Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

(Luận văn thạc sĩ) truyện ngắn đỗ bích thúy nhìn từ góc độ thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
************************
Nguyễn Thị Thu Thủy

TRUYỆN NGẮN ĐỖ BÍCH THÚY
NHÌN TỪ GĨC ĐỘ THỂ LOẠI
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60220121

Hà Nội – 2012

0


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
************************
Nguyễn Thị Thu Thủy

TRUYỆN NGẮN ĐỖ BÍCH THÚY
NHÌN TỪ GĨC ĐỘ THỂ LOẠI
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60220121

Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS Hà Văn Đức

Hà Nội – 2012

1



MỤC LỤC
1. Lí do chọn đề tài : ...................................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề : ........................................................................................................................... 4
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu: .............................................................................. 7
4. Phương pháp nghiên cứu: ............................................................................................................ 7
5. Cấu trúc luận văn: ...................................................................................................................... 8
Chương 1:Nghệ thuật xây dựng kết cấu và tạo tình huống trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy: ... 9
1.1 Nghệ thuật xây dựng kết cấu trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy : ................................................ 9
1.1.1 Kết cấu đơn tuyến : ............................................................................................................. 11
1.1.2 Kết cấu tâm lí : .................................................................................................................... 16
1.1.3 Kết cấu truyện trong truyện : ................................................................................................ 21
1.2 Nghệ thuật tạo tình huống trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy : ................................................... 27
1.2.1 Tình huống trở về : ............................................................................................................... 29
1.2.2 Tình huống lối sống mới :..................................................................................................... 34
1.2.3 Tình huống yêu đương trắc trở : ........................................................................................... 37
Chương 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy: ........................... 42
2.1 Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy: .................................................................. 43
2.1.1 Con người bi kịch: .................................................................................................................. 43
2.1.2 Con người mới : .................................................................................................................. 51
2.2 Nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy : ..................................... 56
2.2.1 Nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật thơng qua hồi ức : ........................................................... 57
2.2.2 Nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật thông qua ngoại cảnh : ................................................... 58
2.2.3 Nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật thơng qua các chi tiết nghệ thuật : .................................. 62
Chương 3 : Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy : ..................................... 66
3.1 Ngơn ngữ trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy : .............................................................................. 66
3.1.1 Ngơn ngữ giàu hình ảnh và tính biểu cảm : .............................................................................. 67
3.1.2 Ngôn ngữ phản ánh tư duy của người miền núi : .................................................................... 72
3.1.3 Ngôn ngữ mang tính đa thanh : .............................................................................................. 82
3.2 Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy : ............................................................ 86

3.2.1 Giọng trữ tình mộc mạc nhưng sâu lắng : ................................................................................ 87
3.2.2 Giọng trầm buồn, xót xa, trăn trở :.......................................................................................... 91
Phần Kết luận ................................................................................................................ . ............ 97
Tài liệu tham khảo ......................................................................................................... . ............ 100

PHẦN MỞ ĐẦU
1


1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, truyện ngắn được hiểu là “tác phẩm tự sự cỡ nhỏ”.
Nếu chỉ dừng lại ở cách định danh này thì truyện ngắn đặt trong sự so sánh, đối chiếu với
tiểu thuyết chỉ khác nhau về dung lượng phản ánh. Tuy nhiên, trên thực tế, xét về bản chất,
truyện ngắn là một thể loại tự sự độc lập. Điều đó có nghĩa rằng truyện ngắn có những đặc
trưng khu biệt nó với các thể loại tự sự khác, đặc biệt là với tiểu thuyết.
“Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời
tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu
liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ.” [Từ điển thuật ngữ văn học; 314]. Bản chất này đã
quy định đặc trưng của thể loại. Nếu tiểu thuyết chiếm lĩnh đời sống trong sự toàn vẹn, đầy
đặn thì truyện ngắn giống như một lát cắt ngang của đời sống ấy. Bởi thể loại này thường
hướng tới việc phát hiện một nét bản chất trong thế giới nội tâm phức tạp, một biến cố trong
cuộc đời hoặc khắc họa một hiện tượng của đời sống. Ngay cả đến cốt truyện và kết cấu của
truyện ngắn cũng chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, một không gian hẹp và không phân
chia nhiều tầng – tuyến.
Với đặc thù nhỏ gọn, truyện ngắn ngay từ khi ra đời đã trở thành một thể loại gần gũi
với đời sống hàng ngày. Được mệnh danh là “một thể loại mn hình mn vẻ biến đổi
khơng ngừng. Nó là một vật biến hóa như quả chanh của Lọ Lem” (D.Grônôpxki), truyện
ngắn len lỏi vào mọi ngóc ngách của xã hội, bắt kịp nhanh với những chuyển biến mn
hình vạn trạng của đời sống. Ở Việt Nam, kể từ giai đoạn xuất hiện đầu tiên vào những thập
niên đầu thế kỉ XX đến nay, loại hình nghệ thuật ngơn từ súc tích và cơ động này đã không

ngừng vận động, biến đổi để theo sát những bước thăng trầm của lịch sử, để bắt kịp với sự
phát triển của xã hội. Và đặc biệt từ sau năm 1986, sự cởi mở nhiều chiều của đời sống xã
hội đã tạo tiền đề để truyện ngắn Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Tư duy nghệ
thuật của các nhà văn bắt đầu thay đổi; đề tài càng lúc càng nới rộng biên độ theo hướng
tiếp cận gần gũi hơn với hiện thực đời sống vật chất và tinh thần. Truyện ngắn vì thế cũng
phản ánh hiện thực ở nhiều góc độ khác nhau với những cách nhìn khác các giai đoạn văn
học trước. Nhà văn Nguyên Ngọc khi nhận xét về truyện ngắn Việt Nam trong thời kì đổi
mới này đã nói: “ Đây có thể coi là một thời kì có nhiều truyện ngắn hay trong văn học Việt
Nam, tiếp theo “vụ được mùa truyện ngắn” những năm 1960 và một vụ mùa khác, trong
chiến tranh. Tuy nhiên truyện ngắn lần này có những khác biệt rõ rệt. Những năm 1960 từng
2


để lại nhiều truyện ngắn đẹp như thơ, trong veo, trữ tình. Truyện ngắn thời kì chiến tranh thì
vạm vỡ, chắc chắn. Đặc điểm nổi bật lần này là cầm cái truyện ngắn trong tay có thể cảm
thấy cái dung lượng của nó nặng trĩu. Có những truyện ngắn, chỉ mươi mười trang thơi, mà
sức nặng có vẻ cịn hơn cả một cuốn tiểu thuyết trường thiên” [Văn học Việt Nam sau 1975
– Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy; 174]. Bởi vậy, việc tìm hiểu những đặc trưng của
nghệ thuật truyện ngắn Việt Nam đương đại sẽ cho người đọc một cái nhìn khái quát về
những chuyển đổi mạnh mẽ cả về nội dung phản ánh lẫn hình thức thể hiện của thể loại này,
cũng như thấy được những đóng góp của các tác giả trong q trình vận động đó.
Bên cạnh những đổi mới về quan điểm thẩm mĩ, tư duy nghệ thuật… văn học Việt Nam
hiện đại cịn ghi nhận những chuyển biến tích cực trong đội ngũ sáng tác. Sự xuất hiện ngày
càng đông đảo của các cây bút nữ là một trong những biến chuyển đó. Những tác giả như Lê
Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Y Ban, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh đến
những gương mặt mới như Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Ngọc Tư, DiLi… đã trở nên quen
thuộc với độc giả. Họ đem lại một luồng sinh khí mới cho văn xuôi giai đoạn này, đặc biệt
là ở mảng truyện ngắn. Mỗi người một phong cách, một hướng tiếp cận hiện thực song các
cây bút nữ đều có điểm chung là nhìn nhận và khám phá cuộc sống bằng chính sự nhạy cảm,
tinh tế của trái tim phụ nữ. Có thể nói, trong lịch sử văn học Việt Nam chưa có giai đoạn

nào “tính nữ” lại phát triển mạnh mẽ, phong phú và đặc sắc như giai đoạn này.
Kể đến các tác giả nữ của văn xuôi Việt Nam hiện đại khơng thể khơng nhắc tới Đỗ
Bích Thúy – “ người đàn bà viết văn bước ra từ dịng Nho Quế” [ 33 ]. Đỗ Bích Thúy ( sinh
năm 1975 ) là một cây bút trẻ trên văn đàn hiện nay. Chị đến với văn chương bằng một
truyện ngắn đầu tay Chuỗi hạt cườm màu xám đăng trên báo Tiền Phong và vụt tỏa sáng với
giải nhất trong cuộc thi sáng tác truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ Quân đội 1998 – 1999
với chùm ba tác phẩm nộp vào giờ chót: Sau những mùa trăng, Ngải đắng ở trên núi và
Đêm cá nổi. Không dừng lại ở những thành cơng ban đầu đó, Đỗ Bích Thúy tiếp tục khẳng
định khả năng của mình bằng một loạt các tác phẩm mới. Tính đến nay, cây bút nữ này đã
xuất bản được năm tập truyện ngắn: Sau những mùa trăng ( 2000 ), Những buổi chiều
ngang qua cuộc đời ( 2002 ), Kí ức đơi guốc đỏ ( 2003 ), Tiếng đàn môi sau bờ rào đá (
2005 ), Mèo đen ( 2011); một tập truyện vừa: Người đàn bà miền núi ( 2007 ); một tiểu
thuyết Bóng của cây sồi ( 2005 ) và một tập tản văn Trên căn gác áp mái ( 2011). Ngồi ra,
chị cịn viết kịch bản cho sân khấu kịch nói như : Cơ gái xinh đẹp, Q khứ địi nợ, Diễm
500 đơ.
3


