Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

(Luận văn thạc sĩ) đặc điểm truyện truyền kì việt nam thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 129 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
======== *** ========

LƯƠNG THỊ HUYỀN THƯƠNG

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN TRUYỀN KÌ VIỆT NAM
THẾ KỈ XVIII - NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
***0O0***

LƯƠNG THỊ HUYỀN THƯƠNG

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN TRUYỀN KÌ VIỆT NAM
THẾ KỈ XVIII – NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Thanh

HÀ NỘI - 2009


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn đến các thầy
giáo, cơ giáo trong khoa Văn học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, các cán bộ và giảng viên viện Văn học đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi
trong thời gian học tập và nghiên cứu những năm vừa qua.
Đặc biệt, tôi trân trọng bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Vũ Thanh,
người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã ln ủng hộ và giúp đỡ tôi
trong thời gian qua.
Hà Nội, tháng 10 năm 2009

Lương Thị Huyền Thương


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 6
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................................. 17
CHƯƠNG 1. TRONG DỊNG CHẢY TRUYỀN KÌ ........................................................... 18
1.1.

Phần lí luận: Tình hình phát triển của thể loại truyền kì trong Văn học Việt Nam

và thế giới ................................................................................................................................. 18
1.1.1.


Một số thuật ngữ .................................................................................................. 18

1.1.1.1. Yếu tố kì ảo và văn học kì ảo ............................................................................... 18
1.1.1.2. Thuật ngữ “Truyền kì” và thuật ngữ liên quan ................................................... 19
1.1.2.

Một chặng đường truyền kì ................................................................................. 22

1.1.2.1. Thành tựu truyền kì thế giới................................................................................. 22
1.1.2.2. Bảy thế kỉ truyền kì Việt Nam .............................................................................. 26
1.2.

Truyền kì thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX: Vài nét về hoàn cảnh xã hội, lịch sử,

văn hóa, văn học ...................................................................................................................... 28
1.2.1.

Bối cảnh chính trị xã hội, văn học ...................................................................... 28

1.2.2. Thời kì nở rộ của thể loại truyền kì .......................................................................... 30
CHƯƠNG 2. NHỮNG XU HƯỚNG MỚI TRONG NỘI DUNG PHẢN ÁNH ................ 33
2.1. Sự chuyển hướng trong tư tưởng ................................................................................... 33
2.1.1. Trung thành với lí tưởng Nho gia ............................................................................. 33
2.1.2. Day dứt vì cõi lịng hồi Lê........................................................................................ 39
2.1.3. Dựa dẫm vào tư tưởng Lão Trang ............................................................................ 42
2.2. Đề tài gắn với đời sống thế sự ......................................................................................... 47
2.2.1. Đậm chất kí sự ........................................................................................................... 47
2.2.2. Nghiêng về khảo cứu ................................................................................................. 51
2.3. Xu hướng viết về người thật, việc thật ........................................................................... 55
2.3.1. Những nhân vật lịch sử ............................................................................................. 55

2.3.2. Những con người, sự vật xung quanh ...................................................................... 59
2.3.3. Những nhân vật bình phàm ...................................................................................... 62
2.4. Con người và số phận con người .................................................................................... 65
2.4.1. Quan niệm rộng mở về con người ............................................................................ 66
2.4.1.1. Con người với những phẩm chất tốt đẹp ............................................................. 66
2.4.1.2. Quan niệm mới về hạnh phúc .............................................................................. 68
2.4.1.3. Quan niệm về chữ “trinh” ................................................................................... 71


2.4.2. Phản ánh số phận con người .................................................................................... 73
2.4.2.1. Con người bất hạnh ............................................................................................. 74
a) Tài tử giai nhân ........................................................................................................ 74
b) Thường dân bất hạnh ............................................................................................... 76
2.4.2.2. Số phận người phụ nữ .......................................................................................... 78
a) Người phụ nữ trong “Truyền kì tân phả” ................................................................ 79
b) Người phụ nữ trong “Lan Trì kiến văn lục” ............................................................ 82
CHƯƠNG 3. NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN ........................ 87
3.1. Chuyển đổi giữa “kì - thực” ............................................................................................ 87
3.2. “Thực” trong nghệ thuật tự sự ....................................................................................... 90
3.2.1. Vị trí của người trần thuật ........................................................................................ 91
3.2.2. Góc độ của điểm nhìn trần thuật .............................................................................. 91
3.2.2.1. Cảm giác đến từ Tiêu đề ...................................................................................... 92
3.2.2.2. Nổi bật “thực” qua thủ pháp ............................................................................... 94
3.2.3. Tính khơng thuần nhất về thể loại ............................................................................ 96
3.3. Tinh giản trong văn phong .............................................................................................. 98
3.3.1. Câu văn gọn ............................................................................................................... 98
3.3.2. Lời bình giảm ........................................................................................................... 101
3.3.3. Dung lượng nhỏ ....................................................................................................... 103
3.3.4. Kết cấu chuẩn .......................................................................................................... 108
Tổng kết (phần nội dung) ..................................................................................................... 111

LỜI KẾT ................................................................................................................................ 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 119
PHỤ LỤC............................................................................................................................... 124


