa. Họ phải chống lại
những ác nghiệt của cuộc sống để mà tồn tại, để mà khỏi chết đói thì làm sao
có thể nghĩ đến chuyện học hành. Đồng thời với việc gây tư tưởng sợ Pháp,
phục Pháp cùng với văn hóa phẩm đồi bại, thực dân Pháp cịn duy trì ý thức hệ
đã lỗi thời, đưa nhân dân Việt Nam vào con đường mê tín dị đoan, u mê, lãng
quên đấu tranh giải phóng dân tộc.

10


Sang đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp ra sức xây dựng một nền giáo dục mới,
thủ tiêu vai trò của nền giáo dục cũ. Hệ thống các trường tiểu học Pháp - Việt
được mở rộng nhằm thay thế trường cũ. Các khoa thi Hương, Hội, Đình bị bãi bỏ
với mục đích chấm dứt vai trị của các trí thức phong kiến đối với chính trị, xã
hội.
Với nền giáo dục thuộc địa, thực dân Pháp muốn người đi học chỉ biết
sùng bái kẻ mạnh hơn mình, yêu Tổ quốc nhưng khơng phải u q hương
đất nước mình mà lại đi yêu cái quốc gia đang đè nén, áp bức và bóc lột mình.
Pháp thực hiện chính sách "ngu dân" về giáo dục và đầu độc về văn hoá
nhằm hỗ trợ đắc lực cho công cuộc khai thác ở Việt Nam. Ban đầu, thực dân
Pháp thực hiện chính sách giáo dục chỉ nhằm mục đích đào tạo đội ngũ thơng
dịch viên và những người phục vụ trong bộ máy chính quyền thuộc địa, đồng
thời từng bước truyền bá chữ Pháp và chữ Quốc ngữ, hạn chế ảnh hưởng của

chữ Hán. Các trường học được tổ chức với ba bậc: bậc ấu học ở xã, bậc tiểu học
ở phủ, huyện và bậc trung học ở tỉnh. Bọn chúng đã thi hành một nền giáo dục
què quặt, nhỏ giọt. Giáo dục không phải là để cho nhân dân Việt Nam phát triển
trí tuệ, đào tạo nhân tài mà họ "chỉ xây dựng trường học để đào tạo ra những con
vẹt, những người vong bản thiếu đạo đức và thiếu cả kiến thức phổ thơng".
[43;26].
Vì thế mà cho đến năm 1913, cả Bắc, Trung, Nam cũng chỉ có 10 vạn
học sinh trong tổng số 20 triệu dân. Tất cả các vùng miền núi đều khơng có
trường học. Đất nước ta như sống trong đêm tối của tri thức và văn hóa.
Người Pháp đã dạy cho nhân dân Việt Nam cái lịch sử đầy "tự hào" của
người Pháp vĩ đại, mà không dạy cho nhân dân ta những kiến thức thuộc về
nền dân chủ đích thực của cách mạng tư sản Pháp 1789, không dạy cho người
dân ta biết đến những con người xả thân đấu tranh cho sự công bằng và tự do
của nhân dân Pháp.
Hơn nữa, trong nội dung chương trình giảng dạy của hệ thống giáo dục, thực
dân Pháp đã loại trừ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, thay vào đó
là chương trình truyền bá “văn minh đại Pháp” nhằm đào tạo một thế hệ người Việt
11


Nam “mất gốc” khơng có tinh thần u nước và ý thức về số phận của người dân
mất nước, nô lệ để từ đó phục vụ đắc lực cho cơng cuộc thống trị của thực dân.
Thực trạng giáo dục đau buồn đó buộc người Việt Nam làm cách mạng trong
giáo dục, đào tạo. Chỉ có thể có một nền giáo dục mới cách mạng mới khi chính trị
đã được giải phóng, dân tộc độc lập thì mới làm cho nhân dân tự do. Vì lẽ đó, ngay
sau khi cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hịa ra đời,
Chính phủ lâm thời, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra những nhiệm vụ
cấp bách của Nhà nước mới, trong đó có nhiệm vụ thứ hai là "diệt giặc dốt". Theo
Hồ Chí Minh: nạn dốt - là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân
dùng để cai trị chúng ta. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã khai sinh ra nền giáo

