Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

(Luận văn thạc sĩ) các đảng chính trị ở anh, pháp, mỹ, sự tương đồng và khác biệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 116 trang )

MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Cơng cuộc đổi mới của Việt Nam ngày càng đạt được những kết quả to
lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là về chính
trị. Việt Nam coi đổi mới hệ thống chính trị và đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng là nhiệm vụ quan trọng then chốt, cấp bách. Do vậy nghiên cứu về
đảng chính trị và hoạt động của các đảng phái chính trị trong đời sống chính trị
thế giới là yêu cầu cần thiết đối với nước ta, đối với các ngành khoa học nói
chung và ngành chính trị học nói riêng.
Đảng chính trị ra đời, tồn tại và phát triển đến nay đã hơn 300 năm, xuất
hiện đầu tiên ở nước Anh năm 1678 [39, tr9]. Đảng chính trị đóng góp rất lớn
trong đời sống chính trị các nước Phương Tây. Mục tiêu, lý tưởng và phương
thức hoạt động của đảng chính trị phản ảnh rõ lợi ích, bản chất của giai cấp mà
nó đại diện. Khi đảng chính trị là đảng cầm quyền thì mới có cơ hội để tạo lập
nên bộ máy nhà nước phục vụ các mục tiêu của mình.
Việc nghiên cứu đảng chính trị ở các nước Phương Tây có ý nghĩa khơng
chỉ về mặt lý luận mà về cả thực tiễn. Nghiên cứu cung cấp cho chúng ta những
kinh nghiệm về nguyên tắc lãnh đạo của các đảng chính trị Phương Tây trong
vận động nhân dân và thu hút sự ủng mạnh mẽ của quần chúng trong việc phát
triển kinh tế- xã hội, xây dựng đời sống chính trị- xã hội tiến tới xây dựng một
nước Việt Nam văn minh hiện đại.
Thực tiễn cho thấy, rất cần một đề tài nghiên cứu các đảng chính trị Anh,
Pháp, Mỹ để chúng ta rút ra những bài học về sự thành công cũng như thất bại
của họ, từ đó cơng cuộc đổi mới của Đảng ta tránh được vết xe đổ, vạch ra
đường lối lãnh đạo đất nước sáng suốt và đúng hướng. Chính vì vậy tác giả chọn
đề tài “các đảng chính trị Anh, Pháp, Mỹ - sự tương đồng và khác biệt” làm luận
văn thạc sĩ chính trị học của mình.
1


2. Tình hình nghiên cứu


Nghiên cứu về đảng chính trị trong đời sống chính trị ở các nước phương
Tây hiện đại (cụ thể là Anh, Pháp, Mỹ) là một bộ phận quan trọng của: Ngành
nghiên cứu chính trị quốc tế, ngành khoa học chính trị Việt Nam nói chung và
chun chính trị học nói riêng- đặc biệt là chính trị học so sánh.
Tình hình nghiên cứu ở trong nước: Nghiên cứu về đảng chính trị nói
chung được các học giả tại Viện nghiên cứu châu Âu và Viện kinh tế - chính trị
thế giới Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam) có những bài viết đã đăng
trên tạp chí chun ngành. Tác giả Lưu Văn Quảng có một số cơng trình gồm
sách: Hệ thống bầu cử ở Anh, Mỹ và Pháp- Lý thuyết và hiện thực (NXB Chính
trị Quốc gia, 2008), bài viết Một số vấn đề về hệ thống bầu cử ở Anh hiện nay
(Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 5/2006), Cơ chế thực hiện dân chủ nội bộ của
các đảng cầm quyền ở Vương quốc Anh (Tạp chí Lý luận chính trị, số 2/2014);
và Cơ chế thực hiện dân chủ trong các đảng chính trị ở Mỹ (Qua nghiên cứu
trường hợp đảng Dân chủ và đảng Cộng hịa) (Tạp chí Nghiên cứu châu Mỹ
ngày nay, số 1/2014) … đã nghiên cứu vấn đề đảng chính trị ở các nước Anh,
Pháp và Mỹ tập trung vào một số vấn đề như bầu cử, dân chủ nội bộ, hoạch định
chính sách..v.v.
Bài viết Một số đặc điểm về tổ chức và vận hành hệ thống chính trị Anh Pháp - Mỹ dưới góc độ của chính trị học so sánh của GS.TS Nguyễn Văn
Huyên - Viện chính trị học Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh số 1/2007
đã đề cấp đến vai trị của đảng chính trị Anh, Pháp, Mỹ trong đời sống chính trị,
sự ra đời của chính thể nghị viện, chính thể tổng thống và phương thức kiểm
sốt quyền lực. Bài viết Vai trị của các đảng chính trị Mỹ trong bầu cử của
Thạc sỹ Nguyễn Thị Hạnh - Viện Nghiên cứu Châu Mỹ đã đề cấp đến cách thức
các đảng chính trị Mỹ tiến hành vận động tranh cử trong bầu cử tổng thống,
thống đốc bang và quốc hội.
2


Các bài viết trên mới chỉ đề cập một phần riêng lẻ về đảng chính trị Anh,
Pháp, Mỹ chưa có bài viết nào nghiên cứu một cách hệ thống, bài bản về đảng

phái chính trị Anh, Pháp, Mỹ - sự tương đồng và khác biệt. Cơng trình nghiên
cứu như Hoa Kỳ- Tiến trình văn hóa chính trị của Đỗ Lộc Diệp (chủ biên, Nxb:
KHXH, Hà Nội, 1999) mới chỉ đề cập đến sự biến đổi của văn hóa chính trị Mỹ
nói chung và văn hóa đảng chính trị Mỹ nói riêng. Cuốn sách Thể chế chính trị
thế giới đương đại (chủ biên Dương Xuân Ngọc - Lưu Văn An, Nxb CTQG, Hà
Nội, 2003) có đề cập đến thể chế chính trị Anh, Pháp, Mỹ song không đi sâu
nghiên cứu về đảng chính trị.
Cuốn sách Một số Đảng chính trị trên thế giới (chủ biên Ngơ Đức Tính,
Nxb: CTQG, 2004) chỉ mới đề cập đến các đảng chính trị Anh, Pháp, Mỹ ở góc
độ riêng rẽ trên phạm vi từng quốc gia khơng có sự so sánh đáng kể nào đảng
chính trị ở các nước này. Cuốn sách Thể chế đảng cầm quyền- Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn (Chủ biên TS. Đặng Đình Tân, Nxb: CTQG, Hà Nội, 2006) chỉ
mới đề cập đến các đảng chính trị Mỹ dưới góc độ cơ cấu tổ chức đảng, đảng
với các nhánh quyền lực và các cuộc bầu cử. Cuốn sách Đảng chính trị phương
Tây và Cộng hịa liên bang Đức (chủ biên Lương Văn Kế, 2009) đề cập những
vấn đề lý luận về Đảng chính trị, thể chế chính trị ở một số nước phương Tây.
Cuốn sách Một số vấn đề về các đảng chính trị trên thế giới (chủ biên Tạ Ngọc
Tấn, Nxb: LLCT, Hà Nội, 2012), cuốn sách giới thiệu 20 đảng chính trị tiêu biểu
trên thế giới trong đó có đảng chính trị Anh, Pháp, Mỹ. Cuốn sách giới thiệu sự
hình thành và phát triển của các đảng chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo, kinh
nghiệm tranh quyền và cầm quyền, kinh nghiệm xây dựng và phát triển của các
đảng chính trị, kinh nghiệm điều chỉnh chiến lược, sách lược của các đảng chính
trị hiện nay. Cuốn sách Chính trị so sánh từ tiếp cận hệ thống cấu trúc (chủ
biên: Ngô Huy Đức, Trịnh Thị Xuyến, nxb: CTQG, Hà Nội, 2012) chỉ đề cập về
cấu trúc và thể chế chính trị khơng có sự so sánh giữa các đảng chính trị Anh,
Pháp, Mỹ một cách hệ thống. Cuốn sách Hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ- Mơ
3