Tuy sáng tác của Đỗ Bích Thúy khá phong phú về mặt thể loại nhưng tạo được ấn
tượng sâu sắc trong lịng độc giả lại chính là những truyện ngắn của chị. Bằng giọng văn
tinh tế, câu văn dung dị, qua những truyện ngắn của mình, Đỗ Bích Thúy đã đưa người đọc
đến với không gian của núi rừng Tây Bắc để cảm được chất thơ trong cảnh sắc thiên nhiên
và quan trọng hơn là cùng chị trăn trở với những được – mất, hay – dở do nền kinh tế thị
trường đem lại cho cuộc sống nơi đây; hay day dứt với thân phận con người, đặc biệt là
người phụ nữ trước những hủ tục nặng nề ăn sâu bám rễ trong tâm thức cộng đồng. Hơn
nữa, xét ở khía cạnh phương pháp sáng tác, dù khơng phải là người tìm ra hướng đi mới hay
tạo ra những bước đột phá trong quá trình đổi mới văn học nhưng bằng ngơn ngữ, giọng
điệu cùng cách tìm tịi và triển khai những vấn đề của đời sống mang phong vị riêng, truyện
ngắn Đỗ Bích Thúy vẫn có nhiều yếu tố cách tân về mặt thi pháp. Đây là một trong những
nguyên nhân quan trọng khiến nhà văn trẻ này đã tạo ra được dấu ấn của riêng mình bằng

chính cách chị tiếp cận và phản ánh hiện thực ở một mảng đề tài không xa lạ: dân tộc – miền
núi.
Như vậy sự vận động của truyện ngắn Việt Nam đương đại với sự cởi mở về nội dung
và đặc biệt là cách tân về thi pháp cùng sự tỏa sáng của một cây bút nữ được đặt niềm tin
vào sự phát triển trong tương lai, được coi là một trong những người kế cận của đội ngũ tác
giả văn xuôi Việt Nam hiện đại – Đỗ Bích Thúy – là những lí do để chúng tơi thực hiện đề
tài Truyện ngắn Đỗ Bích Thúy nhìn từ góc độ thể loại. Qua đề tài này, chúng tơi hi vọng
đóng góp một cách nhìn nhận về một gương mặt văn học và từ đó thấy được diện mạo đa
sắc màu của văn chương đương đại.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ :
Sự xuất hiện của Đỗ Bích Thúy khơng gây ra cú sốc lớn trên văn đàn. Nhưng những
trang viết thấm đẫm hương vị núi rừng Tây Bắc của chị đủ tạo nên dư ba trong lịng những
ai đã từng đọc nó. Bởi vậy, truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy ngày càng cuốn hút độc giả - một
sự lôi cuốn nhẹ nhàng, dai dẳng và thấm thía. Nhiều bài báo viết về Đỗ Bích Thúy và tác
phẩm của chị. Nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu văn học cũng bày tỏ cảm xúc của mình trước
những gì chị đã viết. Tất cả họ đều thể hiện sự đồng cảm với những suy nghĩ, trăn trở của
Đỗ Bích Thúy. Và quan trọng hơn là đều muốn tìm ra nguyên nhân của sự cuốn hút kia.
Nếu như ở truyện ngắn đầu tay đăng trên mục Tác phẩm tuổi xanh của báo Tiền Phong,
người ta chưa biết đến Đỗ Bích Thúy là ai thì sau khi đạt giải nhất cuộc thi sáng tác truyện
ngắn của Văn Nghệ Quân đội trong một hoàn cảnh hi hữu, tài năng của chị bắt đầu được
4


chú ý. Trên báo Văn nghệ Trẻ số 10 ( năm 2001) xuất hiện bài viết Gặp hai nữ thủ khoa
truyện ngắn trẻ của tác giả Điệp Anh. Trong bài viết này, Điệp Anh đã nhận ra nguyên nhân
khiến truyện ngắn Đỗ Bích Thúy tạo được ấn tượng trong lịng độc giả. Đó chính là nét văn
hóa rất riêng của núi rừng Tây Bắc tràn ngập trong từng trang viết: “ Thế mạnh của Đỗ Bích
Thúy là đời sống người dân Tây Bắc với những không gian vừa quen vừa lạ, những phong
tục tập quán đặc thù khiến người đọc ln cảm thấy tị mị và bị cuốn hút”[1]. Và chính
khơng gian văn hóa ấy cũng đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà phê bình văn học, nhà văn

trong đó có cả những cây bút đã và đang viết về đề tài miền núi. Họ không chỉ cảm thấy thú
vị trước “ những cái rất riêng đậm đặc chất dân gian của hương vị núi rừng …” [15] mà còn
đánh giá cao “ khả năng viết truyện về cảnh sinh hoạt truyền thống của người miền cao một
cách tài tình” [8] của chị. Có thể thấy những độc giả đặc biệt này đã đánh giá các truyện
ngắn của Đỗ Bích Thúy trên phương diện văn hóa để từ đó khẳng định dấu ấn vùng miền là
điều mấu chốt, cốt lõi làm nên phong cách nghệ thuật của nữ nhà văn trẻ này. Song những
nhận định đó mới chỉ được rút ra khi các tác giả cảm thụ và đánh giá một vài tác phẩm cụ
thể của Đỗ Bích Thúy. Chỉ đến khi bài báo Từ truyện ngắn của một người viết trẻ của nhà
nghiên cứu và phê bình văn học Lê Thành Nghị đăng trên báo Văn nghệ Trẻ ( số 31 –
2005) thì những đánh giá về văn phong Đỗ Bích Thúy mới bắt đầu mang tính khái quát .
Bằng niềm ưu ái đối với tài văn chương của “ đứa con của núi”, nhà nghiên cứu Lê Thành
Nghị với cảm nhận tinh tế của mình đã thâu tóm được thần thái truyện ngắn Đỗ Bích Thúy:
“ Chúng ta sẽ bước vào một không gian lạ, không gian có núi cao, trời rộng, của vùng rừng
núi phía Bắc, nơi từ đó nhìn xuống, dịng sơng Nho Quế chỉ còn “ bé như sợi chỉ dưới chân
núi Mã Pí Lèng”. Một khơng gian đầy hoa lá rừng; có tiếng gà gáy tách te trong bụi rậm, có
những dịng suối trong suốt với những viên cuội đỏ, có những chàng trai thổi sáo theo sau
các cơ gái khốc quẩy tấu xuống chợ; những nồi thắng cố nghi ngút khói trong phiên chợ
vùng cao đầy mầu sắc; những đêm trăng sóng sánh huyền ảo; những cụm mần tang mọc
trong thung lũng; tiếng đàn môi réo rắt sau bờ rào đá; lễ hội gầu tào với điệu hát gầu Plềnh
mê đắm của các cô gái,chàng trai người Mông trên đỉnh núi…”. Và cho tới luận văn thạc sĩ
Tiếp cận sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy từ phương diện giá trị văn học –
văn hóa của tác giả Dương Thị Kim Thoa, không gian Tây Bắc và sức mạnh chi phối của
không gian ấy tới lối viết của Đỗ Bích Thúy đã thực sự được đề cập một cách khoa học
bằng phương pháp tiếp cận từ góc độ văn hóa. Mặc dù trong luận văn này, tác giả triển khai
vấn đề về giá trị văn hóa trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy trong mối tương quan, so sánh
5


với giá trị tương ứng trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư những vẫn phải khẳng định đây là
một trong số rất ít các cơng trình nghiên cứu có hệ thống về văn chương của nhà văn trẻ

này.
Không chỉ quan tâm đến yếu tố văn hóa trong các tác phẩm của Đỗ Bích Thúy, nhiều
bài viết và một vài cơng trình nghiên cứu khoa học cũng đề cập tới nhiều nét đặc sắc nghệ
thuật khác trong sáng tác, đặc biệt là truyện ngắn của chị. Ví dụ khi nói về cảm hứng sáng
tác của Đỗ Bích Thúy, nhà văn Chu Lai đã khái quát thành “cảm hứng trở về” với “mơtip
xun suốt là mơtip người mẹ và gia đình” [15]. Cụ thể hơn, tác giả Lê Hương Thủy chỉ ra
dược cảm hứng ấy xuất phát từ “ nỗi nhớ nhà, nhớ quê da diết ” (Đường đến với văn chương
của một người viết trẻ). Còn đối với tác giả Phạm Thùy Dương, cảm hứng đó chính là tình
thương, sự cảm thông với số phận của những con người nơi núi cao đặc biệt là người phụ nữ
[ 5 ]. Trong khi đó nhà văn Khuất Quang Thụy trong bài viết Đôi điều tâm đắc về cuộc thi
truyện ngắn VNQĐ 1998 – 1999 lại chỉ ra một vấn đề khác trở đi trở lại trong sáng tác của
Đỗ Bích Thúy: đó là sự tác động của thời đại mới lên số phận của con người kể cả những
người sống ở thâm sơn cùng cốc.
Bên cạnh những vấn đề về giá trị văn hóa, cảm hứng sáng tác thì độc giả và giới nghiên
cứu cũng đánh giá cao về hình tượng nhân vật hay ngơn ngữ, giọng điệu trong truyện ngắn
Đỗ Bích Thúy. Tác giả Nguyễn Phương Liên đã viết: “ Những trang viết của Đỗ Bích Thúy
ln mang đậm hơi thở cuộc sống vùng cao từ khung cảnh thiên nhiên, đời sống sinh hoạt
đến tâm hồn, nếp nghĩ suy của con người qua giọng văn bình dị đầy sức lơi cuốn, đặc biệt ở
cách sử dụng ngơn ngữ ví von, so sánh giàu biểu tượng – một đặc trưng trong tư duy người
dân tộc thiểu số” [16]. Còn Phạm Thùy Dương lại nhìn nhận giọng điệu chủ đạo trong văn
phong Đỗ Bích Thúy là sự cảm thương [5]. Trong khi đó, tác giả Lê Hương Thủy lại tỏ ra
tâm đắc với hình tượng xun suốt trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy. Đó là hình ảnh những
người phụ nữ rẻo cao: “ Thân phận của những người phụ nữ miền sơn cước đã được Đỗ
Bích Thúy khắc họa với những tình huống đời thường mn mặt cũng như trạng thái tâm lí
rất đặc trưng cua người phụ nữ vùng cao” (Đường đến với văn chương của một người viết
trẻ ). Những vấn đề này cũng ít nhiều được đề cập đến trong luận văn thạc sĩ Tìm hiểu một
số cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kì 1986 – 2006 (
Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy ) của tác giả Nguyễn Thanh Hồng.
Có thể nói, qua việc khảo sát những bài viết, cơng trình nghiên cứu hiện có về tác phẩm
của Đỗ Bích Thúy, chúng tơi nhận thấy các tác giả đã chú ý tới nhiều khía cạnh khác nhau