dục cách mạng, bắt đầu một công cuộc giáo dục con người Việt Nam mới kiến thiết
đất nước.
1.1.2. Tiền đề tư tưởng
* Tư tưởng giáo dục con người của một số nhà tư tưởng Việt Nam đầu thế
kỷ XX.
Tư tưởng truyền thống Việt Nam nhấn mạnh tới sức mạnh của nhân tố con
người, của người dân quy tụ vì mục tiêu chung. Đó là yếu tố cơ bản của những
thắng lợi trong cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước. Việc "lấy dân làm
gốc" đã là quan niệm có tính truyền thống trong suốt lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc từ nhiều nghìn năm nay, đặc biệt trong lịch sử chống giặc ngoại
xâm.
Tư tưởng về giáo dục con người cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 được thể
hiện khá rõ trong những tư tưởng của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh
Thúc Kháng - những trí thức nho học duy tân.
Theo Phan Bội Châu để thực hiện "Duy tân", trước hết phải duy tân con
người. Những sáng tác thơ văn của Phan Bội Châu đều phản ánh nỗi đau, nỗi
nhục mất nước của dân tộc Việt Nam, mà nguyên nhân được Phan Bội Châu chỉ
ra đó là con người. Theo Phan Bội Châu: biến cố do con người gây nên, vận trời
12


theo liền đó. Quan niệm của Phan Bội Châu khác hẳn với quan niệm "Thiên
mệnh" của những nhà nho cũ. Phan Bội Châu cho rằng: Người trong một nước
đều là chủ tể của một nước để cạnh tranh với nước khác, do vậy nhân dân là
quan trọng nhất, nhân dân cịn thì nước cịn, nhân dân mất thì nước mất. Theo đó
Phan Bội Châu yêu cầu mỗi người phải tự thức tỉnh để nhận thức được thực trạng
vong quốc của đất nước.
Từ yêu cầu tự thức tỉnh, Phan Bội Châu chủ trương giáo dục con người
nhằm giải phóng con người tiến đến giải phóng dân tộc. Phan Bội Châu ln đề
cao tinh thần giáo dục về đức dục, trí dục và thể dục. Phan Bội Châu còn phê

phán nền giáo dục phong kiến chỉ biết tạo ra những hủ nho, nhút nhát, ý tưởng
hẹp hòi, chỉ chú trọng đến khoa cử, văn tự. Đồng thời Phan Bội Châu cũng cảnh
báo và phê phán kiểu giáo dục theo thực dân Pháp lúc bấy giờ chỉ nhằm tạo ra
một lớp người làm tay sai cho giặc. Phan Bội Châu cho rằng nền giáo dục mới
không chỉ nhằm vào một tầng lớp người mà phải là tồn thể nhân dân vì: trong
cuộc đấu tranh bằng trí lực giữa các nước cái quyết định khơng phải bằng trí
khơn của một người mà phải là trí khơn của tất cả mọi người. Phan Bội Châu đã
đề ra: Khai dân trí, chấn dân khí, thực nhân tài.
Với Phan Bội Châu "giáo dục là sinh mệnh của quốc dân". Quốc dân suy
đồi là do bụng đói và óc đói. Ở đây, chúng ta thấy có một sự đồng cảm giữa quan
niệm của Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu".
Để chấn hưng giáo dục, Phan Bội Châu đề ra nội dung chương trình học
bao gồm các mơn học: triết, văn, sử, chính trị, kinh tế, quân sự, luật pháp, ngoại
ngữ, vật lý, hóa học, thể dục, âm nhạc...Nhìn chung, Phan Bội Châu đã xác định
được một nền giáo dục toàn diện, hiện đại khác xa với đường lối giáo dục của
nhà nước phong kiến. Song Phan Bội Châu cũng không phủ định nền học vấn
Nho giáo đã trở thành một bộ phận quan trọng trong nền văn hóa dân tộc. Bởi
Phan Bội Châu nhìn thấy được những giá trị từ trong học thuyết Nho gia với
những phạm trù: Nhân, Hiếu, Nghĩa, Trí, Dũng.