hình tổ chức và hoạt động của GS.TS Nguyễn Văn Huyên, Nxb: LLCT, H, 2007

đã có những so sánh nhất định về thể chế chính trị, cách thức hoạt động của các
đảng chính trị Anh, Pháp, Mỹ, khái quát những giá trị phổ quát về hệ thống
chính trị ở các nước này và việc vận dụng vào xây dựng hệ thống chính trị ở
Việt Nam song việc phân tích chủ yếu ở góc độ thể chế chính trị.
Cơng trình nghiên cứu Đảng chính trị của các tác giả nước ngồi được
dịch sang tiếng Việt: Đảng chính trị - Chiến lược và sự quản lý (chủ biên
V.V.Meytus, V.Iu. Meytus, 2010) chủ yếu đề cập đến vấn đề lý luận về đảng
chính trị, xây dựng chiến lược phát triển và duy trì sự tồn tại của Đảng, đề cập
một số vấn đề về cơ cấu tổ chức đảng chính trị ở Mỹ.
Các bài viết trên tạp chí, những cuốn sách và các cơng trình nghiên cứu kể
trên đề cập chưa tồn diện, sâu sắc các nội dung của Đảng chính trị Anh, Pháp,
Mỹ đề cập thiên về các lĩnh vực kinh tế- xã hội hoặc có đề cập thì cũng liên
quan đến góc độ pháp luật và thể chế chính trị, cấu trúc tổ chức đảng riêng lẻ,
hoạt động tranh cử, dân chủ trong nội bộ đảng là chủ yếu, chưa nghiên cứu sâu,
rộng các đảng chính trị Anh, Pháp, Mỹ chỉnh thể, hệ thống gắn với sự so sánh
những điểm tương đồng, khác biệt và những gợi mở cho công tác xây dựng đảng
ở Việt Nam. Có thể khẳng định rằng: những cơng trình nghiên cứu có chiều sâu
và tồn diện về đảng chính trị ở Anh, Pháp, Mỹ những sự giống và khác nhau
trong quá trình tổ chức và hoạt động cịn thật sự hiếm hoi.
Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi: Đảng chính trị ở các nước phương
Tây đặc biệt là Mỹ, Anh, Pháp gắn liền với địa chính trị, lịch sử hình thành đảng
phái chính trị của từng quốc gia nên sự nghiên cứu các đảng phái chính trị ở các
quốc gia phương Tây cũng có sự khác nhau nhất định. Các tác phẩm đề cập đến
các đảng phái chính trị như: Các hệ thống chính trị Đơng Âu và Các hệ thống
chính trị Tây Âu (W. Ismayr chủ biên, 2002-2003); Các chính Đảng Châu Âu
trong hợp tác và hội nhập (chủ biên K.M. Johanson/ P. Zervakí, ed., 2002), hai
tác phẩm này có đề cấp đến các đảng chính trị Anh, Pháp song mới dừng lại ở
4



việc so sánh một số điểm giữa các đảng chính trị ở hai nước Anh, Pháp này. Tác
phẩm Political parties and political development (chủ biên Joseph LaPalombara,
Myron Weiner, 1966) đề cập đến vấn đề lý thuyết đảng chính trị, sự tồn tại và
phát triển. Tác phẩm Nền chính trị Anh trong kỷ nguyên của những người theo
chủ nghĩa tập thể chủ biên Samuel Beer (1966) chủ yếu bàn về sự thay đổi cấu
trúc và tư tưởng trong các đảng phái chính trị ở Anh. Tác phẩm Phân tích hệ
thống đời sống chính trị chủ biên David Easton (1965) bàn về sự đóng góp của
các đảng chính trị vào đời sống xã hội Mỹ. Tác phẩm Sự biển đổi chính trị Anh
chủ biên David Buttler và Donald Stokes (1969), tác phẩm Các đảng phái chính
chủ biên Maurice Duverger (1969), các tác giả bàn về lý thuyết hệ thống đảng
chính trị, văn hóa chính trị và lý thuyết bầu cử.
Khó có thể thống kê và liệt kê đầy đủ các cơng trình nghiên cứu về các
đảng chính trị ở một số nước phương Tây hiện nay. Trong khuôn khổ đề tài này,
chúng tơi chỉ điểm ra một số đề tài có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu nhằm
làm nền tảng lý luận cho nghiên cứu của tác giả. Những cơng trình trên sẽ là
những tài liệu phục vụ đắc lực cho viêc nghiên cứu sâu hơn về góc độ đảng
chính trị ở Anh, Pháp, Mỹ. Từ đó luận văn phân tích điểm giống và khác nhau
giữa các đảng chính trị ở Anh, Pháp, Mỹ, góp phần hồn thiện về mặt lý luận
cho Đảng ta tham khảo và vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
a) Mục tiêu
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt
động của các đảng chính trị ở Anh, Pháp và Mỹ, chỉ ra những nét tương đồng và
khác biệt giữa hệ thống đảng ở ba nước này
b) Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm, đặc trưng, phân loại, chức năng của đảng chính trị ở
Anh, Pháp, Mỹ.
5



- Làm rõ những nét tương đồng và khác biệt giữa các đảng chính trị cầm
quyền Anh, Pháp, Mỹ.
- Khái qt những kinh nghiệm và giá trị có tính phổ biến trong tổ chức
hoạt động và vai trò của các đảng chính trị trong đời sống chính trị ở Anh, Pháp,
Mỹ.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
a) Cơ sở lý luận
Luận văn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng
chính trị, đường lối, chủ trương của Đảng trong nghiên cứu và xây dựng Đảng
làm cơ sở lý luận chủ yếu.
b) Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử, diễn dịch, so sánh, quy nạp và các phương pháp có liên quan khác.
Trong đó làm rõ các vấn đề bằng thủ pháp phân tích sau:
Phương pháp lịch sử - nghiên cứu q trình hình thành và phát triển, tồn
tại của các đảng phái chính trị, những yếu tố bất biến và những yếu tố khả biến.
Phương pháp so sánh - sự giống nhau và khác nhau giữa các đảng chính
trị chỉ được hiểu triệt để và sâu sắc thông qua so sánh ở góc độ đồng đại và lịch
đại là cơ sở tìm ra tính ưu việt của các đảng phái chính trị và vận dụng vào Việt
Nam.
Phương pháp quy nạp - suy luận từ các đảng phái chính trị riêng lẻ ở Anh,
Pháp, Mỹ đi đến cái chung của Đảng chính trị mang tính phổ biến để áp dụng
vào q trình xây dựng và chỉnh đốn đảng ở nước ta.
Phương pháp diễn dịch - suy luận những nguyên tắc, đặc điểm chung của
các đảng phái chính trị để tìm ra sự khác biệt và tính ưu việt giữa các đảng đó.
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các đảng chính trị cầm quyền ở Anh, Pháp, Mỹ.
6



Phạm vi nghiên cứu đảng chính trị cầm quyền ở Anh, Pháp và Mỹ từ
những năm đầu thế kỷ XX đến nay.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Luận văn chỉ ra được những nét tương đồng và khác biệt của các đảng
chính trị cầm quyền ở Anh, Pháp, Mỹ.
- Luận văn chỉ ra một số điểm đặc trưng trong tổ chức và hoạt động của
các đảng chính trị ở Anh, Pháp, Mỹ.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu làm ba chương, năm tiết.

