Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

(Luận văn thạc sĩ) đảng bộ tỉnh nam hà lãnh đạo phát triển nông nghiệp từ năm 1965 đến năm 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐINH THỊ LOAN

ĐẢNG BỘ TỈNH NAM HÀ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐINH THỊ LOAN

ĐẢNG BỘ TỈNH NAM HÀ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Dũng

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Những đánh giá, nhận định trong luận văn do cá nhân tôi nghiên cứu dựa trên
tư liệu xác thực và chưa công bố ở bất kỳ cơng trình nào. Các số liệu, tài liệu
trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo tính khách quan.
Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2017
Tác giả

Đinh Thị Loan


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tơi xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất tới
thầy hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Dũng - Trưởng khoa Lịch sử, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2, đã tận tình chỉ bảo và định hướng để tơi hồn thành
luận văn.
Tơi xin cảm ơn các thầy, cô giáo Khoa Lịch Sử, bộ môn Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam đã giảng dạy tơi trong suốt q trình học tập.
Tơi xin cảm ơn cán bộ phòng lưu trữ Tỉnh ủy, Chi cục văn thư lưu trữ tỉnh
Nam Định đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi sưu tầm và hệ thống tư liệu cần thiết
cho luận văn.
Mặc dù có nhiều cố gắng và nỗ lực song luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót, tơi rất mong nhận ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2017
Tác giả

Đinh Thị Loan



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................. 5
5. Nguồn sử liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................. 5
6. Đóng góp của đề tài .................................................................................... 6
7. Kết cấu luận văn ......................................................................................... 6
Chƣơng 1. ĐẢNG BỘ TỈNH NAM HÀ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN 1965 - 1968 ... 7
1.1. Các yếu tố ảnh hƣởng đến kinh tế nông nghiệp của tỉnh Nam Hà và
tình hình nơng nghiệp của tỉnh trƣớc năm 1965......................................... 7
1.1.1. Quá trình hình thành tỉnh Nam Hà ....................................................... 7
1.1.2 Điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội ................................................... 9
1.1.2.1 Điềiu kiện tự nhên ........................................................................... 9
1.1.2.2 Điều kiện xã hội............................................................................. 13
1.1.3 Tình hình kinh tế nông nghiệp của tỉnh trước năm 1965 ...................... 14
1.2 Đảng bộ tỉnh Nam Hà lãnh đạo về phát triển kinh tế nôngnghiệp từ
năm 1965 đến năm 1968 ............................................................................. 18
1.2.1 Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nam Hà về phát triển
kinh tế nông nghiệp ...................................................................................... 18
1.2.2.1 Thực hiện cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, đưa quy mô
hợp tác xã bậc thấp lên hợp tác xã bậc cao ............................................... 25
1.2.2.2. Đẩy mạnh sản xuất trong điều kiện thời chiến, nâng cao hiệu quả
sản xuất nông nghiệp................................................................................. 31
Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................... 38
Chƣơng 2. ĐẢNG BỘ TỈNH NAM HÀ LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN 1968 - 1975 ...................... 39



2.1. Đảng bộ tỉnh Nam Hà lãnh đạo khôi phục và phát triển nông nghiệp
từ năm 1968 đến năm 1972 ........................................................................ 39
2.1.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nam Hà về phát triển nông nghiệp ...... 39
2.1.2 .Đảng bộ chỉ đạo chuyển hướng phát triển kinh tế nông nghiệp .......... 45
2.1.2.1 Quy hoạch vùng sản xuất và tiếp tục thực hiện cải tiến kỹ thuật
trong nông nghiệp ..................................................................................... 45
2.1.2.2. Chỉ đạo tích cực sản xuất, giành thắng lợi lớn trên mặt trận nông
nghiệp ....................................................................................................... 50
2.2. Đảng bộ tỉnh Nam Hà lãnh đạo khôi phục và phát triển kinh tế nông
nghiệp từ năm 1973 đến năm 1975 ............................................................ 55
2.2.1. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Nam Hà ................................. 55
2.2.2. Đảng bộ tỉnh Nam Hà chỉ đạo thực hiện khôi phục và phát triển kinh tế
nông nghiệp từ năm 1973 đến 1975 .............................................................. 58
2.2.2.1. Tăng cường xây dựng nhân lực và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
nông nghiệp............................................................................................... 58
2.2.2.2 Khơi phục và phát triển nơng nghiệp tồn diện. ............................ 63
Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................... 69
Chƣơng 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM .......................... 70
3.1. Một số nhận xét ................................................................................... 70
3.1.1 Ưu điểm ............................................................................................... 70
3.1.2 Hạn chế ............................................................................................... 79
3.2. Một số kinh nghiệm ............................................................................. 83
Tiểu kết chƣơng 3 ....................................................................................... 90
KẾT LUẬN ................................................................................................. 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 96