13


Những tư tưởng về giáo dục con người của Phan Bội Châu là một trong
những nội dung góp phần xây dựng một nền văn hóa vừa thể hiện tính hiện đại,
vừa mang đậm bản sắc truyền thống của dân tộc.
Phan Chu Trinh ngay từ những năm 1902 đã thấy tệ hại của lối giáo dục
phong kiến cũ. Ông cho rằng muốn khơi phục quốc hồn thì phải sửa đổi phép thi,
thay đổi nền giáo dục cũ bằng nền giáo dục lấy kiến thức thực dụng làm nội
dung, dạy con người nắm được tri thức cần thiết cho đời sống dân sinh. Ông cực

lực phản đối lối học từ chương bát cổ, sáo rỗng, hình thức làm suy đổi tâm trí của
người dân.
Ba mục tiêu đổi mới nhằm chấn chỉnh phong hố nước nhà theo Phan
Châu Trinh là:
Chấn dân khí: kêu gọi tinh thần yêu nước và dũng khí đấu tranh của đồng
bào, mà trước hết là giới trí thức phong kiến.
Khai dân trí: nhằm mở mang trí tuệ cho nhân dân, bồi dưỡng nhân tài cho
đất nước. Bỏ lối học của Nho giáo, chú trọng khoa học kỹ thuật phương Tây.
Chống mê tín dị đoan, bài trừ hủ tục ở hương thơn. Xây dựng một nền học vấn và
văn hố tiến bộ, xây dựng con người tồn diện thích ứng cuộc sống văn minh.
Hậu dân sinh: thúc đẩy phát triển kinh tế bằng sức tự lực, tự cường. Vận
động nhân dân tiêu dùng hàng trong nước, gầy dựng những cơ sở sản xuất, kinh
doanh.
Trong đó Phan Châu Trinh xếp khai dân trí - tức là giáo dục - vào vị trí thứ
nhất.
Ngồi ra tư tưởng giáo dục con người cịn thể hiện trong tư tưởng của
Huỳnh Thúc Kháng. Huỳnh Thúc Kháng chỉ rõ giáo dục phải phục vụ yêu cầu
của xã hội, Huỳnh Thúc Kháng viết:
“Giáo dục phải trọng mặt lợi. Trong nước người nào cũng phải biết một
nghề, kỹ nghệ là nghề, khảo cứu là nghề, trước thuật cũng là nghề. Muốn công

14


nghệ được thịnh thầy giáo phải biết trọng khiếu riêng của thiếu niên”. [69;268].
Huỳnh Thúc Kháng cịn bình luận:
“Ra ở đời, nhiều điều có học mà vơ dụng, nhiều điều xã hội cần thời lại
khơng biết. Như thế là vì hoàn cảnh của học đường là một hoàn cảnh đặc biệ, chỉ
có khơng khí viển vơng mà khơng có khơng khí thiết thực, vì thế phải dạy thực
hành trước rồi dạy lý luận sau và phải dùng phép thực nghiệm để dạy hơn là

dùng sách” [69;268].
Đây là phương châm học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với xã hội
mà nền giáo dục của ta hướng tới. Huỳnh Thúc Kháng cũng dịch giới thiệu và
bình luận về giáo dục bậc tiểu học và việc đào tạo giáo viên tiểu học qua kinh
nghiệm nhiều nước với những nhận xét rất mới: “Trước kia tiểu học chỉ truyền
cho quốc dân có cái trí năng làm nền vốn thơng thường mục đích là tạo thành
cho dân chúng cái tánh cách thuần phục và dễ sai khiến. Hiện nay thì tiểu học
giáo dục nhiệm vụ quan yếu là đào luyện thân thể, trí năng và đạo đức cho đoan
chính cao hơn trước nhiều". Huỳnh Thúc Kháng chỉ rõ nội dung sư phạm giáo
dục do ba điều cần tổng hợp lại là: “trí thức, kỹ năng, nhân cách. Ba cái ấy cho
quân bình nhau không thiên lệch” [69;582].
Tuy nhiên những chủ thuyết của các ông đưa ra đã bộc lộ hạn chế, chưa
thực sự thoát hẳn ý thức hệ phong kiến, chỉ dừng lại ở việc tiếp thu các ý tưởng
mới của các nhà khai sáng Pháp và các nhà duy tân cải cách của Nhật Bản, Trung
Quốc. Các nhà duy tân trong thời kỳ này chủ yếu vận động mở trường dạy học,
cải đổi phong tục tập quán và lối sống, khuyến khích mở mang cơng thương
trong khi tình hình trong nước cịn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là chưa giành
được độc lập, tự chủ.
Song dù chưa thành công nhưng điều đó đã thể hiện ơng cha ta đều coi
giáo dục là yếu tố hình thành nên nhân cách con người, là điều kiện quan trọng
không thể thiếu để giúp non sông xã tắc ổn định, phồn vinh.
* Tư tưởng về giáo dục con người trong triết học phương Đông.
15