7


Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐẢNG CHÍNH TRỊ Ở ANH, PHÁP, MỸ
Lịch sử chính trị thế giới đã chứng minh đảng chính trị ra đời (cuối thế kỷ
XVII) gắn liền với nhà nước và quần chúng nhân dân cho nên việc nghiên cứu
các đảng chính trị phải đặt trong mối liên hệ gắn bó với nhà nước và quần chúng
nhân dân, từ đó mới làm sáng tỏ vị trí, vai trị tầm quan trọng của đảng chính trị
trong đời sống xã hội.
1.1. Những vấn đề lý luận về đảng chính trị
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng, quyền lực và phân loại đảng chính trị hiện
nay
Trong xã hội dân chủ, Đảng chính trị chi phối, lãnh đạo nhà nước, làm
cho quốc gia ngày càng thịnh vượng hay suy thối. Đảng chính trị tác động
mạnh mẽ đến đời sống chính trị - xã hội của từng quốc gia. Để hiểu những tác
động này, trước hết tác giả nghiên cứu khái quát về đảng chính trị ở các khía
cạnh khái niệm, đặc trưng, quyền lực và phân loại, cụ thể như sau:
1.1.1.1. Khái niệm đảng chính trị
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về Đảng chính trị, để hiểu rõ

đảng chính trị là gì chúng ta cần tìm hiểu một số quan điểm của tác nhà tư tưởng
chính trị thế giới.
Nhà triết học chính trị Xơ viết Anatoli Butenko cho rằng: “Chính đảng là
tổ chức chính trị đồn kết những đại biểu tích cực nhất của một giai cấp xã hội
nhất định (hay một nhóm xã hội) và thể hiện (trong cương lĩnh và các văn kiện
khác) những lợi ích cơ bản của giai cấp đó” [45, tr.19]
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa “Đảng chính trị là tổ chức chính
trị thể hiện những lợi ích của một giai cấp hay tầng lớp xã hội, liên kết những
đại diện ưu tú nhất của giai cấp để lãnh đạo giai cấp đạt tới những mục đích và
lý tưởng nhất định” [35, tr.465]
Nhà khoa học chính trị nổi tiếng người Mỹ là Anthony Downs lại định
nghĩa: “Một đảng chính trị là một đội ngũ, gồm nhiều người, tìm kiếm việc kiểm
8


sốt chính quyền một cách chính danh, thơng qua việc thực hiện một cuộc bầu
cử hợp lệ” [60, tr.25]. Neumann cho rằng đảng chính trị là: “Một tổ chức cơng
khai của các nhà hoạt động chính trị trong xã hội có liên quan đến việc kiểm
sốt quyền lực của nhà nước, những người này cạnh tranh với nhau trong việc
tìm kiếm sự ủng hộ từ một hay nhiều nhóm khác nhau. Thơng thường, đảng
chính trị đóng vai trị trung gian để kết nối giữa các lực lượng trong xã hội với
các hệ thống giá trị từ các định chế nhà nước và liên quan đến đảng chính trị đó
thơng qua các hành động chính trị trong một cộng đồng chính trị rộng hơn” [55,
tr.5]
Theo quan niệm của CN Mác-Lênin: “Đảng chính trị là một tổ chức chính
trị của một giai cấp, đại biểu lợi ích cho giai cấp đó. Đảng chính trị ra đời nhằm
mục đích đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Đảng chính trị
lãnh đạo giai cấp đấu tranh giành chính quyền bằng phương pháp cách mạng và
bạo lực cách mạng” [47, tr.124].
Qua các định nghĩa trên có thể thấy, Đảng chính trị là một liên kết các cá

nhân với một tập hợp chung những người có cùng niềm tin và mục đích chính
trị, chia sẻ mong muốn kiểm soát bộ máy nhà nước bởi các phương thức hợp
hiến. Như vậy, Đảng chính trị là một liên minh chính trị của các nhóm, các phái
cùng chung mục đích đấu tranh giành, giữ quyền lực chính thống của nhà nước
nhằm mang lại lợi ích cho giai cấp, tầng lớp xã hội của mình.
Trong đảng chính trị có nhiều nhóm, phe phái hoạt động với mục đích
khác nhau và chúng chỉ thực sự liên minh với nhau khi đạt đến mục đích chính
trị thống nhất. Đảng chính trị ln mang bản chất giai cấp, trong mỗi giai cấp có
nhiều đảng chính trị khác nhau, khơng có đảng chính trị đứng ngồi giai cấp,
trên giai cấp. Nó vừa là đại diện của giai cấp thống trị vừa lại diện của giai cấp
bị thống trị. Đảng chính trị ra đời bắt đầu từ cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản
chống phong kiến và phát triển mạnh mẽ trong xã hội hiện đại. Đảng sẽ mất ý
nghĩa tồn tại khi sứ mệnh lịch sử của giai cấp đã hoàn thành.
9


Trong xã hội ngày nay, đảng chính trị ra đời từ sự xung đột lợi ích của các
nhóm, tầng lớp xã hội. Những nhà lãnh đạo tập hợp các thành viên tích cực sử
dụng những phương tiện khác nhau đấu tranh giành và giữ lợi ích về cho nhóm,
tiến hành áp đặt quyền lực nhà nước đối với toàn xã hội khi đó đảng phái mang
tính chất của một đảng chính trị. Đảng chính trị ra đời theo hai xu hướng, thứ
nhất với một tư tưởng hay quan điểm chính trị tiên tiến thu hút được phần đông
quần chúng ủng hộ, thứ hai tách ra từ một đảng chính trị đang tồn tại có mục
đích, quan điểm thay đổi với đảng chính trị đang tồn tại sinh ra nó.
Mục đích của đảng chính trị là giành quyền lãnh đạo nhà nước từ một
đảng chính trị cầm quyền hay từ một chế độ quân chủ đã lỗi thời hoặc sử dụng
quyền lực nhà nước mà đảng đó đang nắm giữ để lãnh đạo quốc gia, dân tộc
thực hiện theo đường lối chính trị của mình. Bất kỳ một đảng chính trị nào ra
đời đều có mục đích giành chính quyền nhà nước, nếu đảng nào khơng đặt ra
mục đích giành chính quyền nhà nước thì đảng đó khơng phải đảng chính trị.

V.I.Lênin khẳng định “cuộc đấu tranh của các chính đảng là biểu hiện hoàn
chỉnh, đầy đủ và rõ rệt nhất cuộc đấu tranh chính trị của các giai cấp” [48,
tr.164]. Đảng chính trị chỉ tồn tại trên thực tế khi tham gia cuộc đấu tranh giành
và giữ chính quyền nhà nước của các giai cấp trong xã hội. Đảng của những
người u thích cơng nghệ, u thích cái đẹp, u thích du lịch, yêu thích nhạc
cổ điển, đảng đầu trọc…các đảng phái này đều khơng có mục đích giành và giữ
chính quyền nên khơng được gọi là đảng chính trị. Với những đảng đang nắm
giữ chính quyền trong tay và sử dụng mọi công cụ, phương tiện để ngăn chặn sự
tiếm quyền của đảng khác thì được gọi là đảng chính trị. Mục đích giành và giữ
chính quyền phải được thể hiện trong cưỡng lĩnh, điều lệ hay tôn chỉ hoạt động
của đảng cầm quyền (nắm giữ chính quyền), đảng đối lập (tham gia trong nghị
viện); đảng hợp pháp, công khai hoặc đảng hoạt động khơng hợp pháp, bí mật.
Như vậy, chỉ những đảng được sinh ra với mục đích là đấu tranh giành và giữ
chính quyền nhà nước mới được gọi là đảng chính trị.
10


*Đảng cầm quyền
Đảng cầm quyền là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng
chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ, chi phối, lãnh đạo chính quyền
để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình. Ở các
nước tư bản đều theo chế độ đa đảng, đảng nào giành được đa số ghế cần thiết
trong quốc hội có quyền đứng ra thành lập chính phủ và trở thành đảng cầm
quyền. Khi đó, đảng cầm quyền giữ cương vị lãnh đạo, quyết định phương
hướng hoạt động, chính sách của chính quyền, nắm giữ các chức vụ chủ chốt
nhất của bộ máy nhà nước. Trong trường hợp khơng có đảng nào giành được đa
số cần thiết, đảng có số phiếu cao nhất sẽ liên minh với một hoặc một số đảng
khác để trở thành “liên minh cầm quyền”.
Trong chế độ tổng thống, đảng cầm quyền nắm giữ chức vụ nguyên thủ
quốc gia, điều hành hành pháp, cân bằng quyền lực với nghị viện. Trong chế độ