6


tạo nên nét riêng trong văn phong của nữ nhà văn như không gian nghệ thuật, thế giới nhân
vật, ngôn ngữ …Tuy nhiên, những vấn đề đó thường được thể hiện trong khn khổ của
một bài báo hoặc nếu có trong một vài cơng trình nghiên cứu khoa học thì chúng lại được
đặt trong mối tương quan với phong cách sáng tác của các nhà văn khác. Điều này khiến
việc tìm hiểu phong cách nghệ thuật Đỗ Bích Thúy mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu vấn đề,
hoặc đề cập chưa chuyên sâu. Và chúng tôi cũng nhận thấy chưa có một cơng trình nghiên
cứu đứng từ góc độ thể loại truyện ngắn để nhìn nhận sáng tác của Đỗ Bích Thúy. Bởi vậy,
qua luận văn này, chúng tơi mong muốn khảo sát truyện ngắn – một mảng đặc sắc và đem
lại nhiều thành công nhất cho nhà văn – từ phương diện loại hình để từ đó thấy được nét
riêng của Đỗ Bích Thúy trong sự vận động theo xu hướng cách tân hóa của văn xi Việt
Nam hiện đại.
3. MỤC DÍCH , ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
Nhằm chỉ ra được những đặc điểm nổi bật làm nên phong cách nghệ thuật Đỗ Bích
Thúy, đồng thời thấy rõ hơn những đóng góp của nhà văn này trong sự vận động của văn
học Việt Nam đương đại, chúng tôi lựa chọn các phương diện của nghệ thuật tự sự trong
truyện ngắn Đỗ Bích Thúy làm đối tượng khảo sát, nghiên cứu .
Như trên đã nói, đến thời điểm này Đỗ Bích Thúy đã xuất bản được năm tập truyện
ngắn. Song theo khảo sát của chúng tôi trong những tập truyện đó có một số truyện trùng
nhau. Bởi vậy, ngoại trừ những truyện ngắn không viết về đề tài miền núi ( theo khảo sát
của chúng tôi có 2 truyện : Ở phố , Trong đám đơng có một ánh mắt ) và những truyện
được in lại nhiều lần, chúng tơi tập trung tìm hiểu văn phong Đỗ Bích Thúy qua 26 tác
phẩm tiêu biểu ( theo chúng tôi) bao gồm: 20 truyện được in trong tập Tiếng đàn môi sau bờ
rào đá – tập truyện được coi là tập hợp những sáng tác thành công nhất của nhà văn; 06
truyện ngắn khác được tuyển chọn in trong các tập sách khác nhau hoặc đăng trên các báo
hay tạp chí là: Tráng A Khành, Gió lùa qua cửa, Sau những mùa trăng, Váy ướt cuốn vào
bắp chân, Mèo đen và Trời sáng đâu đã sáng.


4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Để đạt được mục đích đặt ra, chúng tơi chủ yếu vận dụng phương pháp loại hình để
triển khai đề tài. Bên cạnh đó , chúng tơi cũng vận dụng các phương pháp nghiên cứu khác
nhằm mục đích hỗ trợ trong quá trình làm sáng tỏ vấn đề nêu ra như : phương pháp thống
7


kê, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp hệ
thống …
5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN :
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận , luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Nghệ thuật xây dựng kết cấu và tạo tình huống trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy
Chương 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy
Chương 3: Ngơn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG KẾT CẤU VÀ TẠO TÌNH HUỐNG
TRONG TRUYỆN NGẮN ĐỖ BÍCH THÚY
8


1.1 Nghệ thuật xây dựng kết cấu trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy :
Trong xu hướng nghiên cứu văn học hiện nay, tác phẩm văn học được coi là một chỉnh
thể nghệ thuật được cấu thành bởi một hệ thống phức tạp bao gồm các yếu tố thuộc về nội
dung như chủ đề, tư tưởng, và các yếu tố hình thức như hình tượng ngơn ngữ, nhân vật, cốt
truyện ( với tác phẩm tự sự ). Tuy nhiên cần phải lưu ý quan niệm của Hêghen – nhà Mĩ học
Đức ( 1770 -1831 ) về khái niệm chỉnh thể nghệ thuật: “ Nội dung chẳng là cái gì khác, mà
là hình thức chuyển hóa thành nội dung; cịn hình thức chẳng là cái gì khác mà chính là nội
dung chuyển hóa thành hình thức” [ Mĩ học – tập 1]. Tính đúng đắn của quan niệm này đã

được các tác phẩm nghệ thuật có giá trị đặc biệt trong lĩnh vực văn chương chứng minh. Bởi
vậy, vấn đề cần đặt ra đối với nhà văn là làm thế nào tạo ra được sự gắn kết hài hòa, sự
thống nhất biện chứng giữa nội dung thẩm mĩ và hình thức nghệ thuật. Thực tế đã cho thấy
có nhiều tác phẩm có ý tưởng hay nhưng các phương tiện, thủ pháp nghệ thuật được sử dụng
chưa chuyển tải được hết tư tưởng của nhà văn. Hoặc có những tác phẩm ít nhiều có sự tìm
tịi, sáng tạo về hình thức song nội dung lại chưa xứng tầm. Tất cả sự “ khập khiễng” đó đều
khơng đem lại sự hồn chỉnh cho tác phẩm. Chính vì vậy, với các nhà văn thực sự có tài, có
tâm việc tìm ra và khơng ngừng đổi mới chất keo dính gắn kết hai phạm trù tưởng như đối
lập: nội dung và hình thức là điều rất cần thiết. Và kết cấu – một yếu tố thuộc về hình thức chính là tác nhân quan trọng hàng đầu trong việc kết hợp các thành tố phức tạp cấu thành
một tác phẩm hoàn chỉnh. Như vậy, với quan niệm này, khi nghiên cứu tác phẩm văn học
không thể khơng kể đến vai trị của kết cấu.
Trong Từ điển thuật ngữ văn học ( Lê Bá Hán , Trần Đình Sử và Nguyễn Khắc Phi
đồng chủ biên ), kết cấu được hiểu là “ toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác
phẩm”. Vai trò tổ chức tác phẩm của kết cấu được các tác giả trong cuốn sách này nhấn
mạnh ở chỗ “ không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngồi giữa
các bộ phận, chương đoạn mà cịn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội
dung cụ thể của tác phẩm”. Với quan niệm này, khái niệm kết cấu hồn tồn khơng đồng
nhất với khái niệm bố cục. Nếu bố cục được hiểu là “ sự sắp xếp, phân bố các chương đoạn,
các bộ phận của tác phẩm theo một trình tự nhất định” thì việc tổ chức tác phẩm của kết cấu
một mặt đảm bảo sự mạch lạc giữa các phân đoạn, các lớp cảnh, mặt khác còn đảm nhiệm
việc “ tổ chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và khơng gian nghệ thuật của tác phẩm;
nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày,
9


bố trí các yếu tố ngồi cốt truyện v.v…” [Từ điển thuật ngữ văn học;132]. Vậy nên, bố cục
chỉ là một phương diện của kết cấu. Và theo như cách nói của chuyên gia nghiên cứu về
truyện ngắn Bùi Việt Thắng thì “kết cấu là chiến lược, là định hướng, cịn bố cục… có tích
chất sách lược và cục bộ…” [25;100]. Từ điển Tu từ - Phong cách thi pháp học của Nguyễn
Thái Hòa khi định nghĩa về kết cấu nghệ thuật cũng đã có sự phân biệt khá rõ hai khái niệm

này. Tuy nhiên, khi định nghĩa cụ thể về kết cấu truyện kể, tác giả này mới chỉ khẳng định
vai trò bề nổi của kết cấu là “ đóng vai trị tổ chức sắp xếp các sự kiện theo trật tự logic, trật
tự thời gian hay trật tự hồi ức … khơng hồn tồn tương ứng với những sự kiện được kể
lại”. [Từ điển Tu từ - Phong cách thi pháp học;108]. Theo chúng tơi, cách nhìn nhận của Từ
điển thuật ngữ văn học là chi tiết và cụ thể hơn cả khi chỉ ra được bản chất hình thức, cụ thể
là bản chất kết cấu của một tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Việc đánh giá đúng nội hàm của
kết cấu trong tác phẩm nghệ thuật đặc biệt là trong truyện kể sẽ giúp ích rất nhiều cho người
nghiên cứu trong việc đối chiếu và ứng dụng lí thuyết thể loại vào đối tượng cụ thể.
Bằng việc đảm nhiệm các chức năng đa dạng trong việc thực hiện nhiệm vụ đối với các
yếu tố của nội dung, kết cấu thực sự là thử thách lớn mà các nhà văn phải vượt qua. Đối với
truyện ngắn, một thể tài “ thường chỉ phản ánh một khoảnh khắc, một mẩu nhỏ nào đó của
cuộc sống”

( 1)

( nhà văn Nguyễn Kiên ), thì vai trị của kết cấu càng trở nên quan trọng.