LỜI MỞ ĐẦU


1. Lí do chọn đề tài
Từ điển Văn học Việt Nam (Từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX, NXB Giáo
dục, Hà Nội, 1999) cho biết: Truyền kì là một thể loại văn xuôi tự sự viết bằng
chữ Hán trong văn học trung đại. Tên gọi của thể loại vốn có nguồn gốc từ văn
học cổ và trung đại Trung Hoa 1. Đây là một thể loại văn học nhiều thành tựu của
văn học Đông Á, một đối tượng nghiêm túc và hấp dẫn đối với các nhà nghiên
cứu Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Pháp… Trong khi đó, ở
Việt Nam, khơng giống như các thể loại khác (thơ, truyện thơ nôm, truyện ngắn,
tiểu thuyết…), trong một thời gian dài, truyện truyền kì cịn chưa được nhìn nhận
dưới góc độ thể loại mà mới chỉ được các nhà nghiên cứu chú ý ở cấp độ tác
phẩm, mà sức hút mạnh nhất dường như cũng chỉ mới tập trung vào Truyền kì
mạn lục 2 của Nguyễn Dữ (thế kỉ XVI). Và thể loại truyền kì vẫn chưa có một
chỗ đứng thỏa đáng trong lịch sử văn học. Hiện tại, nó mới chỉ được đưa vào
giảng dạy chính thức ở bậc phổ thông và dừng lại ở cấp độ tác phẩm. Đó đúng là
một thiệt thịi cho truyện truyền kì, một bộ phận văn học quan trọng – một sắc
màu kì lạ trong diện mạo mn màu của văn học Việt Nam.
Giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX (đặc biệt là từ nửa sau thế kỉ
XVIII trở đi), được phong trào cách tân và nhân văn nâng đỡ, văn học viết bằng
chữ Hán và chữ Nơm, văn học viết bác học, văn học viết bình dân đều phát triển
chưa từng có và trở thành giai đoạn rực rỡ nhất trong lịch sử văn học nước nhà,
với rất nhiều thể loại (thơ Đường luật, thơ lục bát, phú, ngâm khúc, truyện thơ,
hát nói, truyện và kí văn xuôi chữ Hán…). Cảm hứng nhân đạo và cảm hứng u

nước vẫn bao trùm và khơng hồn tồn tách biệt trong dòng chảy xuyên suốt
1

Vấn đề lịch sử thể loại và tên gọi của truyện truyền kì chúng tơi sẽ trình bày kĩ hơn trong chương 1.
Để thể hiện rõ đâu là tập truyện gồm có nhiều truyện và đâu chỉ là một truyện trong tập (hoặc một tác phẩm),
chúng tơi trình bày tên tập truyện với dạng chữ đậm, thẳng, còn tên truyện với dạng chữ đậm, nghiêng.
2


mấy nghìn năm của lịch sử văn học dân tộc. Nhưng những nội dung của chủ
nghĩa nhân đạo đã được biểu hiện tập trung nhất trong giai đoạn thế kỉ XVIII –
nửa đầu thế kỉ XIX, và nuôi dưỡng những tác phẩm văn học trong lịng nó để
văn học giai đoạn này trở thành giai đoạn rực rỡ nhất của lịch sử văn học dân
tộc. Trong giai đoạn phát triển rực rỡ nhất ấy, người ta nhắc nhiều tới ngâm khúc
(Chinh phụ ngâm khúc – Nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Cơn, bản dịch
của Đồn Thị Điểm, Cung ốn ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều), hát nói (với
một Cao Bá Quát khát vọng cao cả và nhân cách cứng cỏi của mẫu người “tài tử
đa cùng”, và một Nguyễn Cơng Trứ nhiệt tình hăm hở trong “chí làm trai” và
bản lĩnh sống giữa cuộc đời mà cuối cùng bị vỡ mộng đến chán chường), tới tác
phẩm hoành tráng về sự thống nhất của nhà Lê (Hoàng Lê nhất thống chí – Ngơ
gia văn phái). Người ta cũng đã ca ngợi nhiều một đại thi hào dân tộc Nguyễn
Du với kiệt tác đỉnh cao – áng thiên cổ kì văn Truyện Kiều và rất nhiều tác phẩm
khác; một nữ sĩ – “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương mà cuộc đời và thơ văn
đã đi vào huyền thoại; một cái Tôi lãng mạn, một mầm mống của văn xuôi tiếng
Việt bước đầu đã xuất hiện trong thơ văn Phạm Thái; một Bà huyện Thanh Quan
vỏn vẹn sáu bài thơ mà như sáu bông hoa, trang nhã một phong thái riêng cao
quí...
Giữa những lời tụng ca và ghi nhận ấy, những tác gia và tác phẩm truyền
kì giai đoạn này nằm im ắng, khiêm nhường, không xuất hiện trong những cuốn
sách giáo khoa mẫu mực của học đường. Đối với thế hệ học sinh măng non của

đất nước, như thể bước phát triển của thể loại này ở Thánh tông di thảo (tương
truyền là của vua Lê Thánh Tông, 1442 - 1497) và Truyền kì mạn lục (Nguyễn
Dữ) của thế kỉ XV, XVI đã khơng có người kế vị? Trong khi thực tế, nó vẫn phát
triển, thậm chí với một tốc độ chóng mặt cả về số lượng tác gia và tác phẩm. Hay
là những truyện truyền kì trong giai đoạn này kém về chất lượng? Cũng khơng
phải! Bởi vì đã có sự xuất hiện của những tác gia, tác phẩm xuất sắc, như một


Đồn Thị Điểm chín muồi và đầy nữ quyền trong Truyền kì tân phả; một Vũ
Trinh kiên định, sâu sắc với Lan Trì kiến văn lục; một Phạm Đình Hổ thông
thái, uyên bác qua Vũ Trung tùy bút và Tang thương ngẫu lục (viết chung với
Nguyễn Án)… Thậm chí, chúng tơi biết đã có nhiều bạn sinh viên cùng chun
ngành với mình khẳng định một cách chắc chắn trong luận văn rằng: “Ở giai
đoạn suy tàn của truyện truyền kì, Truyền kì tân phả của Đồn Thị Điểm ra đời
trong những năm đầu thế kỉ XVIII được xem là tác phẩm tiêu biểu. Đặt tên cho
tập sách của mình là Tục truyền kì, Đồn Thị Điểm muốn qua đó tiếp tục cơng
trình của Nguyễn Dữ. Sau Truyền kì tân phả, một số tác giả tuy vẫn sử dụng
yếu tố kì ảo trong sáng tác của mình, tuy nhiên sự biến ảo phong phú đã khơng
bằng Truyền kì mạn lục và lại quay về tuân thủ sự thật lịch sử cứng nhắc. Sang
thế kỉ XVIII, trước sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội, nhất là sự hưng thịnh của
chữ Nôm, truyện truyền kì chữ Hán bắt đầu suy thối dần, thay vào đó là thể loại
mới, đó là truyện thơ Nơm” [Phạm Thu Trang]. Đó chính là lí do khiến chúng tơi
quan tâm và muốn góp phần khẳng định vị thế cho truyện truyền kì giai đoạn
này.
Cũng giống như số phận của truyện truyền kì Việt Nam nói chung, truyện
truyền kì thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX từ lâu đã được các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ tác phẩm, hoặc giới thiệu
chung. Luận văn của chúng tôi bước đầu muốn đi sâu nghiên cứu một cách tổng
quát, cụ thể hơn những vấn đề nội dung cũng như nghệ thuật của truyện truyền
kì giai đoạn này và từ đó chỉ ra những cách tân đổi mới của thể loại.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khi nhận đề tài này, chúng tơi đã gặp khá nhiều khó khăn trong việc khảo
sát lịch sử vấn đề, bởi đây là đề tài rộng, mà các nghiên cứu trước đây hầu như là
các bài viết nhỏ, lẻ trên các báo, tạp chí, hoặc vấn đề chỉ được nhắc tới với một