đại nghị, đảng cầm quyền là đảng chiếm đa số trong nghị viện do đó có quyền
nắm giữ chức vụ thủ tướng và thành lập chính phủ. Trong chế độ tổng thống hay
chế độ đại nghị, các đảng cầm quyền đều có khuynh hướng thống nhất lợi ích
nhóm, khu vực, quốc gia bảo đảm sự điều hịa ở mức độ cao nhất lợi ích của các
tầng lớp, giai cấp trong xã hội không làm cho mâu thuẫn đối kháng giữa các
tầng lớp, giai cấp nổ ra dẫn đến đấu tranh cách mạng. Các đảng cầm quyền đều
muốn mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở mọi tầng lớp, giai cấp nên cố gắng kết hợp
hài hòa giữa những lợi ích của tầng lớp, giai cấp xã hội mà họ đại diện với lợi
ích của các tầng lớp, giai cấp xã hội khác.
Tóm lại, trong phạm vi nghiên cứu, đề tài chủ yếu nghiên cứu phạm vi
hoạt động của các đảng đã, đang và có xu hướng bước lên vũ đài chính trị nắm
chính quyền nhà nước ở các nước Anh, Pháp, Mỹ. Những đảng chính trị khơng
có khả năng giành chính quyền khơng được nghiên cứu trong phạm vi đề tài
này.
11


1.1.1.2. Đặc trưng của đảng chính trị
Đặc trưng của đảng chính trị là một tổ chức chính trị khác biệt so với các
đảng phái xã hội và có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, đảng chính trị được thể hiện ở sự liên kết các công dân. Trong
một nền xã hội dân chủ hầu hết mọi công dân đều có quyền tham gia vào hoạt
động chính trị thơng qua việc bầu cử nghị viện, tổng thống, lãnh tụ đảng với
những mức độ khác nhau: trực tiếp, gián tiếp, cấp độ địa phương hay quốc gia.
Việc tham gia vào đời sống chính trị của cơng dân ngày càng sâu rộng, muốn thể
hiện chí ý, nguyện vọng, lợi ích của mình trong đời sống chính trị, cơng dân
phải cử người đại diện tham gia vào hoạt động lãnh đạo, điều hành chính quyền
nhà nước, để người đại diện có đủ năng lực quản lý điều hành đất nước mang lại
lợi ích và thể hiện đúng nguyện vọng, ý chí của mình, công dân phải tiến hành
lựa chọn, bầu cử các đại biểu ưu tú trong đảng chính trị. Đảng chính trị trở thành

cầu nối giữa công dân với nhà nước. Công dân thơng qua đảng chính trị để thể
hiện nguyện vọng, ý chí của mình, đảng chính trị thơng qua nhà nước để thể
hiện nguyện vọng, ý chí của cơng dân. Nhà nước đáp ứng nguyện vọng, ý chí
trực tiếp của cơng dân (mơ hình chính thể cộng hịa tổng thống) hoặc có thể đáp
ứng giáp tiếp nhu cầu, nguyện vọng của cơng dân thơng qua đảng chính trị (mơ
hình cộng hịa nghị viện hoặc mơ hình hỗn hợp). Việc bầu ra đảng chính trị
giành thắng lợi trong chính quyền khơng thể một số ít cơng dân có khả năng
thực hiện được mà phải là đa số công dân liên kết lại với nhau, dồn phiếu bầu
cho một đảng chính trị. Những đảng phái khác (đảng phái yêu công nghệ, đảng
phái đầu trọc của Nga, đảng phái bóng đá…) khơng có sự liên kết trên phạm vi
rộng lớn tỉnh, khu vực, quốc gia của nhiều cơng dân, chỉ hình thành với một số
lượng ít cơng dân và hoạt động trong một phạm vi hẹp nên khơng gọi là Đảng
chính trị. Như vậy đặc trưng của đảng chính trị được thể hiện ở sự liên kết công
dân ủng hộ, bầu cử cho đảng.
12


Thứ hai, đặc trưng của đảng chính trị là có cơ cấu, tổ chức bộ máy từ
trung ương đến cơ sở. Các đảng phái khác khơng có cơ cấu độ tuổi, dân tộc, tôn
giáo, phụ nữ, vùng miền, không thể thiết lập được tổ chức đảng phái từ trung
ương đến cơ sở. Mỗi quốc gia tổ chức đảng có tên gọi khác nhau song tựu chung
ở địa phương, các ban, ngành, đoàn thể là chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở hay ủy
ban đảng cơ sở, ở cấp trung ương có ban chấp hành trung ương đảng hay ủy ban
đảng trung ương. Tổ chức đảng ở cấp địa phương có sự liên hệ, ràng buộc nhất
định với cấp trung ương, song cũng có sự độc lập tương đối. Mỗi đảng chính trị
ln thể hiện tính cơ cấu trong bộ máy của mình để bảo đảm sự kế thừa liên tục,
sự bình đẳng trong cơ cấu giới, sự đồng thuận đồn kết các dân tộc, tơn giáo và
các vùng miền. Đặc trưng này giúp đảng chính trị phát triển bền vững tạo sức
mạnh tập thể lớn trong hoạt động tranh cử.
Thứ ba, đặc trưng của đảng chính trị là có bộ máy chun trách, bộ máy

này là cơng cụ hình thành những chủ trương chính sách cho đảng. Các đảng phái
khác- đảng phi chính trị có thể lập ra bộ phận chuyên trách để đề xuất các chủ
trương, chính sách, nguyên tắc, quy định, cơ chế và duy trì hoạt động, mang lại
lợi ích cho các thành viên của mình, bộ phận chuyên trách này có chức năng
soạn thảo, đề xuất các chủ trương, chính sách để đảng phi chính trị lãnh đạo,
điều hành nhà nước, mang lại lợi ích cho đa số quần chúng nhân dân. Mỗi đảng
chính trị ln phải có cơ quan chun mơn, chun trách thực hiện việc soạn
thảo các chủ trương chính sách của mình. Cơ quan này muốn đề xuất chủ
trương, chính sách sát thực tế, có tính khả thi cao thì phải dựa vào những thành
tựu, hạn chế yếu kém trong hoạt động lãnh đạo của đảng đối với chính quyền
nhà nước và xã hội. Những chủ trương chính sách soạn thảo được quần chúng
đồng tình ủng hộ thì chủ trương chính sách đó mới có tính khả thi và áp dụng
rộng rãi trên phạm vi tồn lãnh thổ thơng qua hoạt động thực thi quyền lực của
nhà nước.
13