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Cuối năm 1964, khi miền Bắc bước vào giai đoạn cuối của kế hoạch 5
năm lần thứ nhất, đế quốc Mỹ đã mở rộng chiến tranh, tiến hành đánh phá
miền Bắc. Với sức mạnh không quân, hải quân, đế quốc Mỹ tập trung phá
hoại các cơ sở quốc phịng, kinh tế, cơng trình giao thông vận tải; ngăn chặn
sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam; hịng làm suy giảm ý chí của quân
dân ta.
Trước tình hình ngày càng cam go, tháng 3/1965, Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa III) lần thứ 11 họp và đề ra phương châm xây
dựng và bảo vệ miền Bắc là: “Vừa xây dựng kinh tế vừa chiến đấu. Nhiệm vụ
xây dựng kinh tế phải phù hợp với tình hình cả nước đang có chiến tranh với
đế quốc Mỹ, mà trong cuộc chiến tranh ấy miền Nam là tiến tuyến lớn và
miền Bắc là hậu phương lớn, nhưng hậu phương ấy cũng đang có chiến tranh
hạn chế và đang trực tiếp chiến đấu; phải sẵn sàng chuyển cho kịp một khi
tình hình chiến sự phát triển” [56, tr.88]. Trung ương Đảng cũng chủ trương
“phải tích cực đẩy mạnh phát triển nông nghiệp cả miền Bắc” [56, tr.89].
Cùng với nhân dân miền Bắc, từ năm 1965 đến năm 1975, nhân dân tỉnh
Nam Hà ra sức phát huy thế mạnh sẵn có về điều kiện tự nhiên để thúc đẩy
sản xuất nông nghiệp phát triển. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ, nhân
dân Nam Hà cố gắng vượt qua khó khăn, gian khổ và giành được những kết
quả, thành tích đáng tự hào, tạo ra sự chuyển biến mạnh trong đời sống nông
thôn lúc bấy giờ. Năng suất lúa 5 tấn/ha với nhiều mơ hình sản xuất, phong
trào thi đua diễn ra trên khắp các hợp tác xã. Nhờ đó, sản xuất nơng nghiệp
khơng chỉ đáp ứng cơ bản nhu cầu lương thực trong tỉnh mà còn đạt và vượt
nghĩa vụ đối với Nhà nước, đảm bảo chi viện cho chiến trường miền Nam.

1


Trước đây, nhiều cơng trình khoa học lịch sử và tài liệu, sách báo nghiên
cứu về nông nghiệp ở miền Bắc hoặc lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước

ở tỉnh Nam Hà nhưng chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu chuyên
sâu, cụ thể về nông nghiệp của tỉnh Nam Hà từ năm 1965 đến năm 1975. Do
vậy, luận văn bổ sung và làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Hà về
nông nghiệp của tỉnh giai đoạn 1965 - 1975. Qua đó, rút ra một số bài học,
kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ về nơng nghiệp,
góp phần giáo dục truyền thống cách mạng địa phương. Với lý do trên, tôi
chọn đề tài “Đảng bộ Nam Hà lãnh đạo phát triển nông nghiệp từ năm
1965 đến năm 1975” làm đề tài luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nông dân của Việt Nam luôn là chủ đề
các học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Nhiều cơng trình khoa học
nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp của Việt Nam đã công bố, tiêu biểu như:
- Cơng trình nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp:
Cuốn Nửa thế kỷ phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam từ 1945 1995, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 1996, của Nguyễn Sinh Cúc, Nguyễn Văn
Tiêm. Cuốn sách trình bày khái quát chủ trương cuả Đảng, Nhà nước về vấn
đề hợp tác hóa, phát triển sản xuất nơng nghiệp, nêu bật vai trị của nơng
nghiệp trong nền kinh tế của quốc gia qua các giai đoạn lịch sử.
Cuốn Hợp tác hóa nơng nghiệp Việt Nam, lịch sử - vấn đề - triển vọng,
NXb Sự thật, Hà Nội, 1972, của nhóm tác giả: Chử Văn Lâm (Cb), Nguyễn
Thái Nguyên, Trần Quốc Toản, Phùng Hữu Phú, Đặng Thọ Vương. Nội dung
cuốn sách tập trung làm rõ những vấn đề đặt ra đối với phong trào hợp tác hóa