vị thế khá khiêm tốn, là một thành phần nhỏ trong một chỉnh thể tác phẩm
nghiên cứu đồ sộ nào đó.
Ở Việt Nam, trong một thời gian dài, truyện kì ảo thời trung đại (khái
niệm dùng để chỉ chung các loại truyện như u linh, chích qi, truyền kì, chí dị)
với rất nhiều tác phẩm, những tập truyện nổi tiếng như Việt điện u linh tập lục
(Lí Tế Xuyên), Lĩnh Nam chích qi lục (Trần Thế Pháp), Thánh Tơng di
thảo (Lê Thánh Tơng), Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Truyền kì Tân Phả
(Đồn Thị Điểm), Cơng dư tiệp kí (Vũ Phương Đề), Lan Trì kiến văn lục (Vũ
Trinh), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ)… cịn chưa được tập hợp và nghiên
cứu chung theo góc độ thể loại. Trong một vài bộ phận lịch sử văn học hoặc một
vài bài báo, người ta gộp loại truyện này vào bộ phận văn xuôi hoặc tách ra
nghiên cứu một vài tác phẩm tiêu biểu.
Sách giáo khoa nhà trường phổ thông từ đã đưa một vài truyện trong
Truyền kì mạn lục (trước là Người con gái Nam Xương, Chuyện cái chùa
hoang ở Đông Triều, còn sách cải cách hiện nay là Chuyện chức Phán sự ở đền
Tản Viên…) vào chương trình chính thống, giảng dạy trong nhà trường hoặc cho
học sinh đọc thêm, nhưng với tư cách một tác phẩm xuất sắc, một áng “thiên cổ
kì bút”, và được coi là một cái mốc quan trọng của thể loại truyện văn xuôi bằng
chữ Hán của văn học Việt Nam, chứ không gắn với sự phát triển chung của thể
loại.
Việc nghiên cứu truyền kì với tư cách là một thể loại gần đây đã được ý
thức song mới chỉ tiến hành ở bước đầu hoặc chưa hoàn chỉnh. Bước đầu, ở cấp
độ thể loại, nó mới được giới thiệu với tư cách một chuyên đề cho học viên cao
học và nghiên cứu sinh ở một số cơ sở đào tạo sau đại học.

Một điều lạ là trong cuốn 150 thuật ngữ văn học (Lại Nguyên Ân biên
soạn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 6/1999) khơng thấy có sự xuất hiện


của thuật ngữ truyền kì. Cịn trong cuốn Từ điển Văn học Việt Nam – Từ nguồn
gốc đến hết thế kỉ XIX cũng do Lại Nguyên Ân biên soạn và xuất hiện cùng thời
điểm (nhưng do NXB Giáo dục ấn hành) thì truyền kì đã được nhắc tới với tư
cách là “Một thể loại văn xuôi tự sự viết bằng chữ Hán ở văn học trung đại… với
đặc điểm là ln ln có mơtip kì qi, hoang đường lồng trong một cốt truyện
sinh hoạt thế sự hoặc đời tư, thường là truyện tình” [6, 634].
Một điều mừng lớn cho những nhà nghiên cứu và những sinh viên quan
tâm đến truyền kì, là lần đầu tiên đã có một bộ sách tổng hợp về truyền kì trên
phương diện một hiện tượng văn học, đó là Truyện truyền kì Việt Nam của
NXB Giáo dục, phát hành năm 1999, và đối tượng nghiên cứu của luận văn
(truyện truyền kì Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX) có một
chút ở cuối quyển một và phần nhiều trong quyển hai (tập III – tập IV). Đây rõ
ràng là một minh chứng cho sự chú tâm vào thể loại này của giới nghiên cứu. Có
điều, trong đó, các nhà nghiên cứu mới làm công việc biên soạn, dịch và tập hợp
các tác phẩm lại cạnh nhau; trong đó có đưa ra tên và tác phẩm của những tác giả
riêng biệt, cũng như khái quát một vài nét về cuộc đời cũng như nội dung tư
tưởng tác phẩm của họ, chứ chưa đưa ra bức tranh toàn cảnh về thể loại, cũng
như so sánh để chỉ ra những nét tương đồng và cao hơn nữa là tính qui luật chi
phối trong nội dung, nghệ thuật của các tác giả, tác phẩm giai đoạn này.
Như phần trên chúng tôi đã đưa ra, từ trước tới nay, truyện truyền kì thế kỉ
XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX thường được nghiên cứu chung trong dịng chảy của
thể truyền kì hoặc nghiên cứu riêng về một vài tác giả, tác phẩm xuất sắc của nó
(như Vũ Trinh với Lan Trì kiến văn lục, Phạm Đình Hổ với Vũ Trung tùy bút,
Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án đồng tác giả Tang thương ngẫu lục, Trương
Quốc Dụng viết Thối thực kí văn…). Hầu hết các tác giả đều chưa có ý khái
quát hóa và cụ thể hóa đặc điểm của giai đoạn này. Một số nhà nghiên cứu có tên