Những đặc trưng cơ bản của thể loại truyện ngắn đã đòi hỏi các nhà văn phải “ tổ chức sao
cho truyện … thành một lát cắt gọn ghẽ. Như người ta vẫn nói, tồn truyện là một vịng trịn
khép kín, khơng dài q, khơng ngắn q, khơng xơ đẩy xộc xệch, thậm chí khơng thừa một
chi tiết nào”( 2 ) ( nhà văn Ma Văn Kháng ). Nhà văn Nguyễn Minh Châu nhấn mạnh “công
việc tổ chức và cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt” đó địi hỏi nhà văn phải có “thứ kĩ
thuật tinh xảo – kĩ thuật viết truyện ngắn. Nó cũng giống như kĩ thuật của người làm pháo,
dồn nén tư tưởng vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, tự nhiên” [25;101]. Và tất nhiên
nhà văn nào gặt hái được nhiều thành công ở thể loại truyện ngắn là người biết cách “ tổ
chức bố cục của cốt truyện thành các phần, chương, đoạn, sắp xếp các chi tiết, các sự kiện
(1), (2) Dẫn theo Bùi Việt Thắng
thành những bộ phận hữu cơ của một q trình phát triển mà cái đích cuối cùng là thể hiện
chủ đề tư tưởng và bộc lộ tính cách nhân vật”[24;103].
Trong lớp nhà văn trẻ hiện nay, Đỗ Bích Thúy là một gương mặt đầy triển vọng. Đọc

truyện ngắn của chị, người đọc như hịa vào khơng khí của một vùng rừng núi heo hút
10


nhưng đang chuyển mình trước những làn gió lạ cùng số phận của những con người nơi đây.
Để có được những thành cơng ban đầu đó cần phải kể đến “kĩ thuật viết truyện ngắn” hay
nói cách khác là nghệ thuật kết cấu truyện ngắn của nhà văn. Qua việc tìm hiểu những tác
phẩm Đỗ Bích Thúy đặc biệt là 26 truyện ngắn tiêu biểu của chị, chúng tôi nhận thấy có ba
kiểu kết cấu phổ biến: kết cấu đơn tuyến, kết cấu tâm lí và kết cấu truyện trong truyện.
1.1.1 Kết cấu đơn tuyến :
Truyện ngắn Đỗ Bích Thúy thường có cốt truyện đơn tuyến. Đây là kiểu cốt truyện có
“hệ thống sự kiện được tác giả kể lại gọn gàng và thường là đơn giản về số lượng, tập trung
thể hiện q trình phát triển tính cách của một vài nhân vật chính, có khi chỉ là giai đoạn
trong cuộc đời nhân vật chính” [Từ điển thuật ngữ văn học; 88 –89]. Trong 26 truyện ngắn
của Đỗ Bích Thúy được chọn làm đối tượng khảo sát chính của đề tài này, chúng tơi nhận
thấy có 11 truyện có kiểu cốt truyện đơn tuyến ( chiếm 38 % ).
Như trên đã nói, trong mối quan hệ với cốt truyện, một yếu tố thuộc về nội dung tác
phẩm, kết cấu có vai trị “tổ chức bố cục… thành các phần, chương, đoạn, sắp xếp các chi
tiết, các sự kiện thành những bộ phận hữu cơ của một quá trình phát triển” [24;103]. Bởi
vậy , với kiểu cốt truyện đơn tuyến, nhà văn thường tổ chức tác phẩm đi theo một mạch phát
triển chính với một xung đột trung tâm. Kiểu tổ chức tác phẩm như vậy chúng tôi tạm gọi
bằng tên gọi tương ứng với cốt truyện: kết cấu đơn tuyến. Đây cũng là kiểu kết cấu phổ biến
trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy. Ví dụ như trong truyện Đá cuội đỏ, cốt truyện có thể tóm
lược ngắn gọn như sau: Trong một lần “đi ong” ở Phạ Lấu, Sính gặp một đứa bé gái đi lấy
nước sớm vì đêm qua mẹ nó báo mộng dặn phải lấy nước ở đầu nguồn Phạ Lấu. Sính chợt
nhận ra nó là con gái của Mây – người con gái mà anh đã hứa chỉ thổi sáo cho mình cơ
nghe. Và Sính nhớ lại những chuyện trước đây. Mười năm trước, khi còn là đứa trẻ, Sính đã
xui Lử - anh trai Mây – đút con ong bò vẽ vào mồm. Lử bị ong đốt và đã ngọng càng ngọng
thêm. Chỉ vì trị đùa dại này mà về sau, Sính và Mây yêu thương nhau nhưng không thể đến
được với nhau. Ngày Mây đi lấy chồng ở Sán Khâu, Sính đã ném cây sáo vào lửa và bảy

mùa xuân trôi qua, anh không có cây sáo nào khác… Phần tóm tắt này đã cho thấy Đá cuội
đỏ khơng có hệ thống sự kiện phức tạp, khơng có nhiều tuyến nhân vật. Và nhân vật chính
chỉ có một là Sính đồng thời là người kể chuyện xưng “ tôi”. Với cốt truyện như vậy, Đỗ
Bích Thúy đã xử lí một cách nghệ thuật mối quan hệ giữa Sính – Mây theo mạch tâm trạng
của Sính phát sinh trong vài ngày “đi ong” ở đầu nguồn Phạ Lấu , khi gặp đứa bé con gái
của Mây. Và tình huống bất ngờ đó đã khơi dậy trong Sính những kí ức đau buồn. Như vậy,
11


chỉ bằng một người xưng “tôi” đứng ra kể lại câu chuyện tình của mình với những sự kiện
“đơn giản vế số lượng” và phát triển theo trật tự của dịng hồi tưởng, Đỗ Bích Thúy đã giúp
người đọc có được cảm nhận khá sâu sắc về tâm trạng đau đáu nhớ thương và ân hận của
Sính. Cũng với kiểu kết cấu đơn tuyến, Ngải đắng ở trên núi lại khiến độc giả đồng cảm với
những suy nghĩ và tâm trạng của Din khi cô trở về nơi cô sinh ra, “ nơi mặt trời lên muộn
nhất và đi ngủ sớm nhất” [28;225]. Câu chuyện được kể lại theo trình tự thời gian trước –
sau và phát triển theo mạch cảm xúc của Din. Hệ thống sự kiện của truyện tuy vẫn thuộc
loại đơn giản song so với Đá cuội đỏ lại phong phú hơn về số lượng. Đó là những câu
chuyện của đời sống thường ngày liên quan tới mùa vụ, tới sự xâm nhập của nếp sống mới
với những lề thói đã tồn tại từ bao đời nay. Đó là những câu chuyện của mẹ, của em trai, em
dâu, của đứa cháu nhỏ hay chuyện liên quan chàng thanh niên có tên gọi là Câm. Tất cả
những sự kiện tưởng chừng như vụn vặt, rời rạc này đã được kết dính lại bằng cảm nhận của
nhân vật chính – Din. Có thể nói xúc cảm của Din như một sợi chỉ đỏ xâu chuỗi toàn bộ sự
kiện và dẫn dắt các sự việc phát triển theo quy luật tự nhiên của tình cảm. Và đến khi câu
chuyện dừng lại, người đọc cảm được “nỗi nhớ da diết nhất, thẳm sâu nhất, ruột thịt nhất mà
tôi dành cho núi cao”. [28;225]
Khi khảo sát những truyện ngắn được xây dựng bởi kết cấu đơn tuyến của Đỗ Bích
Thúy, chúng tơi nhận ra một đặc điểm nổi bật có liên quan tới việc tổ chức điểm nhìn trần
thuật của tác giả. Trong 11 truyện ngắn thuộc kiểu này đều có người kể chuyện thuộc ngôi
thứ nhất, xưng “ tôi”. Những nhân vật này đứng ra kể lại những trải nghiệm của mình hay
những chuyện, những việc có liên quan hoặc được chứng kiến. Cùng xuất phát từ điểm nhìn

“ hướng nội”, cùng lộ diện trực tiếp ở ngôi thứ nhất nhưng người kể chuyện trong những
truyện ngắn đơn tuyến của Đỗ Bích Thúy lại xuất hiện bằng nhiều dạng thức khác nhau.
Dạng thức phổ biến nhất là sự xuất hiện của cái “ tôi” trải nghiệm. Dạng thức này trần
thuật này được sử dụng trong 7/10 truyện ngắn đơn tuyến (chiếm 77,8 %). Người kể chuyện
xưng “ tôi” đồng thời là nhân vật chính. Nói cách khác, nhân vật này vừa là chủ thể của diễn
ngôn, vừa là chủ thể của hành động trong câu chuyện. Với vai trò này, người kể chuyện
không những tái hiện lại sinh động các sự việc, sự kiện đã xảy ra, cắt nghĩa chúng tường tận
mà còn thể hiện ở mức độ chân thực nhất những diễn biến nội tâm của mình. Vết chân ngựa
trên đường mịn là câu chuyện “cắm bản” của một cơ giáo vùng xi lên dạy học. Qua lăng
kính của mình, cô giáo trẻ, người xưng “tôi” trong truyện, bản nhỏ heo hút nơi Sủng Thài
với những con người âm thầm như bóng núi nhưng lại giàu có tình người và tha thiết mong
12


có được cái chữ hiện lên sống động và chân thực. Và ở nơi đó biết bao những khó khăn,
những chuyện hiểu lầm đã xảy ra trong thời gian đầu “cắm bản” đã khiến nhân vật “tôi”
sống “trong tâm trạng bất ổn”. Nhưng sau tất cả, cơ nhận ra tình cảm của con người nơi đây
dành cho cô “ vừa lo lắng, vừa hoảng sợ, vừa thương, vừa da diết…” như tiếng gọi nơi sườn
núi ngày đầu mới đến. Đến lúc phải rời xa Sủng Thài, cơ biết điều gì đã giữ tâm hồn cô ở
lại: “ Giờ đứng đây, nhìn xuống Sủng Thài nằm tít dưới sâu kia, lại nhớ đến lúc lăn lơng lốc
như một quả bí từ trên này xuống, lại nhớ tiếng gọi thao thiết đến thắt ruột thắt gan”. [28;
407]
Bằng việc tạo dựng người kể chuyện trải nghiệm, kể lại câu chuyện của chính mình, Đỗ
Bích Thúy đã giúp người đọc tiếp cận trực tiếp với mạch cảm xúc của nhân vật chính. Đêm
cá nổi là một ví dụ. Ngay ở phần mở đầu, Páo – nhân vật “ tôi” trong truyện đã tâm sự: “
Tôi sinh ra ở núi rừng. Tôi ăn học ở thành phố. Núi rừng là tuổi thơ tôi. Thành phố là tuổi
thanh xuân của tôi. Núi rừng ở sau lưng. Thành phố ở trước mặt. Tơi đang đi từ phía trước
mặt về phía sau lưng. Đi về dịng Lơ, dịng sông quê tôi …” [28; 123]. Những lời tự bạch đó
đã tạo điều kiện cho người đọc nhanh chóng nhận ra nỗi bồi hồi của đứa con “núi rừng” khi
trở về nơi bắt đầu của tuổi thơ mình. Từ tâm trạng đó, chàng trai để cho xúc cảm của mình