Thứ tư, đặc trưng của đảng chính trị là xây dựng niềm tin chính trị, ý thức
chính trị bền vững trong nhân dân. Các đảng phái khác chỉ có thể xây dựng lịng
tin cho các thành viên của mình, khơng thể tác động hình thành ý thức chính trị,
mang lại niềm tin và lợi ích cho đơng đảo nhân đân. Để ý thức chính trị của
đảng tồn tại trong đời sống nhân dân thì đảng chính trị phải tác động lâu dài, từ
từ, từng bước vào tình cảm, thái độ, tư tưởng của công dân. Với quan điểm
“mưa dầm thấm lâu” q trình đưa ý thức chính trị giai cấp vào đời sống xã hội
không thể diễn ra ngày một ngày hai, đảng chính trị phải xây dựng chương trình,
nghị quyết, kế hoạch thực hiện trong ngắn hạn, dài hạn với nhiều cách thức
tuyên truyền khác nhau, sử dụng đội ngũ đảng viên của mình là cầu nối để đưa
quan điểm, tư tưởng chính trị thấm sâu vào đời sống nhân dân, từ đó xác lập tình
cảm chính trị, thái độ chính trị, niềm tin chính trị trong đời sống nhân dân.
Thứ năm, đặc trưng của đảng chính trị là hoạt động bầu cử vào nghị viện,

tranh cử chức vụ người đứng đầu nhà nước và có đại diện trong nghị viện, chính
phủ. Các đảng phái khác có thể có hoạt động bầu cử trong nội bộ nhằm duy trì
sự phát triển của tổ chức song không liên quan đến hoạt động tranh cử vào nghị
viện, người đứng đầu nhà nước. Chỉ những đảng tham gia hoạt động tranh cử
vào nghị viện và chức vụ người đứng đầu nhà nước với mục đích giành chính
quyền hay giữ vững sự cầm quyền mới được coi là đảng chính trị. Các đảng phái
khác - đảng phi chính trị khơng có mục tiêu giành, giữ chính quyền nên khơng
nhất thiết có đại diện trong nghị viện. Ở các nước tư bản chủ nghĩa đều có nghị
viện, thường là lưỡng viện gồm hạ viện và thượng viện. Để nắm quyền lực nhà
nước, các quyết sách của mình đưa ra đều được thơng qua thì đảng chính trị phải
chiếm đa số trong hạ viện. Bởi vậy, đảng chính trị kiểm sốt được hạ viện tức là
kiểm soát được quyền lực nhà nước. Đối với thượng viện các đảng chính trị
khơng giành ưu thế ở đây vì thượng viện được bầu theo số lượng đại cử tri hoặc
được phân bổ theo các bang, khu vực hoặc đại biểu đương nhiên, thời gian phục
vụ trong thượng viện dài nên sự phân chia đảng phái trong thượng nghị viện gần
14


như khơng đáng kể. Chỉ khi các đảng chính trị không hội đủ số phiếu để thông
qua các quyết sách lớn thì sự ủng hộ của các thượng nghị sỹ trong thượng viện
mới là yếu tố quan trọng. Như vậy, đảng chính trị nào có đa số đại biểu trong
lưỡng viện thì sẽ dành ưu thế trong kiểm sốt quyền lực nhà nước.
Thứ sáu, đặc trưng của đảng chính trị là phải gắn trách nhiệm của đảng
đối với đời sống xã hội. Lê nin đã chỉ rõ: “cuộc đấu tranh chính trị cơng khai
buộc các đảng phải liên hệ chặt hơn nữa với quần chúng vì khơng có những mối
liên hệ đó thì các đảng chẳng cịn có giá trị gì nữa” [51, tr.431]. Các đảng phái
khác- đảng phi chính trị không thực hiện được trách nhiệm đối với đời sống xã
hội mà chỉ thể hiện vai trò trách nhiệm đối với các thành viên của mình. Theo tư
tưởng của Nguyễn Trãi: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” nên
vai trò của quần chúng nhân dân trong thực thi các quyết sách của đảng chính trị

là rất quan trọng. Nếu quyết sách được lịng dân thì nhân dân sẽ ủng hộ và thực
hiện, ngược lại nếu quyết sách khơng mang lại lợi ích cho nhân dân thì quyết
sách đó khơng được thực thi triệt để, thậm chí còn phản tác dụng, mất sự ủng hộ
của nhân dân thì đảng sẽ mất vai trị nghị viện. Đảng chính trị đề xuất các quyết
sách phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng của đa số nhân dân, thể hiện trách
nhiệm đối với xã hội và nhân dân. Đảng chính trị xây dựng và thúc đẩy thực
hiện cương lĩnh tranh cử đã hứa trước cử tri. Khi tiến hành vận động tranh cử
đảng đều đưa ra cương lĩnh, chủ trương, chính sách thể hiện ý chí, ứng nguyện
vọng của cử tri. Khi giành thắng lợi đảng phải thực hiện lời hứa đó thơng qua
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành nhà nước cụ thể hóa cương lĩnh, chủ trương, chính
sách thành các nội dung, chỉ tiêu, nhiệm vụ và thực hiện thắng lợi các mục tiêu
đó.
Thứ bảy, đặc trưng của đảng chính trị là có những con người chính trị ưu
tú được đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, giới thiệu, tranh cử nắm giữ các vị trí chủ
chốt trong bộ máy nhà nước thông qua bầu cử. Các đảng phái khác cũng có
những cá nhân xuất sắc về chun mơn song không tham gia vào hoạt động
15


tranh cử các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Trong đảng chính trị có
các phe phái chính trị, mỗi phe phái chính trị gồm những đảng viên có lợi ích
riêng theo nhóm được hình thành xung quanh một cá nhân lãnh tụ. Các phe phái
hoạt động theo hai hướng công khai và không công khai. Các phái chính trị hoạt
động cơng khai có chiến lược rõ ràng cụ thể và thường lựa chọn, đưa ra ứng cử
viên của mình để ứng cử chức vụ chủ chốt của đảng như chủ tịch đảng hay lãnh
đạo đảng, chẳng hạn như phe phái chính trị của ơng Barac Obama với phe phái
chính trị của bà Hallary Clinton tranh cử chức vụ lãnh đạo đảng là cơ sở để ứng
cử Tổng thống Mỹ năm 2008. Các phe phái chính trị hoạt động không công khai
thường ủng hộ ngầm một cá nhân lãnh tụ. Cá nhân lãnh tụ này thắng cử sẽ mang
lại địa vị xã hội cho các thành viên ủng hộ, do hoạt động ngầm nên phái chính

trị này khơng có cấu trúc chặt chẽ, dễ thay đổi khi cá nhân lãnh tụ không thể
hiện được năng lực và uy quyền, tín nhiệm của đại đa số nhân dân. Khi các phe
phái chính trị đã lựa chọn được ứng cử viên thì tồn đảng sẽ lựa chọn ứng cử
viên tiêu biểu từ các phe phái. Việc lựa chọn này thường diễn ra trước các kỳ
bầu cử nghị viện, tổng thống. Khi đảng chính trị đã lựa chọn đủ những ứng cử
viên vào các vị trí chủ chốt của chính quyền nhà nước thì đảng chính trị sẽ tiến
hành vận động tranh cử. Việc lựa chọn ứng cử viên ưu tú quyết định lớn đến kết
quả dành thắng lợi trong bầu cử của đảng chính trị. Đảng chính trị ln quan
tâm chặt chẽ, tỷ mỷ và kỹ càng đến khâu lựa chọn những ứng cử viên ưu tú tham
gia tranh cử vào bộ máy nhà nước. Để có những con người chính trị ưu tú đảng
chú trọng cơng tác đào tạo, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Đào tạo con người
chính trị làm một công việc rất quan trọng đối với đảng chính trị. Đề cập điều
này Lê - nin viết: “Chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu
nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị,
những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [467,
tr.473]. Trong thực tế đánh giá một đảng chính trị mạnh hay yếu đều thơng qua
cá nhân lãnh tụ của đảng. Con người chính trị làm tốt nhiệm vụ, chức trách của
16


mình trong bộ máy chính quyền nhà nước thì đảng chính trị được quần chúng
nhân dân tín nhiệm, ủng hộ và ngược lại. Do vậy đảng chính trị phải quan tâm,
chăm lo xây dựng con người chính trị có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng tốt các
tiêu chí của cuộc vận động tranh cử, trong thời gian đảng cầm quyền cũng như
đảng thực hiện vai trò đối lập.
1.1.1.3. Phân loại đảng chính trị
Phân loại đảng chính trị dựa theo các tiêu chí khác nhau: Nếu dựa vào
chức năng và ảnh hưởng của đảng trong chính quyền nhà nước có đảng cầm
quyền, đảng đối lập. Đảng cầm quyền nắm giữ, điều hành chính quyền nhằm
mang lại lợi ích cho giai cấp mình. Ở các nước tư bản, đảng giành được đa số