2


nơng nghiệp giai đoạn 1958 - 1991, từ đó xác định vấn đề cần nghiên cứu để
đưa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta phát triển theo con đường hợp tác.
Cuốn Đưa nông nghiệp từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1983, của tác giả Nguyễn Huy. Thông

qua cơ sở lý luận và thực tiễn, những thành tích và hạn chế trong xây dựng
hợp tác xã nông nghiệp, phát triển trồng trọt, chăn nuôi, xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật từ năm 1954 đến đầu năm 80 của thế kỷ XX, cuốn sách khẳng
định tính tất yếu phải đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể. Cuốn sách
khái quát về quá trình lãnh đạo của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp từ
1954 - 1982, trong đó tập trung làm rõ hơn bước chuyển biến lớn về cải cách
ruộng đất, khôi phục sản xuất nông nghiệp, tiến hành xây dựng tổ đổi công
từng bước tiến lên xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc.
Cơng trình Đảng lãnh đạo đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp,
xây dựng nông thôn định hướng xã hội chủ nghĩa của Trương Thị Tiến. Từ
giai đoạn 1965 - 1975, tác giả tập trung nêu rõ tác động của cơ chế kế hoạch
hóa tập trung đối với sự phát triển nơng nghiệp.
- Cơng trình nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp của tỉnh Nam Hà:
Vấn đề nông nghiệp Nam Hà được đề cập trong cuốn Lịch sử Đảng bộ
tỉnh Nam Định 1930 - 1975, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013
do Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Định chỉ đạo biên soạn và cuốn Lịch sử
Đảng bộ tỉnh Hà Nam 1927 - 1975, Tập I, 2000 do Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh Hà Nam chỉ đạo biên soạn.
Luận văn thạc sỹ Đảng bộ tỉnh Nam Hà lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ hậu
phương trong cuộc kháng chiế chống Mỹ cứu nước giai đoạn 1965 - 1975, của
Nguyễn Thị Thanh Nhàn, ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn. Luận văn nghiên cứu Đảng bộ tỉnh Nam Hà lãnh đạo

3


việc xây dựng hậu phương, qua đó làm sáng tỏ quá trình thực hiện đường lối
chiến tranh nhân dân của Đảng, đồng thời thấy rõ vai trò của hậu phương đối với
tiền tuyến trong công cuộc kháng chiến cứu quốc và rút ra một số bài học lịch sử
về xây dựng bảo vệ hậu phương chi viện tiền tuyến tại Nam Hà.

Các cơng trình trên chỉ khái qt về kinh tế nơng nghiệp Việt Nam nói
chung và hậu phương Nam Hà giai đoạn 1965 - 1975. Cho đến nay, chưa có
một cơng trình nào nghiên cứu về chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Nam Hà đối với sự phát triển của nông nghiệp giai đoạn 1965 - 1975.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Hà về phát triển nông nghiệp
từ năm 1965 đến năm 1975. Qua đó, đánh giá những thành tựu, hạn chế và rút
ra bài học kinh nghiệm về công tác lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Hà ở giai
đoạn này.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận văn tập trung vào nhiệm vụ sau:
- Trình bày các yếu tố ảnh hưởng đến kinh tế nông nghiệp của tỉnh Nam
Hà và tình hình nơng nghiệp tỉnh Nam Hà trước năm 1965;
- Làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo phát triển nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh
Nam Hà giai đoạn 1965 - 1975;
- Rút ra nhận xét và bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo phát triển nông
nghiệp của Đảng bộ tỉnh Nam Hà giai đoạn 1965 - 1975.