trơi đi trong đêm cá nổi với những “tiếng lóc tóc lách tách ..tiếng quẫy đạp ùm ùm” của bầy
cá chép “lúc nhúc chen nhau vào đám rễ cây”, với “tiếng hát “phươn” trong vắt mà thanh,
nhẹ như sợi chỉ căng ra giữa cái rét cắt da cắt thịt” [28;131 – 132]. Chính những hình ảnh
thân thuộc của q hương này khiến nhân vật “tôi” trở nên ngập ngừng, phân vân và day dứt
giữa “Núi rừng ở sau lưng” và “Thành phố đang ở trước mặt” [28;123]. Hình ảnh khép lại
truyện ngắn này: “Tơi định chạy trở lại phía sơng nhưng mặt trời đã lên mà vầng trăng vẫn
cịn thấp thống phía chân trời…” khiến người đọc cũng xao xác với tâm trạng của nhân vật
chính.
Cũng là dạng thức người kể chuyện trực tiếp lộ diện ở ngôi thứ nhất, bên cạnh cái “ tôi
“ trải nghiệm, trong truyện ngắn đơn tuyến của Đỗ Bích Thúy cịn sử dụng một kiểu chủ thể
tự sự khác: đó là cái “ tơi ” người chứng. Không giống như cái “tôi” trải nghiệm, cái “ tơi ”
người chứng chỉ giữ vai trị như một người quan sát, một chứng nhân trong câu chuyện và
kể lại những gì mình biết, mình chứng kiến. Dạng thức này, theo khảo sát ban đầu của
chúng tôi chỉ xuất hiện trong một truyện ngắn có tên Cạnh bếp có cái mi gỗ của Đỗ Bích
Thúy.Truyện kể về nỗi bất hạnh trong cuộc đời Mai. Từ nhỏ, Mai luôn ao ước có được một
chiếc mi gỗ - thứ đồ dùng thường ngày đơn sơ nhưng chỉ người đàn ông mới làm được.
13


Nhưng bố Mai mất sớm, nhà cô thiếu vắng đàn ông nên “ cái muôi gỗ cũ mòn vẹt một góc
cứ phải dùng mãi ”. Thực chất, sâu thẳm trong lịng, từ khi cịn là một cơ bé, Mai đã mong
muốn có được một chỗ dựa vững chắc, có được một người chở che. Nhưng ngay cả khi đã
lấy chồng, ước mong của Mai cũng không thành hiện thực. Chỉ vì sinh nở đến lần thứ ba
vẫn là con gái mà chồng Mai đã bỏ đi. Mai âm thầm, nhẫn nhịn chịu đựng nỗi đau bị ruồng
bỏ để nuôi ba đứa con gái. Và dường như trong lịng cơ đã thôi ước mong một chiếc muôi
gỗ mới… Ở đây, người kể chuyện xưng “ tơi ” khơng đóng vai trị là nhân vật chính, khơng
tham gia vào diễn biến các sự kiện. Anh chỉ là một người bạn của Mai. Những việc tận mắt
nhìn thấy trong một buổi chiều muộn trở về bản đã cho anh hiểu hơn cuộc đời người bạn gái
thân thiết thuở nhỏ. Bắt đầu là sự hồi nghi về thái độ của người đàn ơng râu rậm – chủ
quán thắng cố trên chợ huyện - mà anh không nhớ đã gặp ở đâu đến ngôi nhà “phải cúi

người mới khơng chạm đầu vào khung cửa. Khói quẩn trong nhà khơng có lối ra ” của mẹ
con Mai và cuối cùng là câu nói của đứa con gái lớn của Mai khi được hỏi về bố ở đâu : “
người bản đi chợ huyện bảo gặp ở đấy”… Tất cả đủ cho nhân vật “tôi ” hiểu ra số phận hẩm
hiu với những nỗi đau câm lặng trong lịng Mai. Cái “tơi” người chứng trong truyện ngắn
này khi chứng kiến cuộc sống của nhân vật chính chưa một lần lên án người chồng, cũng
không trực tiếp bày tỏ sự cảm thương với bạn. Song qua những lời kể về huyền thoại nguồn
nước của người Mông, sự hồi tưởng tuổi thơ và những quan sát tinh tế về cảnh sắc, về cuộc
sống xung quanh Mai, nhân vật “tôi” đã tự bộc lộ bản chất nhạy cảm, giàu lòng trắc ẩn của
mình. Với điểm nhìn hướng nội này, cái “tơi” người chứng ở đây đóng vai trị là người định
hướng cho độc giả đi theo mạch cảm xúc, suy tư của mình để tiếp cận một con người, một
cuộc đời. Theo chúng tôi, đây cũng là một kĩ thuật trần thuật mà nhà văn sử dụng khá thành
công trong việc xây dựng kết cấu đơn tuyến cho truyện ngắn của mình.
Sau những mùa trăng cũng là một truyện ngắn được xây dựng theo kết cấu đơn tuyến
của Đỗ Bích Thúy. Nhà văn cũng tổ chức điểm nhìn cho tác phẩm theo cách “hướng nội”
với người kể chuyện xưng “tôi” đồng thời là nhân vật chính. Tuy nhiên cái “tơi” trong
truyện ngắn này lại có sự luân phiên giữa hai vai trị: trải nghiệm và người chứng. Lìn –
nhân vật xưng “tôi” trong truyện sau bao nhiêu mùa trăng xa nhà nay trở về. Và trong
chuyến thăm nhà đó, anh đã chứng kiến nỗi cô đơn, niềm khao khát yêu thương đang dằn
vặt trong tâm can người chị dâu sớm góa bụa và đang ở độ tuổi đẹp nhất của cuộc đời. Anh
thấu hiểu điều đó khi nhận ra sự đổi thay trên gương mặt, trong từng cử chỉ của người chị
dâu khi “tiếng khèn lá vẫn réo rắt từng đêm, từng đêm”. Dường như chị đang tìm mọi cách
14


để ngọn lửa trong lịng mình khơng bùng cháy. Sự “cuống quýt” rồi “thẫn thờ” với “cặp mắt
như mắt người say rượu” của người chị dâu đã gieo vào lòng người em chồng sự xót xa đến
quặn thắt. Và lúc này, nhân vật “tơi” khơng cịn đứng ngồi làm người quan sát nữa. Anh ta
đã tham dự vào câu chuyện bằng hành động đầy kịch tính “vùng dậy, lao như một con thú ra
cửa, giằng tay chị ra khỏi mớ dây lanh bùng nhùng” và đuổi đi “thằng con trai còn rất trẻ”
hằng đêm vẫn thổi khèn lá gọi chị. Hành động này tất yếu phải xảy ra bởi từ khi trở về,

chứng kiến vẻ đẹp căng tràn sức sống và thấu hiểu nỗi cô đơn, sự khao khát hạnh phúc ẩn
sau dáng vẻ cam chịu của người chị dâu, trong lịng “tơi” đã nhen nhóm một thứ tình cảm
đặc biệt. Và tình cảm ấy càng ngày càng rõ nét khiến anh ta có những hành động quyết liệt
với mong muốn giữ chân người chị dâu mãi trong nhà mình. Song cả anh ta và chị dâu đều
không thể vượt qua định kiến để thay đổi cuộc đời mình. Và việc ra đi vào cuối mùa trăng
có thể coi là sự bế tắc của “tôi”. Bởi anh không đủ sức mạnh bước qua lề thói đã tồn tại
hàng ngàn năm nay. Bởi anh ra đi sẽ mang theo một nỗi niềm day dứt mới. Và bởi người chị
dâu góa bụa sẽ vẫn lặng lẽ, nhẫn nhục chịu đựng nỗi cô đơn. Như vậy đã rõ, càng gần đến
cuối truyện, nhân vật “tôi” không chỉ là chủ thể của diễn ngôn mà trở thành chủ thể của
hành động. Những gì anh ta đã thấy, đã trực tiếp trải qua không chỉ giúp anh cảm thơng với
những bức bối trong lịng người đàn bà góa bụa trẻ mà cịn tự nhận ra lịng mình “bỏng rát”
như viên sỏi mà chị dâu trao trước lúc đi. Có thể nói, sự phối hợp hai vai trị của người kể
chuyện trong tác phẩm này khơng chỉ đảm bảo cho cốt truyện đi theo một tuyến sự kiện
nhân – quả mà còn cho người đọc cảm giác như đang tiếp xúc trực tiếp với những góc khuất
trong tâm hồn của những người bằng xương bằng thịt thật chứ không phải là nhân vật trên
trang giấy.
Trên đây, chúng tôi đã đề cập đến kết cấu đơn tuyến trong một số truyện ngắn của Đỗ
Bích Thúy. Chúng tơi nhận thấy thông thường những truyện ngắn chỉ phát triển theo một
tuyến sự kiện nếu khơng có giải pháp tối ưu về hình thức trần thuật sẽ gây ra sự đơn điệu.
Nhưng những truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy đã tránh được nhược điểm này. Theo chúng
tơi, điều đó có được là do nhà văn đã đặt điểm nhìn của người kể chuyện ngơi thứ nhất ở vị
trí “hướng nội” và sử dụng khá linh hoạt vai trò trải nghiệm hay chứng kiến của nhân vật
này trong các câu chuyện. Bên cạnh đó, những truyện ngắn đơn tuyến của nữ nhà văn này
cịn hấp dẫn người đọc bởi ngơn ngữ, giọng điệu riêng cũng như cách chị khéo léo khai thác
những trạng thái cảm xúc của các nhân vật. Và những vấn đề này, chúng tôi sẽ đề cập cụ thể
hơn ở những phần tiếp theo của luận văn.
15