Trong lịch sử, tinh hoa triết học và các giá trị văn hóa phương Đơng được
hội tụ chủ yếu trong Nho giáo, Phật giáo.
Trong hệ thống triết học của Nho giáo, quan điểm về thế giới, về con
người, tư tưởng chính trị xã hội và tư tưởng luân lý đạo đức thống nhất với nhau.
Những tư tưởng đó đều tập trung phản ánh đời sống và bản chất con người thể

hiện những cố gắng và ước mong ổn định trật tự đẳng cấp danh phận trong xã
hội, nhằm xây dựng một xã hội lý tưởng với mẫu người lý tưởng lấy "nhân
nghĩa" làm gốc. Để làm được điều đó, Khổng Tử chủ trương phải giáo dục con
người. Khổng Tử cho rằng đã là con người thì dù thiện hay ác đều có thể bằng
con đường giáo dục mà cải hóa được. Khổng Tử đã đặt niềm tin vào giáo dục có
thể làm cho con người tốt hơn. Cuộc đời và kinh nghiệm dạy học của Khổng Tử
cho thấy rõ vai trị của giáo dục đối với việc hình thành nhân cách nói riêng, đến
tơn ti trật tự, đến cuộc sống của cộng đồng nói chung. Nghĩa là Khổng Tử xác
định được vai trò của giáo dục trong mối quan hệ của nó với chính trị và đời sống
tinh thần. Với cá nhân, Khổng Tử sớm nhận thấy nhân cách của con người bị
quyết định không chỉ đơn thuần bởi điều kiện sống.
Mục đích giáo dục của Khổng Tử là đào tạo nên những con người có đức,
có tài, có nhân, có lễ, nhằm duy trì đạo đức kỷ cương, trật tự xã hội theo danh
phận. Mẫu người lý tưởng của giáo dục Nho gia là người quân tử.
Khổng Tử là người đầu tiên làm một cuộc cách mạng thực sự trong tư
tưởng giáo dục cổ đại. Khổng Tử chính là người đã mở trường tư với quy mô lớn
đầu tiên, mở rộng cửa học đường để thu nhận tất cả các đối tượng, tầng lớp có
nhu cầu học tập. Khổng Tử chủ trương: "Hữu giáo vơ loại" có nghĩa việc giáo
dục khơng phân biệt đẳng cấp. Ngồi ra Khổng Tử chủ trương giáo dục phải từng
bước, giáo dục phải tùy theo đối tượng để định hướng nội dung và cách thức.
Về phương pháp giáo dục: Khổng Tử coi trọng việc tự học, tự tìm tịi, suy
nghĩ, đào sâu của người học. Khổng Tử nói:

16


"Khơng tức giận vì muốn biết, thì khơng gợi mở cho, khơng bực vì khơng
rõ được thì khơng bày vẽ cho. Vật có bốn góc, bảo cho biết một góc mà khơng
suy ra ba góc kia thì khơng dạy nữa" [59;20].
Bên cạnh đó, Khổng Tử cũng chú trọng đến việc học đi đôi với hành,