tuổi trong lĩnh vực này như PGS.TS Nguyễn Đăng Na, PGS.TS Trần Thị Băng
Thanh, PGS.TS Vũ Thanh…
PGS.TS Nguyễn Đăng Na trong nhiều bài nghiên cứu của mình đã nói tới
truyền kì dù ở hình thức hay tên gọi khác (Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung
đại, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997; Tự sự lịch sử trong văn học trung đại
Việt Nam những đặc điểm bước đi khởi đầu, Tạp chí Văn học, số 12/1999; Tiểu
thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại, in trong cuốn “Văn học Việt Nam thế
kỉ X – XIX”, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007…).
PGS. TS Vũ Thanh có thể nói là một người đã dành khá nhiều tâm huyết
cho thể loại này. Các bài viết của ông đăng trên các sách báo, tạp chí đã đi vào
nhiều vấn đề của truyền kì, từ vấn đề chung về thể loại (Thể loại truyện kì ảo
Việt Nam trung đại – Quá trình nảy sinh và phát triển đến đỉnh điểm, Văn học
Việt Nam thế kỉ X – XIX, Trần Ngọc Vương chủ biên, NXB Giáo dục, Hà Nội,
2007), về một giai đoạn (Truyện truyền kì Việt Nam thế kỉ XIX, Dư ba của truyện
truyền kì, chí dị trong văn học Việt Nam hiện đại, in trong cơng trình “Những
vấn đề lí luận và lịch sử văn học”, NXB Khoa học xã Hội, Hà Nội, 2001), về một
đặc điểm thể loại (Những biến đổi của yếu tố kì và thực trong truyện truyền kì
Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 6/1994), đến tác giả (các bài tham luận, bài viết
về Hoàng đế Lê Thánh Tơng, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh… in trong nhiều cơng trình
khác nhau), rồi cả phân tích cụ thể tác phẩm riêng lẻ (Việt Nam kì phùng sự lục
và Ngọc thân huyễn hóa). Những bài viết này của ơng đã gợi mở rất nhiều cho
việc nghiên cứu truyền kì.
Cũng cùng nhóm đề tài này, Bùi Thị Thiên Thai (Luận văn Thạc sĩ Khoa
học Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, 2001) đã
đề cập đến vấn đề khá mới mẻ Truyện kì ảo hiện đại – Dư ba của truyện truyền
kì truyền thống.



Năm 2002, Phạm Thị Ngọc Lan trong khi nghiên cứu về Kí văn xi chữ
Hán thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX (Luận án Tiến sĩ văn học, Hà Nội,
2002) đã tạm xếp những tác phẩm kí của giai đoạn này thành bốn nhóm đề tài
chính, trong đó có một nhóm là kí về chuyện kì “ghi chép những chuyện đồn,
chuyện kì lạ, những giai thoại, truyền thuyết lưu truyền trong dân gian”
[ngọclan-81].
Còn khá nhiều những bài viết, bài nghiên cứu, luận văn viết về những tác
phẩm riêng lẻ, hoặc viết về một đặc điểm (chẳng hạn như hình ảnh người phụ
nữ, yếu tố kì ảo… trong truyện truyền kì) mà chúng tơi khơng thể dẫn ra hết
được. Yếu tố kì ảo trong văn học gần đây cũng được một số nhà nghiên cứu
trong nước quan tâm như PGS.TS Nguyễn Văn Dân, Th.S Lê Nguyên Long…
trong đó có cả các bài nghiên cứu đưa ra những thuật ngữ, những định danh một
cách khoa học, rõ ràng, và cả những bản dịch tư liệu của nước ngoài. Như vậy có
thể thấy, ở thời hiện đại, sự kì ảo trong văn học Việt Nam đã tiếp cận gần hơn
với văn học thế giới. Đồng thời, sự quan tâm của giới nghiên cứu dành cho thể
loại truyền kì đã đến từ nhiều góc độ.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Khi nghiên cứu văn bản tác phẩm, chúng tôi chủ yếu dựa vào hai tập
sách Tổng tập Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam của Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
NXB Thế giới, 1997 và Truyện truyền kì Việt Nam (quyển hai, tập 3+4) do
Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Giáo dục, 1999. Trong đó, những khảo sát vẫn
dựa trên cuốn Truyện truyền kì Việt Nam, bởi những truyện trong cuốn này đã
được tuyển chọn cho đúng với tính chất truyền kì, cịn cuốn kia chỉ mang tính
chất tham khảo, bởi có nhiều truyện khơng cùng thể loại được đề cập trong luận
văn này.


- Do khuôn khổ của luận văn, và đặc biệt là sự hạn chế trong việc thu thập
tài liệu, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu tác phẩm của những tác giả tiêu biểu
trong thời kì này, cụ thể đó là các tác giả Đồn Thị Điểm với Truyền kì Tân

Phả, Vũ Phương Đề với Cơng dư tiệp kí, Vũ Trinh với Lan Trì kiến văn lục,
Phạm Q Thích với Tân truyền kì lục, Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án với
Tang thương ngẫu lục, Phạm Đình Hổ với một vài truyện trong Vũ trung tùy
bút, Trương Quốc Dụng với Thoái thực kí văn. Họ là những tác giả lớn (cả về
số lượng và chất lượng) nên có ảnh hưởng và chi phối văn học truyền kì giai
đoạn này. Cịn những tác phẩm Khuyết danh (chưa rõ tên tác giả như Sơn cư tạp
thuật, Việt Nam kì phùng sự lục…), cũng như những tác phẩm không khẳng
định được thời gian sáng tác (Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập, Tân
đính Lĩnh Nam chích qi…) hay khơng chắc chắn về tác giả (Bích Châu du
tiên mạn kí) thì chúng tơi khơng tính vào kết quả khảo sát chính xác mà chỉ dẫn
ra mang tính chất tham khảo.
Cụ thể, sẽ khảo sát tác giả và số lượng tác phẩm như trong bảng sau đây:

STT

Tập truyện

Tác giả

SL
truyện
khảo
sát

1

Truyền kì tân
phả

Đồn Thị Điểm


3

2

Cơng dư tiệp kí

Vũ Phương Đề

22

3

Lan Trì kiến văn
lục

Vũ Trinh

39

Sách gồm 45 truyện và 4 bài
tựa

4

Tân truyền kì
lục

Phạm Q Thích


1

Sách gồm 1 bài tựa và 3
truyện

5

Tang thương

Phạm Đình Hổ và

15

Sách gồm 2 bài tựa, 1 lời đề

Ghi chú

Sách gồm 6 truyện, 3 truyện
cịn lại khơng chắc của tác
giả


ngẫu lục

Nguyễn Án

hậu và 90 truyện

6


Vũ trung tùy bút

Phạm Đình Hổ

3

Sách gồm 1 lời tự thuật và
89 truyện

7

Thối thực kí
văn

Trương Quốc
Dụng

3

Sách gồm 8 quyển và 1 lời
dẫn

Tổng

7 tập sách

8 tác giả

86
truyện


- Chúng tơi có so sánh, đối chiếu với một vài tác giả và tác phẩm tiêu biểu
của giai đoạn trước (Lê Thánh Tông – Thánh Tông di thảo, Nguyễn Dữ Truyền kì mạn lục…)
- Đồng thời chúng tơi cũng có sự liên hệ với một vài tác phẩm, tác giả của
giai đoạn truyền kì hiện đại, hay cịn được gọi là truyện kì ảo (Ba hồi kinh dị,
Trại Bồ Tùng Linh, Vàng và máu – Thế Lữ, Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya
- Tchia, Cõi âm nơi quán cây dương – Bình Nguyên Lộc…), và văn học kì ảo
nước ngoài (Hoffmann với Rượu ngon của quỉ, Edgar Poe – Con mèo đen, Cù
Hựu – Tiễn đăng tân thoại, Bồ Tùng Linh – Liêu trai chí dị…).
4. Phương pháp nghiên cứu
Cách thức tiến hành của chúng tôi không theo cách đi vào phân tích từng
tác phẩm cụ thể để nhận diện đặc điểm của giai đoạn văn học truyền kì này. Luận
văn chủ yếu tiếp cận vấn đề bằng việc sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên
cứu vừa truyền thống vừa hiện đại để từ đó lí giải, xác lập luận điểm, luận cứ và
rút ra những kết luận cần thiết. Các phương pháp được sử dụng đồng thời gồm:
- Phương pháp tổng hợp nhằm có cái nhìn khái quát
- Phương pháp so sánh, thống kê, phân tích nhằm có cơ sở và cái nhìn cụ
thể


- Phương pháp liên ngành: soi chiếu văn học với văn hóa, lịch sử, xã hội
để có cái nhìn chính xác hơn
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Luận văn là cơng trình đầu tiên đi sâu khảo sát và nghiên cứu truyện
truyền kì Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, đóng góp một
cái nhìn tồn cảnh hơn về truyện truyền kì Việt Nam giai đoạn này.
- Chúng tôi cũng hi vọng bản luận văn này sẽ đưa ra được những luận
điểm, luận cứ mới mẻ trong một đề tài đã quá quen thuộc từ xưa tới nay, đồng
thời cũng có những cách lí giải riêng hợp lí cho luận điểm, luận cứ đó.
- Luận văn góp thêm một tiếng nói khẳng định giá trị và sức sống của một

số tác phẩm tiêu biểu trong văn học nước nhà.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Lời kết, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Phần
nội dung chính của luận văn chia làm ba chương:
Chương 1: Trong dịng chảy truyền kì: Nêu những nét khái quát về văn
học truyền kì của Việt Nam và thế giới; bối cảnh lịch sử và văn hóa, văn học
Việt Nam thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX
Chương 2: Những xu hướng mới trong nội dung phản ánh
Chương 3: Những đổi mới trong nghệ thuật biểu hiện
Do thời gian và phạm vi nghiên cứu có hạn nên luận văn này không thể
giải quyết trọn vẹn và thấu đáo những vấn đề đặt ra cũng như đề cập đến. Chúng
tơi hi vọng sẽ có nhiều hơn nữa những bài viết, những cơng trình nghiên cứu của
các tác giả để tiếp tục tìm hiểu sâu hơn và có những nhận định mới về một giai
đoạn, một thể loại văn học Việt Nam.


PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG 1. TRONG DỊNG CHẢY TRUYỀN

1.1. Phần lí luận: Tình hình phát triển của thể loại truyền kì
trong Văn học Việt Nam và thế giới
1.1.1. Một số thuật ngữ
Thuật ngữ là từ hay cụm từ cố định được dùng trong các chuyên ngành để
biểu thị chính xác các khái niệm và các đối tượng thuộc chuyên ngành. Do yêu
cầu chính xác, thuật ngữ thường được chú trọng trước tiên đến mối quan hệ một
– nối – một, giữa hình thức (vỏ ngữ âm) và nội dung (ý nghĩa chuyên ngành)
(theo Bách khoa toàn thư). Trong nghiên cứu khoa học, điều đầu tiên phải định
danh chính xác tên gọi của đối tượng nghiên cứu.

Nói đến truyền kì là nói đến một loại hình văn xi nghệ thuật đã có từ
thời văn học cổ mà trong đó chứa đựng yếu tố kì. Nhưng không phải ngay từ
những ngày đầu xuất hiện, bản thân thể loại đã được định danh cụ thể và chính
xác như bây giờ. Trong phần này chúng tơi chủ yếu nêu lên một số thuật ngữ gần giống hoặc thường bị nhầm lẫn với truyền kì - nhằm đưa ra những lí giải và
phân biệt chúng – theo quan điểm của mình.
1.1.1.1. Yếu tố kì ảo và văn học kì ảo
Khi nghiên cứu các loại từ điển về thuật ngữ truyền kì, chúng tơi đồng tình
với một số ý kiến nghiên cứu trước đây, rằng: yếu tố không thể thiếu của truyền
kì mà hầu hết các nhà làm từ điển đều quan tâm, đó là yếu tố kì (lạ). Trung Hoa
văn hóa đại từ hải cho rằng: “Vì tình tiết có nhiều kì lạ, thần dị mà có tên ấy”.
Từ điển văn học năm 1984 do Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Từ điển văn
học (từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX) của Nhà xuất bản Giáo dục năm 1999,