1.1.2 Kết cấu tâm lí :

Đây là kiểu kết cấu của những tác phẩm có cốt truyện rất ít, thậm chí khơng có các sự
kiện, biến cố. Ở kiểu truyện này, cái đích mà các nhà văn muốn hướng tới để làm sáng tỏ
không phải ở những sự kiện của đời sống mà chính là những vận động trong tâm hồn con
người. Đó là những cung bậc khác nhau của cảm xúc, là những suy tư, trăn trở, day dứt hay
những nỗi niềm thương mến, đớn đau… trong thế giới nội tâm nhiều biến động phức tạp.
Khi cốt truyện đã khơng cịn đóng vai trị quan trọng bậc nhất thì phân tích diễn biến tâm
trạng, tâm lí của nhân vật trở thành phương tiện nghệ thuật chủ yếu trong việc xây dựng cốt
truyện.
Kiểu kết cấu tâm lí thực chất khơng còn xa lạ với văn học Việt Nam đặc biệt ở mảng
văn xi. Bởi theo nhiều cơng trình nghiên cứu, kiểu kết cấu này xuất hiện ở nước ta vào
những thập niên đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh được coi là tác giả sớm nhất chú ý đến việc
miêu tả tâm lí nhân vật trong sáng tác của mình. Và đến giai đoạn 1930 – 1945, tổ chức tác
phẩm theo sự vận động của tâm lí đã định hình rõ nét trong truyện ngắn của Thạch Lam,
Thanh Tịnh… Cho đến nay, cốt truyện và kiểu kết cấu tâm lí được sử dụng khá phổ biến
trong truyện ngắn Việt Nam. Và Đỗ Bích Thúy là một trong những cây bút nữ tiếp thu và
phát triển khá thành công kiểu kết cấu này.
Bằng tâm hồn nhạy cảm, trái tim nhân hậu, giàu u thương và cảm thơng, Đỗ Bích
Thúy viết về cuộc sống và con người nơi vùng đất mà chị sinh ra và lớn lên như một cách để
trả nợ ân tình, để vợi đi nỗi nhớ trong lịng mình. Có lẽ đây là lí do để ngịi bút của chị đang
cố gắng đi sâu vào những địa tầng sâu kín nhất trong thế giới nội tâm của những người chị
đã từng gặp, từng biết xung quanh mình đặc biệt là những người phụ nữ miền cao.
Đọc truyện ngắn Đỗ Bích Thúy, ta sẽ thấy việc miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật
được chị dùng như một phương tiện thiết yếu để khám phá tâm hồn họ. Và trong nhiều tác
phẩm của chị, sự kiện chỉ là cái cớ để khơi dậy dòng chảy nội tâm của nhân vật. Nói cách
khác, nó giống như “cú hích” làm nảy sinh những cảm xúc, những suy tưởng…Đó là trường
hợp của nhân vật Vi trong truyện ngắn Giống như cái cối nước. Vi đi lấy chồng xa khơng có
điều kiện về thăm nhà thường xuyên. Khi con gái được bảy tháng tuổi, cô mới cùng con trở
về. Nhưng về đến nơi, tất cả đã đổi khác. “Cây sổ cổ thụ”, con suối và “con đường rải đá
tảng” vẫn còn đây nhưng căn nhà của cha mẹ cơ khơng cịn nữa “mà thay vào đó là một
vườn vải mới trồng, cao ngang ngực”. Ngơi nhà sàn nơi có những người thân u của Vi đã

di chuyển ra “tận mép rừng, chỉ gọn trong một khoảng rất nhỏ trước đây Vi vẫn trồng rau
16


cải…”. Sự thay đổi này đã đưa Vi trôi theo dịng cảm xúc của chính mình từ háo hức, mong
ngóng trở về đến bàng hoàng, sửng sốt và khi hiểu ra mọi chuyện lại day dứt, xót xa.
Cịn với Kía trong Gió khơng ngừng thổi suốt cuộc đời sống trong những trạng thái
buồn, thương, đau khổ, tủi nhục, lo lắng, sợ hãi, dằn vặt và rồi cuối cùng thanh thản ra đi lại
do những nguyên cớ khác. Khởi nguồn của những buồn, lo, tủi nhục và sợ hãi ám ánh Kía từ
khi về làm dâu đến khi nhắm mắt chính là việc Kía khơng sinh được đứa con trai nối dõi cho
nhà chồng. Nhưng vào một buổi chiều muộn trên nương – buổi chiều làm thay đổi cả cuộc
đời cô – Kía bị Vàng Chỉn Tờ làm nhục. Thào Mí Chá là đứa con trai ra đời từ buổi chiều
oan nghiệt đó. Và sự hư hỏng, lêu lổng của đứa con trai này càng làm Kía khơng lúc nào
ngi nỗi tủi hổ và cả đời phải sống trong “ nỗi sợ hãi sâu thẳm ”. Những sự kiện này đã ẩn
chứa trong mình tính chất gay cấn của một cốt truyện đầy kịch tính với chuỗi sự kiện tiếp
nối: Kía khơng sinh được đứa con trai nối dõi; Kía bị Vàng Chỉn Tờ làm nhục và có thai; lo
sợ chồng biết chuyện, Kía muốn phá bỏ cái thai những khơng thành; nhiều lần Kía muốn nói
chuyện thằng Thào Mí Chá nhưng thấy chồng thương chiều nó q nên khơng nói và ni hi
vọng chồng chưa biết chuyện; chồng Kía đã biết Thào Mí Chá khơng phải là con mình từ
lâu nhưng vẫn im lặng cho đến khi vợ sắp chết mới nói ra sự thật… Nhưng tất cả những sự
kiện trên đều không được nhà văn sử dụng nhằm phản ánh xung đột của đời sống hay số
phận con người. Chúng chỉ tồn tại như một bộ khung để nhà văn dựa vào đó khắc họa bi
kịch tinh thần của người vợ, người mẹ tội nghiệp này.
Tổ chức tác phẩm theo mạch vận động, phát triển của tâm lí nhân vật, truyện ngắn của
Đỗ Bích Thúy thường hướng người đọc đến thế giới bên trong của con người nhiều hơn là
việc tìm hiểu về cuộc sống bên ngồi. Tồn bộ truyện Ngồi cửa trời chưa sáng là dịng
chảy miên man của hồi tưởng và cảm xúc của Pao lúc “ngược dốc tìm đường về Pụ Dín”.
Việc giải cứu cho con Mốc thốt khỏi qn thịt chó ở Pụ Cháng được coi như một biến cố
làm thay đổi mọi suy nghĩ của cô gái trẻ - Pao - về một nơi “mặt trời lặn lâu rồi” mà vẫn
“sáng như ban ngày”. Và biến cố ấy đã đưa dòng suy nghĩ của Pao ngược về khoảng thời

gian trước đây với những trạng thái tâm lí khác nhau. Chỉ trong vịng một đêm, Pao nhớ lại
bao nhiêu là chuyện: bắt đầu là chuyện Pụ Cháng “thành chỗ nghỉ quen chân của người qua
lại” khiến người Pụ Dín và Pụ Cháng khơng cịn thân thiết như trước; chuyện con Mốc gắn
bó và có tình nghĩa với bố con Pao; chuyện mẹ Pao không sinh được con trai buồn rầu rồi
mất sớm đến cả chuyện Pao đến tuổi mà chưa chịu lấy chồng vì sợ “đi vào lối đi của mẹ”
nhưng vẫn không sao dứt mắt khỏi “cái bao dao chạm hình bơng cúc đỏ cứ lách cách bên
17


hông Khiêm” và chuyện người khách trẻ đối tốt với nhà Pao ra sao, ánh mắt ấy khiến Pao
“bỏng rát” đến thế nào… Và đan xen những hồi ức ấy là trạng thái tâm lí khác nhau của
Pao: lúc lặng lẽ chìm trong nỗi cơ đơn, lúc khao khát có được hạnh phúc như bạn bè cùng
trang lứa nhưng sợ hãi khi nghĩ đến hoàn cảnh của mẹ trước đây, khi thì bối rối trước ánh
mắt của người bạn trai; tị mị muốn bước ra khỏi căn buồng có ơ cửa bằng hai bàn tay để
đến với thế giới mới nơi Pụ Cháng và hoảng sợ, giận dữ khi chứng kiến con Mốc sắp bị
người khách quen giết thịt đến thất vọng trước sự hào nhoáng giả dối của phố thị. Q trình
“ngược dốc tìm về Pụ Dín” của Pao sau một ngày khám phá Pụ Cháng thực chất là sự thức
tỉnh của ý thức trước sự xâm nhập của nền kinh tế thị trường với lối sống thực dụng, giả dối
khác lạ hoàn toàn với sự chân chất, nghĩa tình tồn tại bao đời nơi vùng cao heo hút: “ Dãy
Tây Cơn Lĩnh trước mặt nhìn thì gần mà đi thì xa, cịn Pụ Cháng muốn trốn cho nhanh mà
cứ ở sau lưng mãi.Trong đầu Pao thấp thoáng cái ô cửa bằng hai bàn tay trong buồng mình”.
Bằng việc xâu chuỗi các mảng miếng tâm trạng của nhân vật Pao, Đỗ Bích Thúy khơng chỉ
cho ta thấy suy nghĩ, thái độ của những người dân miền núi trước sự đổi thay nhanh chóng
của bản làng trước cơn gió thực dụng của nền kinh tế thị trường mà còn thể hiện được sự
trăn trở, suy tư của chính mình trước những được – mất, hay – dở do lối sống mới đem lại.
Có thể nhận thấy, trong nhiều truyện ngắn tâm lí của Đỗ Bích Thúy, nhân vật, đặc biệt
là nhân vật chính thường cùng một lúc sống trong hai thế giới: Một là cuộc sống đời thực
với các quan hệ xã hội xác định với thời gian, không gian cụ thể. Hai là thế giới nội tâm với
những trạng thái tâm lí, những cung bậc tình cảm khác nhau. Chính sự đan cài giữa thế giới
hiện thực và nội tâm của nhân vật đã định hình cho cốt truyện của những tác phẩm này.