ghế cần thiết trong quốc hội, có quyền thành lập chính phủ và trở thành đảng
cầm quyền. Khi đó, đảng cầm quyền giữ cương vị lãnh đạo, quyết định phần lớn
phương hướng hoạt động, chính sách của chính quyền, nắm giữ các chức vụ chủ
chốt nhất của bộ máy chính quyền nhà nước. Đảng cầm quyền sử dụng sức
mạnh, các phương tiện vật chất đã được cụ thể hóa bằng các thiết chế hóa nhà
nước để đạt mục tiêu của đảng mình. Mỗi đảng cầm quyền có phương pháp,
cách thức tổ chức quyền lực khác nhau tùy thuộc vào quan điểm chính trị, tương
quan lực lượng giữa các đảng phái trong hệ thống chính quyền, tình hình kinh tế
- xã hội của đất nước và nhân tố con người của đảng. Đảng cầm quyền có thể là
một đảng hoặc liên minh các đảng với nguyên tắc nắm giữ 50% số ghế trong
nghị viện trở lên (mơ hình cộng hịa nghị viện và mơ hình cộng hịa nghị việntổng thống). Đảng đối lập là đảng có số lượng ghế lớn thứ hai trong nghị viện.
Đảng đối lập không được quyền thành lập chính phủ, thực hiện giám sát, phê
phán hoạt động của chính phủ, đảng cầm quyền để bảo đảm tính minh bạch,
hiệu quả trong thực thi quyền lực, ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực nhà nước
của đảng cầm quyền, thực hiện chức năng dân chủ bảo vệ nhân quyền, quyền tự
do của quần chúng nhân dân. Đảng đối lập khơng phải tìm cách ngăn cản một
cách vơ nghĩa sự hoạt động của chính phủ mà nỗ lực khuyến khích chính phủ cải
17


thiện đời sống xã hội vì lợi ích chung của đất nước. Ở những nước theo mơ hình
Anh, đảng đối lập thành lập “Nội các bóng” sẵn sàng thay thế chính phủ đương
nhiệm khi khơng cịn được nghị viện tín nhiệm.
Đảng chính trị dựa vào hệ tư tưởng của đảng có: đảng mác-xít, đảng phi
mác- xít. Đảng mác- xít là những đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lê nin làm nền tảng
tư tưởng, đại diện cho giai cấp công nhân, quần chúng nhân dân lao động đấu
tranh nhằm mục tiêu giải phóng con người, giải phóng giai cấp xây dựng xã hội
làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Đảng mác - xít thực hiện đấu tranh
chính trị, đấu tranh vũ trang bằng con đường bạo lực cách mạng xóa bỏ chế độ
tư bản chủ nghĩa xây dựng CNXH, chủ nghĩa cộng sản và xóa bỏ giai cấp, nhà

nước. Đảng phi mác-xít là những đảng lấy tư tưởng tư sản làm nền tảng với mục
đích xây dựng nhà nước tư bản phục vụ lợi ích giai cấp tư sản. Đảng phi mácxít ngăn chặn sự phát triển mạnh mẽ, rộng lớn của CNXH, bóc lột sức lao động
của cơng nhân, bần cùng hóa giai cấp lao động tạo hố sâu chênh lệch giàu
nghèo. Đảng phi mác- xít chủ trương thúc đẩy tự do cạnh trạnh, xây dựng nhà
nước với chức năng trấn áp và điều hịa xã hội trong khn khổ của mình.
Dựa vào phương thức tham dự vào chính quyền có đảng hợp hiến và đảng
khơng hợp hiến (trọng tâm là đảng cách mạng). Đảng hợp hiến là đảng thừa
nhận hiến pháp và chế độ chính trị hiện hành, thừa nhận quyền lợi của các chính
đảng khác, tơn trọng quy chế bầu cử, pháp luật và giành quyền lực nhà nước
thông qua bầu cử. Trong xã hội tư bản, các đảng chính trị mang hệ tư tưởng tư
sản, phấn đấu xây dựng xã hội tư bản đều là những đảng hợp hiến, những đảng
chính trị mang tư tưởng cộng sản mà lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin làm nền tảng
thì phần lớn được coi là khơng hợp hiến, một số nước cơng nhận là đảng hợp
hiến thì cũng khơng có khả năng tranh cử trong nghị viện như ở Mỹ. PCF cơng
nhận hợp hiến và có ghế trong nghị viên nhưng về bản chất của đảng đã thay đổi
không còn lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin làm nền tảng cho tư tưởng đấu tranh cách
mạng. Đảng không hợp hiến phản đối hiến pháp và chế độ chính trị hiện hành,
18


có mưu đồ lật đổ chính quyền nhà nước bằng cách mạng; sau khi giành chính
quyền sẽ thay đổi chế độ chính trị. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, những đảng
chính trị lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin, chủ nghĩa dân tộc, dân chủ làm nền tảng
được coi là hợp hiến, những đảng chính trị theo hệ tư tưởng khác đều không hợp
hiến, riêng trường hợp của quốc gia Trung Hoa vẫn tồn tại các đảng chính trị
theo hệ tư tưởng tư sản. Điều này xuất phát từ lịch sử nhà nước Trung Hoa do có
những vùng đất đòi ly khai như Đài Loan, vùng đất bị chiếm đóng và đã trao trả
như Ma Cao, Hồng Cơng nên chưa thể thống nhất theo sự lãnh đạo của một
đảng.
Dựa vào thái độ chính trị có đảng cánh tả, đảng cánh hữu. Đảng cánh tả là

đảng đề xướng cải cách xã hội, đề cao tự do, ủng hộ sự công bằng, bình đẳng,
hữu ái, quyền lợi, tiến bộ và chủ nghĩa quốc tế, nhấn mạnh trách nhiệm của nhà
nước đối với toàn bộ kinh tế xã hội và hướng tới xây dựng xã hội tốt đẹp ở
tương lai, ủng hộ xu thế hoà hiếu trong quan hệ quốc tế. Đảng cánh hữu là đảng
đề xướng duy trì trật tự hiện hữu, chủ trương uy quyền, đẳng cấp, trách nhiệm,
duy trì các giá trị truyền thống, dân tộc chủ nghĩa và coi trọng giá trị tôn giáo.
Đảng cánh hữu chủ trương tự do kinh tế tư nhân, không cần sự can thiệp của nhà
nước vào kinh tế thị trường để thị trường tự điều tiết, bảo vệ lợi ích dân tộc,
quốc gia. Trong xã hội hiện đại, việc phân biệt rạch rịi đảng cánh tả và đảng
cánh hữu khơng cịn được đề cao, có thể một đảng cánh tả liên minh với một
đảng cánh hữu để nắm chính quyền “Đảng Xã hội dân chủ Đức liên minh Đảng
dân chủ Thiên chúa giáo giai đoạn 2005 - 2009 để thiết lập một chính phủ liên
minh” [13]. Ở Anh, Cơng Đảng là lực lượng đại diện chủ yếu của đảng cánh tả,
Đảng Bảo thủ là lực lượng chủ yếu đại diện cho đảng cánh hữu. Ở Pháp Đảng
Xã hội và Đảng Cộng sản là đại diện chủ yếu của đảng cánh tả, Liên minh vì
nền Cộng hồ là đại diện chủ yếu đảng cánh hữu.
Dựa vào chế độ chính trị xã hội thì có đơn đảng hay đa đảng. Đơn đảng là
trong quốc gia chỉ có duy nhất một đảng được phép hoạt động, nằm trong quy
19