mục Truyền kì đều chú ý trước hết đến những “mơtip kì qi, hoang đường” [13,
447 và 6, 635].
Nhưng trên thế giới đến nay vẫn chưa dễ gì có một quan niệm thống nhất
về yếu tố kì ảo và văn học kì ảo.
Về cơ bản, các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau ở chỗ, kì ảo
(fantastic) nghĩa là phải đề cập đến cái không thể xảy ra (impossible), cái siêu
nhiên (supernatural). Tuy nhiên, không phải cứ đề cập đến cái siêu nhiên, cái
khơng thể xảy ra thì là kì ảo. Cần phải phân biệt kì ảo và cái tưởng tượng hư
huyễn thuần túy (fantasy), cái huyền diệu (marvellous)… [25, 1].
Kì ảo có mầm mống xa xưa từ trong văn học dân gian với những truyện cổ
tích, truyền thuyết (đã thoát ra khỏi tư duy thần thoại). Nhưng phải đến cuối thế
kỉ XVIII, cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa duy lí (rationalism), xã hội mới có
đủ điều kiện để tạo ra một lớp nhà văn có ý thức rõ ràng trong việc tạo ra một
hình thái ý thức thẩm mĩ mới là cái kì ảo, và đi cùng với nó là một loại hình văn
học mới: văn học kì ảo.
1.1.1.2. Thuật ngữ “Truyền kì” và thuật ngữ liên quan

Với xác định như thế, có thể coi truyền kì (fantasy) khác với kì ảo
(fantastic). Riêng thuật ngữ truyền kì cũng đã trải qua một chặng đường dài trong
ngót một nghìn năm phát triển của thể loại 3.
Trong các hình thức văn xi tự sự của Việt Nam thời trung cổ, cái tên
truyền kì khơng phải ngay từ đầu đã có. Khoảng cuối thời kì Bắc thuộc và đầu
thời đại tự chủ, những tên sách có liên quan xa gần đến truyện kì ảo cịn lưu dấu
được đến ngày nay như Sử kí (Đỗ Thiện), Báo cực truyện, Giao Châu kí (Triệu

3

Khi chúng tơi viết phần này, đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của PGS.TS. Vũ Thanh, bởi đây là phần nhỏ
nhưng địi hỏi phải có sẵn vốn kiến thức sâu và sự khảo sát tương đối rộng


Cơng), Giao Chỉ kí (Tăng Cơng)…4 đều khơng một tên sách nào xuất hiện thuật
ngữ đó.
Bước sang giai đoạn Lí – Trần, hai cuốn sách đậm đặc yếu tố kì ảo là Việt
điện u linh tập lục (Lí Tế Xuyên) và Lĩnh Nam chích quái liệt truyện (Trần
Thế Pháp) cũng chưa thấy có truyện nào dùng chữ truyền kì để đặt tên, mà dùng
đến hai thuật ngữ khác là u linh và chích qi, có vẻ cịn giàu màu sắc huyền ảo
hơn.
Cuối đời Trần và Hồ, ngồi cuốn Nam Ơng mộng lục của Hồ Nguyên
Trừng, còn vài ba cuốn truyện có chứa yếu tố kì khác như Tăng Đạo thần
thơng, Minh Không thần dị…
Phải đến khoảng cuối thế kỉ XV – đầu thế kỉ XVI lần đầu tiên văn học
Việt Nam được nghe tới thuật ngữ truyền kì trong tập thơ Việt giám vịnh sử thi
tập, trong khi tổng kết sự nghiệp trước tác của nhà văn hóa Vũ Quỳnh, sử gia
kiêm thi gia Đặng Minh Khiêm đã viết:
Việt giám nhất thiên châm khả pháp
Hưu ngơn Chích qi hựu Truyền kì

(Một tập Việt giám thật đáng để làm khn phép
Khỏi cần bàn đến Chích qi với lại Truyền kì)
Theo học giả Nguyễn Huy Khánh thì “chữ Truyền kì có ý mỉa mai, biếm
nhã chứ không như nghĩa chúng ta hiểu ngày nay”, và chính Lỗ Tấn cũng khẳng
định: “Hai chữ Truyền kì bấy giờ thực ra là ngụ ý chê cười chứ không phải như
chúng ta hiểu danh từ Truyền kì ngày nay”.
Chữ Truyền kì ngày nay, theo sách Thuyết văn giải tự giải thích: “Truyền
là chuyển đi” (Truyền giả đệ dã) chức năng ngữ pháp là động từ, còn “kì nghĩa là
4

Đều được dẫn trong Việt điện u linh tập lục


lạ” (kì giả dị), trong quá trình sử dụng, chữ này mang nét nghĩa khác là “ít thấy”,
“biến hóa khó lường”. Như vậy hai chữ Truyền và Kì ghép lại thành một tổ hợp
từ theo kết cấu động tân. Nghĩa của nó là Truyền đi sự lạ.
Tuy nhiên, phải bước hẳn sang mấy thập niên đầu thế kỉ XVI, với Truyền
kì mạn lục của Nguyễn Dữ, lần đầu tiên thuật ngữ truyền kì xuất hiện trong một
tác phẩm của Việt Nam mà nội dung và hình thức của nó đã đáp ứng yêu cầu thể
loại, và từ đó ghi dấu trong văn chương với tư cách một thể loại được định danh
rõ ràng. Trào lưu sáng tác truyện truyền kì từ đây cũng rầm rộ hơn, cho đến tận
giữa thế kỉ XIX và còn lưu dấu trong văn học đương đại ngày nay. Và thuật ngữ
truyền kì cũng được nhiều tác giả sử dụng ngay ở tiêu đề tác phẩm của mình, như
một cách định danh và khẳng định rõ ràng cách thức viết truyện của tác giả bằng
cách sử dụng nguyên vẹn: Truyền kì tân phả (cũng gọi là Tục truyền kì, của
Đồn Thị Điểm), Tân truyền kì lục (Phạm Q Thích), Ngoại truyền kì lục, Bổ
truyền kì (chưa rõ tác giả và thời điểm xuất hiện)… Hoặc chỉ lấy chữ kì của đặc
trưng kiểu truyện đưa vào tên tác phẩm: Bích Câu kì ngộ, Long hổ đấu kì (trong
Truyền kì tân phả), Kì mộng (trong Lan Trì kiến văn lục), Kì sự (trong Vũ
trung tùy bút), Trưng kì (trong Thối thực kí văn)…