Truyện ngắn Giống như cái cối nước mà chúng tôi đã đề cập ở trên là một ví dụ. Trong
truyện ngắn, nhân vật Vi tồn tại ở cả hai không gian: không gian thực ( trở về nhà với đứa
con bảy tháng; nhận ra ngôi nhà khơng cịn nữa thay vào đó là một vườn vải với người chủ
xa lạ; tìm đến ngơi nhà mới của bố mẹ sát mép rừng; thấy mẹ đang ngồi bóc đậu tương; đi ra
suối thấy cái cối nước khơng cịn ở chỗ cũ và “bạch yến mọc hai bờ suối vẫn nở hoa bừng
bừng …” ); không gian tâm tưởng với những hồi ức, nhưng cảm xúc cô đơn, đau đớn và xót
xa. Cả hai khơng gian này song song tồn tại và đan xen nhau. Không gian thực gọi về trong
Vi những chuyện cũ để cô sống lại với những trạng thái yêu đương tha thiết, tuyệt vọng
trong nỗi đau khơng thể nói và lại hồi sinh với hạnh phúc mới. Và cũng chính lời nói của
đứa em trai trong thực tại “ Chị không biết thật hay giả vờ? Bố mẹ bán đất đi để lấy hai trăm
đồng bạc trắng gả chồng cho chị chứ làm gì… Khơng có hai trăm đồng bạc ấy thì ai dám lấy
18


chị…” cùng những đứa em đến tuổi dựng vợ gả chồng vẫn chưa ra khỏi nhà một lần nữa
đẩy Vi chìm vào những nỗi áy náy, day dứt. Nhìn dọc hai bên bờ suối, hoa bạch yến nở đầy
mà cô không thấy mùi thơm, “chỉ thấy đắng ngăn ngắt trong cổ” bởi những đánh đổi và hi
sinh của bố mẹ, của các em dành cho cô quá lớn. Câu chuyện của Vi khép lại bằng cảm
nhận “đắng ngăn ngắt trong cổ”. Rồi đây Vi sẽ quay trở về với cuộc sống thường nhật của
một người vợ, người mẹ nhưng sâu thẳm trong tâm can, vị đắng đó sẽ trở thành nỗi dằn vặt
lớn nhất theo cô đi suốt cuộc đời. Có thể nói, trong truyện ngắn này, tâm trạng của Vi được
khắc họa trong một khoảng thời gian rất ngắn ( chưa đầy một ngày ) song nỗi xót xa, cảm
thấy mình là gánh nặng của gia đình ở cơ đã tạo nên một dư vị chua xót ám ảnh độc giả.
Hiệu ứng tâm lí này có được có lẽ là do nhà văn đã tìm ra sự tương phản giữa hai thế giới
hiện thực và nội tâm của nhân vật cũng như khéo léo sắp xếp hài hòa mối quan hệ giữa
chúng để đạt hiệu quả khắc họa nhân vật như mong muốn. Và việc tạo dựng hai thế giới tồn
tại cho nhân vật này cũng là dấu hiệu nhận biết của một tác phẩm tự sự hiện đại.
Sự đan cài hai dạng thức khơng gian nói trên đã tạo ra một hệ quả về mặt thời gian. Đó
là sự đảo lộn trật tự thời gian của các sự kiện để đem lại hiệu quả trong việc khắc họa tâm lí
nhân vật. Hầu hết các truyện ngắn nhằm mục đích khám phá đời sống tâm hồn con người

của Đỗ Bích Thúy đều được mở đầu bằng một sự kiện của thời điểm hiện tại. Và đó là điểm
khởi đầu cho những dòng hồi tưởng của nhân vật. Thời gian trong tác phẩm được sắp đặt
không thuận chiều: Hiện tại – Quá khứ - Hiện tại buộc người đọc phải theo dõi sát sao câu
chuyện. Bởi vậy có thể coi đây là một dụng ý của nhà văn trong việc định hướng cho độc
giả tự khám phá những ý nghĩ, xúc cảm trong thế giới nội tâm phức tạp của nhân vật. Tiếng
đàn mơi sau bờ rào đá, Gió khơng ngừng thổi, Ngựa ngã núi,Giống như cái cối nước, Ngoài
cửa trời chưa sáng, Cái ngưỡng cửa cao, Tráng A Khành … là những truyện ngắn tiêu biểu
cho dạng kết cấu này. Có thể lấy trường hợp Tráng A Khành làm ví dụ. Truyện ngắn này
được mở đầu bằng một sự kiện của hiện tại: Vào ngày cuối cùng của năm cũ, một người
đàn ông đứng tuổi đến xin bà Và cho Tráng A Khành – con trai bà – sang bên kia núi để
thăm một người sắp chết. Sau một hồi đắn đo, bà quyết định để con đi. Và từ đó, trong lịng
người mẹ ngổn ngang những bồn chồn, lo lắng sợ đứa con đi rồi không về với bà. Trong
trạng thái cảm xúc ấy, bà nhớ lại những gì đã xảy ra mười mấy năm trước, nhớ về người
chồng quá cố, về sự xuất hiện của Tráng A Khành ở nhà bà. Sự lo sợ mất con khiến bà
khơng ngồi n đợi nó về. Bà Vá quyết định đi theo. Quãng đường từ nhà bà sang đến bên
kia núi là một hành trình của những hồi ức. Bà nghĩ đến những lúc vất vả nuôi nấng, chăm
19


sóc thằng Khành. Bà nhớ những lúc nó “rúc vào ngực bà, rúc mãi như một con chó con…vồ
lấy bầu ngực chưa một lần tiết sữa, nó mút hóp cả má”. Bà đã ni nó bằng lịng nhân ái,
bằng sự khát khao tình mẫu tử . Đó là lí do để bà không thể mất con. Nhưng khi đối mặt với
người sắp chết cũng là một người mẹ đã để mất con mình, trong bà dấy lên niềm đồng cảm.
Song chính thời điểm đó, bà biết được một bí mật mà người chồng q cố của mình đã dấu
kín và đem theo xuống mồ: Tráng A Khành không phải đứa con trai của ơng Sình, nó mang
họ Vàng. Câu chuyện khép lại bằng hình ảnh hai mẹ con bà Vá cõng nhau trở về trong đêm
tối để kịp xông nhà. Đây chính là mạch kể của truyện. Tuy nhiên để nắm bắt được mạch kể
này cũng như “cảm” được những lo lắng, buồn khổ, để thấu hiểu tâm trạng của người vợ
phải chấp nhận cho chồng đi tìm một đứa con hay tâm trạng một người mẹ sợ mất con của
bà Vá không dễ dàng bởi sự chồng chéo giữa quá khứ và hiện tại. Ở đây nếu sắp xếp lại các

sự kiện của truyện theo trình tự thời gian tuyến tính ta có thể có một mạch kể như sau:
 Sự kiện 1: Mười mấy năm chung sống, vợ chồng bà Vá vẫn khơng có con. Sau một lần đi
đám cưới ở Há Súng, ơng Sình được một người bạn mách nước cho có con với giá chỉ
bằng một con bị.
 Sự kiện 2a: Bà Vá chọn cho ơng một con bị đẹp nhất đàn để ơng thực hiện kế hoạch của
mình.
 Sự kiện 2b: Trước khi ơng Sính đi, bà đã bảo ông “sang bên ấy muốn ở lại cũng được”,
song ông không đồng ý.
 Sự kiện 3: Sau một năm, ông “ mang về trả bà một thằng con trai ”.
 Sự kiện 4a: Vừa leo dốc, bà Vá vừa nghĩ đến những ngày nuôi nấng, chăm sóc thằng
Khánh như đứa con mình rứt ruột đẻ ra.
 Sự kiện 4b: Bốn tuổi, thằng Khánh bị ngã xuống vực. Phải bảy, tám người đàn ông mất
một ngày mới tìm được nó . Từ đó, “ lúc nào nó cũng nằm trên lưng bà”.
 Sự kiện 4c : Sau đó, ơng Sình bị bục dạ dày chế . Từ đó bà chỉ có thằng Khành và thằng
Khành cũng chỉ có bà. Và nó hồn tồn khơng biết việc nó được đổi về bằng một con bò.
 Sự kiện 5: Vào ngày cuối năm, một người đàn ông đến nhà và đề nghị bà cho thằng
Khành về thăm người mẹ sắp chết của nó. Sau một hồi suy nghĩ, bà đồng ý cho nó đi.
 Sự kiện 6: Bà quyết định đi theo Khành với ý nghĩ không để mất nó.
 Sự kiện 7a : Bà Vá gặp mẹ đẻ của Khành trước khi cô ta chết .
 Sự kiện 7b: Người đàn bà sắp chết ấy đã cho bà biết thằng Khành không phải là người
nối dõi của họ Tráng bởi nó mang họ Vàng .
20