người học phải: Nghe - Nghĩ - Làm. Khổng Tử cho rằng, học mà thực hành theo
điều mình học há chẳng vui sao. Học điều xưa để áp dụng cho thời nay, đó là
người khéo vận dụng tri thức. Như vậy có thể nói phương châm chính của Khổng
Tử là “học khơng biết chán, dạy khơng biết mỏi”. Học và dạy đều cần có phương
pháp và ai cũng đều phải học mới có thể cải thiện được chính bản thân và kiến
tạo xã hội thái bình.
Ngồi việc ảnh hưởng tư tưởng giáo dục con người của Khổng Tử, quan
điểm của Mặc Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, cũng có những ảnh hưởng nhất định đối
với Hồ Chí Minh. Như về phương pháp của Mặc Tử chú trọng sự kết hợp giữa
học và hành, quan niệm đó vẫn ln có giá trị với mọi thời đại. Cịn Mạnh Tử lại
nhấn mạnh có cách dạy người, chú trọng đến cái tài, cái đức và phương pháp tự
trau dồi:
"Có cách như trời mưa xuống mà hóa đi, có cách làm cho thành cái đức,
có cách làm cho đạt được cái tài, có cách trả lời cho câu hỏi, có cách học riêng
mà tự trau dồi" [59;26].
Mặt khác Mạnh Tử còn chủ trương hướng dẫn cho học trò, nhưng bắt học
trò phải tự cố gắng học lấy.
Trong khi đó Tuân Tử thì nhấn mạnh việc học tập phải kiên trì lâu ngày sẽ
thành cơng:
"Khơng góp từng nửa bước khơng thể đi đến nghìn dặm, khơng góp những
ngịi nhỏ khơng thành được sông lớn biển cả. Thành công là ở chỗ làm luôn luôn
mà không bỏ" [59;28].
17


Cùng với tư tưởng giáo dục con người của Nho giáo thì tư tưởng giáo dục
con người của Phật giáo cũng rất đặc sắc, để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử văn
hóa của các dân tộc phương Đơng. Mục tiêu đầu tiên của giáo dục Phật giáo là
học những kinh sách và sử dụng chúng như là một thấu kính để hiểu ý nghĩa của
lời Phật dạy. Học kinh như là một phần của tiến trình tu tập. Mục tiêu thứ hai của

giáo dục con người trong Phật giáo là để chuyển đổi bản thân, tức là việc học là
giải pháp nhằm làm cho chúng ta trở thành những con người tốt, có phẩm hạnh
và đạo đức, trở thành những con người chân thật, từ bi và biết kính trọng người
khác.
Giáo dục con người trong Phật giáo đào tạo nên những con người có trí
tuệ, hiểu biết bản chất của thế giới, có thể đem pháp giáo của đức Phật truyền
trao lại cho những người khác. Học phật pháp là để đem lại lợi ích cho cuộc đời
này, để cho có nhiều người được hưởng lợi ích từ việc thực hành theo giáo pháp
ấy.
Bản chất của nền giáo dục Phật giáo là Từ Bi Hỷ Xả, là tất cả vì con người,
vì hịa bình và an lạc cho mọi chúng sinh.
Giá trị của giáo dục con người trong Phật giáo là hướng đến sự phát triển
toàn diện của con người qua các mặt của đời sống, đặc biệt là tâm thức, nhằm
kiến tạo một đời sống trí tuệ và hạnh.
Những tư tưởng về giáo dục con người trong triết học Phương Đông chú ý
nhiều đến vấn đề nhận thức luận, đi sâu vào việc nhận thức con người và các giá
trị làm người, con người sống hòa hợp với tự nhiên, hướng tới một xã hội tốt đẹp
. Những tư tưởng về giáo dục con người của triết học phương Đông đã ảnh hưởng
sâu sắc đến tư tưởng Hồ Chí Minh và được coi là một trong những nguồn gốc cơ
bản trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người.
* Tư tưởng về giáo dục con người và giáo dục con người trong triết học

phương Tây
18


Giáo dục của Phương Tây chú trọng đến đào tạo ra hình mẫu con người mà
xã hội cần đến, quan tâm đến "giáo dục lý tưởng" cho một lớp người kế tục việc
quản lý xã hội mà chế độ đó đang hướng tới. Thực tế trong giáo dục đào tạo con
người luôn chi phối các triết lý và thực thi của các nền giáo dục Phương Tây và