Như vậy, để chỉ loại truyện có yếu tố kì ảo, có hai cụm từ đã hiện diện
xuyên suốt từ khi nảy sinh tới quá trình phát triển đạt đến đỉnh cao của thể loại:
“linh – chí – quái” (chiếm lĩnh trước thế kỉ XV), “truyền kì – kì” (từ thế kỉ XV
đến giữa thế kỉ XIX). Trong lịch sử tên gọi của thể loại truyện truyền kì, sau này
sẽ cịn một số cụm từ khác nữa (ví dụ như từ dị mà chúng tơi đề cập tới trong
phần 3.2.2.1 của luận văn, xuất hiện trong văn học kì ảo từ cuối thế kỉ XIX).
Với quá trình phát triển như thế, với những giai đoạn mà tên gọi của thể
loại được định danh rất rõ ràng như thế, hồn tồn khơng có gì băn khoăn khi
dùng thuật ngữ truyền kì đối với truyện kì ảo trong giai đoạn nghiên cứu của luận


văn, nghĩa là cách gọi truyện truyền kì Việt Nam là hồn tồn chính xác khi áp
dụng cho các tác phẩm có yếu tố kì ảo trong văn học Việt Nam giai đoạn từ thế
kỉ XV đến giữa thế kỉ XIX, trong đó tất nhiên có bao gồm các truyện kì ảo Việt
Nam trong giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX – giới hạn nghiên cứu
của luận văn.
1.1.2. Một chặng đường truyền kì
Mục đích của chúng ta là nghiên cứu truyện truyền kì Việt Nam thế kỉ
XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, nhưng không thể chỉ đóng khung việc xem xét nó
trong phạm vi một giai đoạn văn học cụ thể của Việt Nam. Để khơng có cái nhìn
phiến diện, trước hết, luận văn tìm hiểu về truyền kì Trung Hoa – dấu ấn ảnh
hưởng mạnh và rõ rệt nhất tới truyền kì Việt Nam, và truyền kì ở các nước
phương Tây xa xơi – nơi có rất nhiều thành tựu – như một đối tượng để so sánh.
1.1.2.1. Thành tựu truyền kì thế giới
Vốn dĩ, truyện truyền kì trong văn học thế giới chẳng phải là khái niệm xa
lạ, nó đã bắt nguồn từ khá sớm, tiêu biểu và đạt được nhiều thành tựu ở đất nước
Trung Hoa, và các nước phương Tây.
a) Truyền kì ở phương Tây xa xơi:
Ở Phương Tây, xứ sở công nghiệp phát triển sớm, tư duy hiện đại đi liền
với chủ nghĩa duy lí dường như đã đánh bại tư duy huyền thoại ra khỏi đời sống

vật chất cũng như đời sống tinh thần. Vậy mà có một thực tế là trong khi truyện
kì ảo – đáng lẽ phải phù hợp với nền văn hóa phương Đơng huyền bí – thì ở lứa
tuổi khai sinh của nó đã rất khó khăn để được chấp nhận tồn tại và phát triển ở
Việt Nam. Trong khi đó, ở xứ sở văn minh phương Tây, truyện kì ảo đã khơng
cịn là một hiện tượng hiếm hoi, mới lạ. Như một minh chứng cho sức sống của
yếu tố kì ảo, truyện truyền kì đã tồn tại và phát triển mạnh, dù ở bất cứ đâu và
trong hoàn cảnh nào.


Khi tìm hiểu các dạng truyện kì ảo trong văn học trung đại và cận đại
Đông Tây, chúng tôi thấy đã có ý kiến cho rằng truyện kì ảo phương Tây ít nhất
cũng có thể phân loại thành ba dịng không thể đánh đồng với nhau về đặc trưng
nghệ thuật. Một là Dịng truyện cổ thần kì (hay truyện tiên, bao gồm từ các thần
thoại, truyền thuyết, cổ tích thời Hi Lạp, La Mã cổ đại tới các tập truyện dân gian
kì ảo của các nước Trung Á như Ấn Độ, Ả Rập). Đây là dòng truyện bảo lưu
phần tưởng tượng ngây thơ, chất phác trong suốt một thời kì dài của nhân loại;
Hai là Những truyện thơ và văn xi cổ điển trong đó có nhiều mơtip thần kì (với
những tác phẩm tiêu biểu như Odyssee của Homere, Thần khúc của A.Dante…).
Dòng truyện này là nơi dung chứa hỗn hợp các kiểu thức sáng tác và tái hiện
thần kì, tuy vẫn chưa thoát li hẳn mạch cảm hứng nhân bản của dịng truyện cổ
thần kì, nhưng cũng đã báo hiệu một sự rạn nứt của những mơtip kì ảo truyền
thống; Ba là Những tập truyện ma quái xuất hiện vào đầu thế kỉ XIX (của nhà
văn Đức Hoffmann, nhà văn Mĩ Edga Poe…). Nhà văn Đức lãng mạn nổi tiếng
Hoffmann (1776 – 1822) là người đã thực hiện lí tưởng của nhà triết học Fichtơ
trong thi ca. Thế giới nội tâm mà ông sáng tạo là thực tại duy nhất đối với ơng:
“Chỉ tinh thần có khả năng nắm bắt được cái gì xảy ra trong thời gian và khơng
gian”. Ơng sáng tạo một thế giới tưởng tượng, kể lại những gì ơng nhìn thấy
bằng con mắt tinh thần. Hoffmann là người muốn thoát li thế giới trần gian, đến
mức, khi hấp hối, cầm bút trong tay, ông báo tin cho bạn bè là mình đã lành
bệnh. Ơng đã viết những chuyện huyễn hoặc như: Những bức tranh huyễn

tượng theo cách của Calôt (1814), Bức tranh đêm (1817), Anh em Xêrapiơng
(1821)… Đây là một dịng truyện hiện đại, phần lớn là truyện ngắn, thường cách
điệu hóa sự đe dọa của lực lượng siêu tự nhiên đối với con người, nhằm mục
đích đưa ra một lời cảnh báo tích cực.
Ba dịng này có những đặc trưng và tiến trình vận động riêng, nhưng vẫn
có những kế thừa và ảnh hưởng lẫn nhau, song hành phát triển cùng nhau.