 Sự kiện 8a : Bà để cho con lựa chọn nên ở lại hay quay về cùng bà.
 Sự kiện 8b: Khành cõng bà Vá trên lưng để trở về nhà .
Nếu câu chuyện được kể theo đúng trình tự trên thì nhà văn mới chỉ đạt được một mục đích
là tái hiện lại diễn biến của đời sống, cụ thể ở đây là nguồn gốc của Tráng A Khành và
những chặng đường trong cuộc đời bà Vá. Và tất nhiên cách kể như thế này sẽ không tạo ra
được những rung cảm thẩm mĩ cho độc giả. Nói cách khác, người đọc sẽ chỉ biết đến sự

kiện xảy ra mà không hiểu, không cảm được những trạng thái tâm lí của bà Vá như bất lực,
giận hờn câm lặng với tư cách là một người vợ; lo lắng, bồn chồn trong vai trị của một
người mẹ. Tâm lí của nhân vật chỉ thực sự hiện lên rõ nét và chân thực khi tác giả lựa chọn
cấu trúc đảo thời gian của các sự kiện theo mơ hình:
5 – 3 – 1 – 2a – 6 – 4b – 4a – 2b – 4c – 7a – 8a – 7b – 8b .
Kết cấu tâm lí trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy được sử dụng khá linh hoạt. Có khi
nó là kiểu kết cấu chủ đạo chi phối tồn bộ việc tổ chức tác phẩm nhưng cũng có trường hợp
tham gia với tư cách phối hợp với kiểu kết cấu khác (đơn tuyến, truyện lồng truyện…) nhằm
nâng cao hiệu quả khắc họa tính cách nhân vật ( ví dụ như truyện Tiếng đàn môi sau bờ rào
đá, Cái ngưỡng cửa cao, Sau những mùa trăng, Như con chim nhỏ, Sải cánh trên cao…).
Và dù sử dụng kiểu kết cấu này ở mức độ nào thì nhà văn cũng rất dụng cơng trong việc tìm
ra những thủ pháp nghệ thuật hợp lí để đưa nhân vật của mình đến gần hơn với độc giả.
Bằng cách tổ chức sắp xếp các sự kiện, lựa chọn và phối hợp không gian sống cho nhân vật,
Đỗ Bích Thúy đã thể hiện được sự nhạy cảm và tinh tế của mình khi phân tích những biến
động trong thế giới nội tâm con người. Điều đó khơng chỉ đem lại thành cơng ban đầu cho
nhà văn mà cịn giúp độc giả có điều kiện tiếp cận với nhiều mảnh đời, số phận khác nhau.
Và chính khả năng này của Đỗ Bích Thúy khiến ta hi vọng nhà văn sẽ tiếp cận lối viết theo
dòng ý thức, dòng tâm tưởng ở thể loại tự sự lớn hơn.
1.1.3 Kết cấu truyện trong truyện :
Miền núi là đề tài chính trong những sáng tác của Đỗ Bích Thúy. Khi viết về vùng đất
này, điều mà nhà văn muốn chia sẻ với bạn đọc chính là cuộc sống, là tâm hồn của con
người nơi đây – những người sinh ra và lớn lên trên những rẻo cao xa xôi. Bằng sự gần gũi,
thương mến, bằng sự nhạy cảm trăn trở với cuộc đời của những người sống trên mảnh đất
nơi mình sinh ra, Đỗ Bích Thúy đã phát hiện đằng sau bóng dáng lặng lẽ, lầm lụi của họ là
một thế giới sống động với những dòng chảy của những suy tư, cảm xúc có khi âm ỉ, dẳng
dai, có lúc lại bùng lên dữ dội, mãnh liệt. Tất cả đã đi vào trang viết của chị tự nhiên, dung
21


dị và chân thành như chính cuộc đời thực. Sự chân thật đó khơng chỉ được tạo nên bởi sự

tinh tế, nhạy cảm, bởi trái tim “muốn hướng tới sự nhân bản” mà cịn là sự thơng minh trong
cách xử lí, sắp xếp chi tiết, sự kiện của nhà văn. Trong vấn đề này, Đỗ Bích Thúy tỏ ra nhạy
bén khi bắt kịp lối trần thuật của tự sự hiện đại. Chị đã khiến số phận và nội tâm của nhân
vật được hiện lên đầy đủ, đầy đặn cho dù chỉ miêu tả, khắc họa họ trong những khoảng thời
gian ngắn ngủi bằng những cách thức tổ chức trần thuật khác nhau. Việc tạo ra nhiều mạch
truyện đan xen, liên kết với nhau trong một đơn vị tác phẩm ( truyện trong truyện ) là một
trong những kiểu kết cấu đem lại hiệu quả thẩm mĩ cao cho truyện ngắn Đỗ Bích Thúy.
Dễ dàng nhận ra Cái ngưỡng cửa cao, Gió khơng ngừng thổi, Tiếng đàn mơi sau bờ rào
đá, Cột đá treo người, Sải cánh trên cao, Như một con chim nhỏ, Hẻm núi, Đi qua ngày
sang đêm… là những truyện ngắn có kết cấu truyện trong truyện. Như trên đã nói đây là
kiểu kết cấu tạo ra nhiều mạch truyện cho một câu chuyện được kể lại. Tuy nhiên, những
mạch truyện này khơng tách rời mà ln có sự đan cài vào nhau một cách linh hoạt đem lại
ấn tượng chân thực về chuyện được kể đồng thời kéo người đọc lại gần hơn với thế giới
nghệ thuật trong tác phẩm. Cái ngưỡng cửa cao, một truyện ngắn khá hay về tình u của
Đỗ Bích Thúy là một ví dụ. Cốt truyện của tác phẩm này có thể được tóm gọn như sau :
Sương là một cơ giáo trẻ người Kinh. Vì muốn quên đi những hình ảnh buồn với căn phịng
có “ cánh cửa bị gió giật ra, toang hoang chăn gối, toang hoang gương mặt khiếp hãi tái
ngắt, mắt mở to trừng trừng của mẹ, bên cạnh là người đàn ơng đang ngủ vùi …”; vì muốn
trốn chạy tình yêu với Luân, Sương đã từ bỏ thành phố để lên đỉnh cao Thượng Phùng dạy
học. Ở đây cơ đã gặp Sính – “người đàn ơng cuối cùng của một dịng họ nghèo, khơng có
một đồng bạc trắng chơn dưới cột nhà”. Cảm động trước tình cảm và những việc làm chân
thành của Sính, Sương “ đồng ý cho Sính lấp cả chỗ trống trong lịng mình”. Cô chấp nhận
làm vợ anh song vẫn không quên được Ln. Tình u của Sính khơng giữ được chân
Sương ở lại. Cơ quyết định ra đi bỏ lại Sính với nỗi đau khơng gì khỏa lấp… Trong câu
chuyện này cả Sương và Sính đều là nạn nhân của bi kịch tình u do chính họ tạo dựng.
Đặc biệt là Sương với những quyết định của mình, cơ đáng thương hơn giận. Song nếu
chuyện giữa hai con người tội nghiệp này được kể lại theo trình tự của các sự kiện trên thì
có lẽ người đọc sẽ khó thơng cảm cho Sương. Để người đọc có thể tiếp cận gần hơn với
những trăn trở, giằng xé trong tâm can của Sương cũng như tình u tuyệt vọng với nỗi
trống trải, cơ đơn trong lịng Sính, Đỗ Bích Thúy đã kiến tạo tác phẩm bằng hai câu chuyện:

Một kể về Sương với những lí do khiến cơ có mặt trên vùng cao Sủng Tráng dạy lũ trẻ và
22


làm vợ Sính rồi sau đó là những ngun cớ khiến cơ một lần nữa ra đi. Câu chuyện cịn lại
kể về Sính bằng sự nhẫn nại, chân thành đã lay động trái tim Sương; sau đó cũng bằng sự
cam chịu đã để cơ ra đi và giữ lại hình bóng người vợ chưa một lần u mình thực sự với
nỗi mong chờ khắc khoải tuyệt vọng. Hai câu chuyện song song diễn ra qua lời của người kể
chuyện ngôi thứ ba nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng là sự lí giải cảm
động cho bi kịch ở thời điểm hiện tại người ta không thể dùng tình thương để thay thế cho
tình u. Khơng giống Sính yêu đến mê muội, Sương chưa bao giờ yêu anh. Cơ đồng ý làm
vợ anh chỉ vì cơ thương anh và quan trọng hơn là “tại vì Sính đã lấp chỗ trống của hai đứa
học trò trong lớp mà Sương đồng ý cho Sính lấp cả chỗ trống trong lịng mình”. Cái “tại vì”
ấy trong phút mong manh thèm có được một chốn dừng chân của cơ là ngun nhân của sự
tan vỡ mà cả cơ và Sính khơng hề muốn. Bởi tình u của Sính, sự cảm thương của Sương
chưa đủ để giúp họ đến gần nhau. Và trong cuộc hôn nhân này cả cô và anh đều là những kẻ
cơ đơn. Cơ đơn vì dù cố gắng đến bao nhiêu Sương cũng khơng thể u Sính. Cơ đơn vì
Sính “khơng biết trong đầu Sương nghĩ gì, khơng biết vì sao Sương xinh đẹp thế lại chịu lấy
Sính”. Có thể thấy với kết cấu truyện trong truyện, Cái ngưỡng cửa cao không chỉ cho
người đọc hiểu được rõ ràng câu chuyện mà nhà văn muốn tái hiện mà hơn hết là sự thấu
hiểu những suy nghĩ, tâm trạng, cảm nhận của các nhân vật để từ đó cảm thông với những
quyết định và hành động làm thay đổi cuộc đời họ.
Cũng có chung một kiểu kết cấu như Cái ngưỡng cửa cao, Hẻm núi lại đưa ta đến với
một cuộc tình éo le bằng những câu chuyện tưởng như khơng có can hệ gì với nhau. Cốt
truyện của tác phẩm này được kiến tạo bởi hai mạch chính: câu chuyện được mở ra ở thời
điểm hiện tại với cơn lũ lớn “cướp đi ba mươi lăm sinh mạng của Tả Khâu” trong đó có Mí
– đứa con gái của Nhi cùng nỗi đau mất con của cô. Đây là mạch truyện thứ nhất. Mạch
truyện thứ hai là câu chuyện tình giữa thầy giáo ( người xưng “tơi”) với cơ học trị tên Nhi
mười một năm trước và hé lộ sự thực về người cha của Mí. Với cốt truyện hai mạch này, tác
phẩm cũng được kết cấu theo cách câu chuyện này gọi dẫn câu chuyện kia. Tuy là hai mạch

truyện nhưng tác phẩm không hề rời rạc mà trở thành một chỉnh thể thống nhất. Sự liên kết
này được tạo ra nhờ cách xử lí khéo léo của nhà văn trong quá trình trần thuật. Mặc dù trong
cả hai câu chuyện đều có liên qua tới nhân vật “tôi” – thầy giáo với tư cách vừa là người
chứng kiến vừa là người trực tiếp tham dự cùng Nhi và bé Mí nhưng trong q trình diễn
tiến của truyện chúng vẫn chỉ là hai đường thẳng song song. Đến phần cuối cùng, khi thời
gian cho truyện ngắn này vận hành sắp hết, một sự kiện bất ngờ xảy ra: qua lời nói ám chỉ
23


×