định của hiến pháp và sự ủng hộ của nhân dân. Các đảng chính trị khác khơng
được quy định trong hiến pháp nên khơng được phép hoạt động nếu có hoạt
động đều trái hiến pháp, pháp luật như Lào, Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên. Trong
các nước tư bản chủ nghĩa như Anh, Pháp, Mỹ thì khơng có hệ thống đơn đảng.
Đa đảng là trong quốc gia có từ hai đảng trở lên. Đa đảng gồm có đa đảng hình
thức và đa đảng thực tế. Với mơ hình đa đảng hình thức: Trong một số quốc gia
có nhiều đảng chính trị hoạt động song nó chỉ mang ý nghĩa hình thức, việc hoạt
động trên thực tế của các đảng này rất mờ nhạt không được sự ủng hộ của quần
chúng nên ít có khả năng giành được thắng lợi trong các lần bầu cử nghị viện. Ở

đây, thực chất chỉ tồn tại hai đảng thay nhau nắm chính quyền điều hành nhà
nước và xã hội, điển hình như là Đảng dân chủ và Đảng cộng hòa (Mỹ); Đảng
bảo thủ và Công đảng (Anh). Hệ thống hai đảng cho phép đảng đối lập có vai trị
lớn hơn. Đảng đối lập hình thành với tư cách là người kiểm tra, kiểm soát hoạt
động của đảng cầm quyền, buộc đảng cầm quyền phải có trách nhiệm cao hơn
với hoạt động lãnh đạo, điều hành đất nước của mình. Với mơ hình đa đảng thực
tế tức là các đảng chính trị tồn tại và hoạt động độc lập, cạnh tranh nhau quyết
liệt, mỗi đảng chính trị có tư tưởng, quan điểm riêng. Đa đảng thực tế đại diện
cho các nhóm xã hội, tầng lớp, giai cấp khác nhau nên khi bầu cử nghị viện sẽ
khơng có đảng chính trị nào giành được đa số phiếu bầu tuyệt đối nên khó có thể
thành lập chính phủ. Hệ thống đa đảng được cử tri ủng hộ vì cho phép cử tri tự
do lựa chọn những đảng có quan điểm chính trị phù hợp với lợi ích và nguyện
vọng của mình. Nhưng càng nhiều đảng thực tế thì càng nhiều quan điểm chính
trị khác nhau và việc dung hịa các quan điểm đó là khơng thể đạt được như kỳ
vọng, càng nhiều đảng thực tế thì sẽ khó khăn cho cử tri trong việc nên lựa chọn
ủng hộ chính đảng nào. Như vậy, hệ thống đơn đảng, lưỡng đảng, đa đang đều
có những ưu điểm và khuyết điểm.
Phân loại đảng dựa theo các tiêu chí trên để thấy rằng đảng chính trị ở
từng góc độ, khía cạnh, lĩnh vực đều có những điểm ưu việt và hạn chế nhất
20


định. Việc áp dụng mơ hình đơn đảng, đa đảng phải dựa vào nhiều nhân tố,
trong đó nhân tố lịch sử, văn hóa, sự ủng hộ của quần chúng, xu hướng phát
triển hình thái xã hội của thời đại là nhân tố quan trọng quyết định quốc gia nên
chọn mô hình nào là phù hợp. Sự lựa chọn chế độ chính trị của mỗi quốc gia dân
tộc tránh áp dụng máy móc mơ hình đảng chính trị của nước này vào nước khác
ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của quốc gia, dân tộc mình.
1.1.2. Chức năng của đảng chính trị hiện nay
Dựa trên vai trị là lực lượng lãnh đạo nhà nước, đảng chính trị được cụ

thể hóa thành các chức năng sau:
Một là, đề ra cương lĩnh, chỉ rõ mục tiêu phương hướng chính trị và các
biện pháp chủ yếu nhằm đạt được mục tiêu đó. Cương lĩnh chính trị được đề ra
nhằm chủ yếu vào việc định hướng hoạt động của nhà nước (khi đảng cầm
quyền). Cương lĩnh chính trị cịn là ngọn cờ đồn kết thống nhất đảng viên của
đảng, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân- nhân tố
quyết định sinh mệnh chính trị, sự tồn tại và phát triển của đảng. Cương lĩnh
chính trị sát với thực tế và lợi ích, nguyện vọng của quần chúng thì được ủng hộ
và bầu cử để đảng chính trị giành thắng lợi trong nghị viện, chức vụ người đứng
đầu nhà nước. Lê nin: “...Đảng sẽ càng có khả năng tiến hành tốt đẹp các hành
động quần chúng, nếu đảng biết làm cho các khẩu hiệu chiến đấu của mình thích
nghi tốt hơn với tình hình thực tế, biết nghiên cứu hết sức tỷ mỷ tình hình đó,
thực hiện được tới mức tối đa sự nhất trí và kỷ luật trong các hành động đó...”
[51, tr.118]. Ngược lại, cương lĩnh chính trị khơng lấy lợi ích của đơng đảo quần
chúng nhân dân phục vụ, chỉ phục vụ lợi ích của một bộ phận, một tầng lớp nhất
định thì đảng chính trị không thể giành đa số ghế trong nghị viện và chức vụ
người đứng đầu nhà nước. Như vậy, đảng đề ra cương lĩnh chính trị sát thực tế,
hợp lịng dân là cơ sở để thu hút và tập hợp quần chúng theo đảng.
Hai là, đại diện ý chí, lợi ích cơ bản cho nhóm người, tầng lớp, giai cấp
nhất định. Lê nin cho rằng không thể thay đổi bản chất của đảng khi đang đại
21


diện cho giai cấp này chuyển sang đại diện cho giai cấp khác: “Đồn đại biểu
Mơng Cổ hỏi: Đảng nhân dân cách mạng liệu có nên trở thành đảng cộng sản
được không? Lê-nin trả lời: Tôi không khuyên làm việc đó bởi vì một đảng trở
thành một đảng khác là không thể được. Đảng mang bản chất của giai cấp.
Những người làm nghề chăn nuôi sẽ tạo nên quần chúng vô sản là những người
về sau sẽ giúp đảng nhân dân cách mạng “trở thành” đảng cộng sản. Sự thay đổi
chiêu bài một cách giản đơn là có hại và nguy hiểm” [51, tr.288]. Trong xã hội

tư sản, đảng thể hiện vai trò người đại diện khi tham gia hoạt động tranh cử và
giành thắng lợi trong cuộc bầu cử đó. Đảng là cầu nối giữa quần chúng với nhà
nước, thơng qua nhà nước đảng thể hiện ý chí, nguyện vọng, lợi ích của quần
chúng. Khi nhà nước khơng thực hiện ý chí, nguyện vọng, lợi ích quần chúng,
họ sẽ đấu tranh địi quyền lợi thơng qua đảng chính trị. Đảng chính trị khơng đáp
ứng u cầu, địi hỏi, lợi ích của quần chúng thì họ sẽ ủng hộ đảng chính trị
khác. Do vậy đảng chính trị ln ln gắn với quần chúng và tìm biện pháp để
đáp ứng yêu cầu, lợi ích của quần chúng đã bầu cho đảng.
Ba là, hoạt động giành và giữ chính quyền. Trong xã hội tư bản, sự tồn tại
của đảng chính trị ln gắn với đấu tranh giành quyền lực, trở thành đảng cầm
quyền, thành lập nhà nước, áp đặt tư tưởng, thống trị tồn xã hội. Đảng chính trị
sử dụng các phương tiện vật chất, tinh thần, đấu tranh vũ trang hoặc phi vũ trang
giành quyền kiểm soát nhà nước từ đảng cầm quyền hoặc từ giai cấp phong kiến
đã lỗi thời. Muốn trở thành đảng cầm quyền, đảng chính trị phải đề ra chủ
trương, đường lối, quan điểm chính trị, xây dựng “ý chí chung” cho quần chúng,
đề ra cách thức tuyên truyền vận động quần chúng. Đảng chính trị thống nhất ý
chí và hành động, tổ chức quần chúng giành chính quyền về tay mình. Hình thức
quyền lực nhà nước tư sản tồn tại ở ba loại chính thể nghị viện, chính thể tổng
thống và chính thể hỗn hợp giữa nghị viện và tổng thống. Ở mỗi chính thể này
tùy theo số lượng đảng chính trị tham gia nghị viện để chia thành lưỡng đảng
hay đa đảng. Dù hệ thống lưỡng đảng hay đa đảng việc tranh giành quyền lực
22