b) Truyền kì của Trung Hoa rộng lớn:
Truyền kì là một thể loại văn học cổ vốn vẫn được xem là thành tựu to lớn
của tiểu thuyết cổ Trung Hoa. Ngay từ thời Tiên Tần, từ tiểu thuyết đã được nhắc
đến nhưng chưa được dùng để khái quát cả một thể loại văn học. Thực ra ở
Trung Quốc, truyền kì đã bắt đầu xuất hiện từ thời Ngụy, Tấn, Lục triều (từ thế
kỉ III đến thế kỉ VI), với tiểu thuyết chí quái và chí nhân, tiểu thuyết Trung Quốc
chính thức ra đời nhưng bấy giờ vẫn chưa được coi là thể tài chính thống. Trong
cơng trình lí luận lớn Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp có đề cập đến hai mươi thể
tài văn học nhưng khơng hề có tiểu thuyết.
Đến đời Đường, nhà văn và tác phẩm nhiều thêm, người ta đã coi tiểu
thuyết truyền kì là sản phẩm của triều đại nhà Đường, với sự phồn thịnh chưa
từng có: “Tác phẩm nhiều, tác gia danh tiếng cũng nhiều, hết thảy các thiên
truyện ưu tú nhất hầu như đều sản sinh vào giai đoạn này”. Bùi Hàng đời Đường
đã viết rất nhiều truyện hiệp khách có màu sắc thần bí như Cơn Lơn nơ, Nhiếp
ẩn nương… được xã hội chào đón. Nhà nghiên cứu văn học Ngơ Điều Cơng cho
rằng: "Truyền kì vốn là tên riêng của tập tiểu thuyết của Bùi Hàng đời Đường.
Về sau, người ta gọi chung tiểu thuyết đời Đường là truyền kì". Tiểu thuyết
truyền kì đời Đường đã đánh dấu một bước quan trọng trên con đường phát triển
của tiểu thuyết Trung Quốc. Lúc đầu, trong truyền kì vẫn cịn một số ít truyện
chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chí quái thời Lục Triều (Cổ kính kí, Bạch Viên
truyện, Du tiên quật). Dần dần hơi thở cuộc sống hiện thực đã áp đảo "không khí
ma quỉ", rồi chuyển sang với chuyện tình u giữa tài tử giai nhân (Liễu nghị

truyện, Lí Oa truyện, Oanh Oanh truyện). Thời kì cuối, điểm nổi bật là có nhiều
truyện nói về hào sĩ hiệp khách. Đây cũng là thời kì phồn vinh của tiểu thuyết
truyền kì, có nhiều tác giả với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Trong lịch sử phát triển
tiểu thuyết Trung Quốc, vì thế, giai đoạn này đánh dấu một bước chuyển biến
lớn, từ thô sơ đến tinh vi, hồn mĩ, có vị trí nhất định trong văn học sử.


Nội dung truyện truyền kì Trung Quốc thường đề cập đến những chuyện
lạ lùng, hoang đường, kì quái, nhưng mục đích là phản ánh thế giới trần tục của
con người, quan hệ gia đình, cha con, vợ chồng, anh em, quan hệ tình ái, số phận
người tài sắc... trước những biến động của xã hội phong kiến. Trong quan niệm
của giai cấp thống trị phong kiến, thể loại này luôn mang tư tưởng "nổi loạn" qua
việc phản ánh tính hữu biến của cuộc đời, vĩnh viễn của trật tự phong kiến. Nó
thường mang tư tưởng dân chủ và nhân đạo. Lỗ Tấn – nhà văn hiện thực hàng
đầu Trung Quốc đã nhận xét: Về nội dung thì truyện truyền kì khó phân biệt với
truyện chí qi đời Lục triều, song về nghệ thuật kể chuyện thì đã mới hẳn. Lời
kể uyển chuyển, lời văn hoa mĩ. Truyện chí qi thì chủ yếu là ghi chép (chí),
xếp theo điều mục, cịn truyện truyền kì thì học theo bút pháp sử truyện. Do đó,
nhan đề thường có chữ "truyện". Cái gọi là truyền kì chủ yếu là truyền cái kì
trong tình yêu nam nữ, và cái kì trong thế giới thần linh ma quỉ.
Hơn mười thế kỉ hình thành và phát triển, truyện truyền kì đã để lại những
thành tựu rực rỡ trong kho tàng văn học Trung Quốc và ảnh hưởng lớn đến các
nước phương Đông như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam. Tuy nhiên, điều cần
phải nhấn mạnh trong quá trình ảnh hưởng này đó chính là tham vọng đồng hố
các dân tộc láng giềng của Trung Quốc. Xưng mình là "Hoa Hạ", người Trung
Hoa thời xưa đã tự khoác cho mình một sứ mệnh “khai hố văn minh cho các
dân tộc man di", vì thế, từ thời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh không
đời nào người Hoa không mở chiến dịch bành trướng các dân tộc lân cận với ý
đồ đồng hoá nền giáo dục, văn học, tư tưởng... theo “kiểu Tàu”. Tuy nhiên, với
tính cách, bản lĩnh và sự linh lợi của một dân tộc nhỏ, Hàn Quốc, Việt Nam,

Nhật Bản đã tiếp biến văn hoá Trung Hoa để làm giàu có hơn vốn văn hố của
dân tộc mình.
Những truyện tiêu biểu và có ảnh hưởng nhất của truyền kì cổ Trung Quốc
tới truyền kì Việt Nam như Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, Chẩm trung kí và


×