được biểu hiện qua những thời kỳ khác nhau.
Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản đã phát
triển đến đỉnh cao, thì các nền giáo dục phương Tây lại một lần nữa đề ra những
yêu cầu mới cho giáo dục. Nền giáo dục mới, nhà trường mới là những thuật ngữ
được nêu ra trong thời gian này. Người ta đã giành cho giáo dục những gì tốt nhất
với những nội dung hết sức thực tế là chuẩn bị cho con người vốn tri thức và kỹ
năng nhằm đem lại năng suất lao động và cái lợi cao nhất cho nhà tư bản.
Jean-Jacques Rousseau cho rằng giáo dục là tự học, ông chỉ ra rằng: Chắc
chắn là người ta rút ra được những khái niệm rõ ràng hơn nhiều và vững vàng
hơn nhiều từ những sự vật mà ta tự học hiểu lấy như vậy, hơn là từ những sự vật
được người khác giáo huấn.
Trong suốt hành trình sang phương Tây tìm đường cứu nước giải phóng
dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhiều năm tiếp thu văn hóa Âu Mỹ. Có thể nói rằng nền
văn hóa Âu Mỹ đã có ảnh hường lớn đến tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh đã
được trực tiếp trải nghiệm cuộc sống của người lao động ở các nước phương Tây.
Hồ Chí Minh đã tận mắt chứng kiến những thành tựu của văn minh phương Tây
về chính trị, văn hóa, giáo dục, nghệ thuật...cụ thể là phong cách làm việc dân
chủ của nền giáo dục phương Tây. Hồ Chí Minh đã tiếp thu học hỏi được nhiều
điều từ nền văn minh đó. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh đã tìm ra được những mâu
thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra trong mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn
hóa, giáo dục... Với sự kế thừa các giá trị nhân văn, nhân đạo của văn hóa
phương Tây, Hồ Chí Minh đã xây dựng một nền văn hóa, giáo dục Việt Nam mới
sau cách mạng tháng Tám.
* Tư tưởng về giáo dục con người trong chủ nghĩa Mác – Lênin.

19


Các nhà sáng lập ra Chủ nghĩa khoa học khẳng định quần chúng nhân dân
là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và các giá trị văn hóa tinh thần, quần

chúng nhân dân chính là lực lượng đơng đảo có sức mạnh quyết định sự thành bại
của các cuộc cách mạng. Vì vậy quần chúng nhân dân chính là người quyết định
tới vận mệnh của lịch sử, quyết định tới sự tồn tại và phát triển của xã hội.
V.I.Lênin đã kế thừa, vận dụng và phát triển những tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen về giáo dục và đào tạo trong thực tiễn cách mạng nước Nga, trong
bối cảnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga vào những thập niên đầu của thế
kỷ XX.
Vấn đề bức thiết nhất trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn
đầu, theo V.I.Lênin là đào tạo những con người lao động kiểu mới "biết tổ chức",
"biết quản lý" nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và toàn bộ các mặt đời sống xã
hội. Những con người đó khơng từ trên trời rơi xuống mà phải "đào tạo" từ
những con người "ngập trong vũng bùn" của xã hội cũ, đào tạo thành những con
người lao động kiểu mới phải biết tổ chức thật tốt việc học tập để con người có
thể làm chủ được khoa học kỹ thuật tiên tiến của thời đại. Đó là điều được tư
tưởng Mác - Lênin xác định có ý nghĩa hàng đầu để đào tạo thế hệ mới đủ phẩm
chất, đủ năng lực xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng giáo dục tổng hợp là tư tưởng giáo dục có ý nghĩa hết sức to lớn
đối với thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Nga. Cuối năm 1920, khi nhận
xét bản “Đề cương báo cáo về giáo dục” của Crúpxcaia, V.I.Lênin viết rằng bất
cứ trong hoàn cảnh nào, chúng ta phải mau chóng từng bước chuyển sang giáo
dục kỹ thuật tổng hợp...để mang lại cho học sinh một tầm nhìn kỹ thuật tổng hợp
và các tri thức cơ bản ban đầu của giáo dục kỹ thuật tổng hợp,..cụ thể là các bài
giảng về điện, điện khí hố, về nơng học, về hoá học. Kết hợp với tham quan nhà
máy, nhất là nhà máy điện, nông trường, bảo tàng kỹ thuật...Tư tưởng này thực
hiện trong thực tế, xuất phát từ nguyên lý giáo dục kết hợp với lao động sản xuất
do C.Mác và Ph.Ăngghen tổng kết thời kỳ đầu cách mạng công nghiệp.

20



×