nhà nước vẫn là sử dụng phương pháp đấu tranh chính trị nghị trường thơng qua
bầu cử, khơng sử dụng phương pháp bạo lực cách mạng. Chức năng giành và
giữ chính quyền ln tồn tại trong mỗi đảng chính trị, đảng nào xa rời chức năng
đó thì khơng cịn ngun nghĩa là đảng chính trị. Các đảng chính trị khi đã vị thế
đảng cầm quyền thì khơng có ý định từ bỏ quyền lực hay chuyển giao quyền lực
cho các đảng chính trị khác, nên các đảng cầm quyền sẽ ra sức củng cố vị thế

của mình bằng cách đáp ứng tốt hơn lợi ích giai cấp, hài hịa lợi ích các tầng lớp
giai cấp khác, xây dựng bộ máy chính quyền vững chắc hơn, đề xuất chủ trương,
đường lối, chính sách được đa số quần chúng ủng hộ hơn… Đó là cơ sở để củng
cố vững chắc vị thế cầm quyền của các chính đảng.
Bốn là, giám sát hoạt động của đảng cầm quyền. Đảng chính trị có số
lượng phiếu bầu đứng thứ hai sau đảng cầm quyền đương nhiên trở thành đảng
đối lập. Nhiệm vụ của đảng đối lập là giám sát hoạt động của đảng cầm quyền
trên hầu hết các lĩnh vực, song chủ yếu trên những lĩnh vực quan trọng sau: Thứ
nhất, giám sát việc thực hiện cương lĩnh tranh cử như đã hứa trước cử tri. Thứ
hai, giám sát việc thực thi hiến pháp khi đảng cầm quyền đưa ra các quyết định,
chính sách vượt quá quy định của hiến pháp, lợi dụng thời gian cầm quyền bổ
sung, thay đổi, điều chỉnh hiến pháp có lợi cho hoạt động cầm quyền của mình.
Thứ ba, giám sát tham nhũng, lãng phí của các thành viên đảng cầm quyền. Thứ
tư, giám sát các quyết định về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại có
ảnh hưởng đe dọa đến hịa bình, lợi ích quốc gia. Đảng đối lập lợi dụng những
hạn chế khuyết điểm trong lãnh đạo, điều hành nhà nước của đảng cầm quyền để
phê bình, chỉ trích và lật đổ khi thời cơ đến.
Ngồi ra, cịn một số chức năng khác như: nhận diện và kết nối lợi ích,
thơng tin, giáo dục; tuyển lựa cung ứng nhân sự cho các vị trí quyền lực nhà
nước…

23


1.2. Những vấn đề về đảng chính trị ở Anh, Pháp, Mỹ
Các quốc gia Anh, Pháp, Mỹ là những nước có nền kinh tế phát triển ở
tốp đầu thế giới. Sự phát triển này gắn liền với nhân tố đảng chính trị. Ở mỗi
quốc gia Anh, Pháp, Mỹ mang đặc trưng điển hình cho những mơ hình nhà
nước: Mơ hình đại nghị, mơ hình tổng thống và mơ hình hỗn hợp. Vì vậy,
nghiên cứu các đảng chính trị ở ba mơ hình nhà nước khác nhau sẽ giúp độc giả

có cái nhìn tồn diện, đầy đủ hơn về sự tồn tại, phát triển và những đóng góp của
các đảng chính trị hiện nay.
1.2.1. Đảng phái chính trị ở Anh hiện nay
Các đảng chính trị Anh quốc đã có đóng góp to lớn vào đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội và lãnh đạo bộ máy nhà nước hoạt động kỷ cương, hiệu quả.
Tác giả khái quát tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, tổ chức bộ máy chính
quyền Anh quốc để thấy được vị trí, vai trị và những đóng góp to lớn của các
đảng chính trị Anh.
1.2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế- xã hội, tổ chức bộ máy nhà nước tác
động đến hoạt động lãnh đạo của các đảng chính trị của Anh.
1.2.1.1.1. Khái qt tình hình kinh tế- xã hội.
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland là một quốc gia nằm ở phía tây
bắc châu Âu. Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland bao gồm 4 phần chính
là Anh (England), Scotland, Wales và Bắc Ireland và một số hòn đảo, quần đảo
khác ở nhiều nơi trên thế giới. Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland có
chung đường biên giới với Cộng hịa Ireland. Theo số liệu tháng 6 năm 2012
dân số của vương quốc là 63,7 triệu người [67], diện tích 243.610 km2[68]. Phần
lớn địa hình Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland là những vùng đất thấp
xen kẽ với núi non. Do nằm ở vĩ độ trung bình và chịu ảnh hưởng của hải lưu
Gulf Stream, vương quốc có một khí hậu khá ơn hịa và lượng mưa tương đối
lớn. Tại nước này thường hay xảy ra bão tuyết và lũ lụt.
24


Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland hiện tại là liên minh cuối cùng
của hàng loạt những liên minh từng được thành lập trong vòng 300 năm qua.
Vương quốc Scotland và Vương quốc Anh từng tồn tại với tư cách các quốc gia
độc lập với hoàng gia và các cơ cấu chính trị riêng biệt từ thế kỷ thứ IX. Xứ
Wales cũng từng một thời là lãnh thổ độc lập đã rơi vào tầm kiểm sốt của
hồng gia Anh từ sau đạo luật Rhuddlan năm 1284 và chính nó cũng trở thành

một phần của Vương quốc Anh theo các điều luật trong đạo luật Wales. Theo
đạo luật liên minh 1707, các nước Anh và Scotland, vốn từng là các quốc gia
liên minh riêng biệt từ năm 1603, đã đồng ý thành lập một liên minh chính trị
gọi là Vương quốc Anh. Đạo luật liên minh 1800 đã thống nhất Vương quốc
Anh với Vương quốc Ireland, nước này đã dần rơi vào vịng kiểm sốt của Anh
từ giai đoạn 1541 - 1691, để hình thành nên Vương quốc Liên hiệp Anh và
Ireland. Nước Cộng hòa Ireland tuyên bố độc lập năm 1922 sau khi tách khỏi
hòn đảo Ireland với 26 hạt, 6 hạt cịn lại hình thành nên Bắc Ireland vẫn nằm
trong Vương quốc Anh.
Là một cường quốc công nghiệp và hàng hải trong thế kỷ XIX, Vương
quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland thường được gắn liền với danh hiệu quốc gia
góp phần "hình thành nên thế giới hiện đại" khi đóng vai trị quan trọng hàng
đầu trong việc phát triển các tư tưởng về sở hữu, chủ nghĩa tư bản và dân chủ
nghị viện phương Tây cũng như có những đóng góp to lớn trong văn học, nghệ
thuật, khoa học và công nghệ. Ở thời cực thịnh, đế quốc Anh trải dài trên hơn
một phần tư bề mặt trái đất và chiếm một phần ba dân số thế giới, biến nó trở
thành đế chế lớn nhất trong lịch sử. Tuy nhiên, nửa đầu thế kỷ XX, sức mạnh
của nó dần suy giảm sau những hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ
hai. Nửa sau thế kỷ XX, đế quốc này tan rã và Vương quốc Liên hiệp Anh và
Bắc Ireland đã tái lập lại hình ảnh quốc gia thịnh vượng và kinh tế phát triển của
mình hiện nay. Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland đã trở thành một
thành viên Liên minh Châu Âu từ năm 1973. Quan điểm của chính phủ hiện tại
25


×