4


4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Hà đối với việc phát triển
nông nghiệp từ năm 1965 đến 1975.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: Từ năm 1965 đến 1975
Không gian: Tỉnh Nam Hà (nay thuộc tỉnh Hà Nam và Nam Định).
5. Nguồn sử liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Nguồn sử liệu
- Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế nông
nghiệp từ năm 1965 - 1975
- Các cơng trình nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp miền Bắc từ năm
1965 - 1975
- Các Nghị quyết, Chỉ thị, Quyết định, Báo cáo kết quả phát triển nông
nghiệp tại tỉnh Nam Hà từ năm 1965 - 1975
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Để thực hiện đề tài, luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử);
- Về phương pháp cụ thể, luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương
pháp logic là chủ yếu. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như:
thống kê, so sánh, phân tích…

5


6. Đóng góp của đề tài
Luận văn đóng góp tư liệu, sự nhìn nhận khách quan, tồn diện về sự
lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nông nghiệp của Đảng bộ Nam Hà trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước giai đoạn 1965 - 1975. Các thắng lợi và
thành tựu của Đảng bộ tỉnh thời kỳ này sẽ là tài liệu giáo dục truyền thống
yêu nước cho thế hệ trẻ. Những kinh nghiệm rút ra có thể vận dụng trong
cơng cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3
chương:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Nam Hà lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển
nông nghiệp giai đoạn 1965 - 1968
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Nam Hà lãnh đạo phát triển nông nghiệp giai

đoạn 1968 - 1975
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm

6


Chƣơng 1
ĐẢNG BỘ TỈNH NAM HÀ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN 1965 - 1968
1.1. Các yếu tố ảnh hƣởng đến kinh tế nông nghiệp của tỉnh Nam Hà và
tình hình nơng nghiệp của tỉnh trƣớc năm 1965
1.1.1. Quá trình hình thành tỉnh Nam Hà
Nam Định và Hà Nam vốn là vùng đất lâu đời với bề dày truyền thống
lịch sử văn hóa. Thời Hùng Vương, nơi đây thuộc bộ Giao Chỉ. Các cư dân
cùng nhau đoàn kết cải tạo tự nhiên, đấu tranh với thú dữ, phòng chống thiên
tai để sinh cơ lập nghiệp. Khi dân cư ngày một đơng, diện tích canh tác ngày
càng mở rộng, người dân bắt đầu khai hoang xuôi theo triền sông, suối để lập
ấp, tạo dựng nơi cư trú. Thời thuộc Đường, Nam Định thuộc huyện Chu
Duyên, đời Trần gọi là lộ Thiên Trường. Thời thuộc Minh, vùng đất này chia
làm 3 phủ: Trấn Nam, Phụng Hóa, Kiến Bình. Năm 1469, Lê Thánh Tơng đặt
thừa tun làm đơn vị hành chính, sau đổi thừa tuyên thành xứ, Nam Định
thuộc xứ Sơn Nam. Năm 1741, xứ Sơn Nam tách thành Sơn Nam Thượng và
Sơn Nam Hạ bao gồm cả phần đất Thái Bình. Năm Minh Mệnh thứ 3 (năm
1822), Sơn Nam Hạ đổi là trấn Nam Định, năm 1831, đổi trấn lập tỉnh với 4
phủ, 18 huyện bao gồm phần đất tỉnh Thái Bình hiện nay. Năm 1890, tỉnh
Thái Bình tách thành tỉnh riêng. Nam Định cịn lại 2 phủ và 9 huyện. Từ năm
1926, tỉnh Nam Định có 2 phủ, 7 huyện, 78 tổng, 708 xã [31, tr.7].
Theo dòng chảy lịch sử, địa giới địa danh và địa giới của tỉnh Hà Nam
đã trải qua nhiều lần tách và sáp nhập. Sau khi thực dân Pháp đặt ách cai trị,
ngày 20/10/1890, tồn quyền Đơng Dương quyết định đem tồn bộ phủ Liêm

Bình, 17 xã của huyện Vụ Bản và huyện Thượng Nguyên (thuộc tỉnh Nam

7


Định) nhập với phủ Lý Nhân (gồm 2 huyện Duy Tiên và Kim Bảng) cùng với
2 tổng Mộc Hoàn, Chuyên Nghiệp (huyện Phú Xuyên, Hà Nội) lập thành tỉnh
Hà Nam [32, tr 8]. Ngày 24/10/1908, châu Lạc Thủy của tỉnh Hịa Bình sáp
nhập vào tỉnh Hà Nam.
Ngày 9/3/1910, đặt tỉnh Hà Nam lệ vào tỉnh Nam Định gọi là Đại lý Hà
Nam. Đến ngày 31/3/1923, xóa bỏ Đại lý thành tỉnh Hà Nam gồm các huyện
Thanh Liêm, Bình Lục, Lý Nhân, Duy Tiên, Kim Bảng, Lạc Thủy và thị xã Phủ
Lý với 44 tổng, 390 xã [32, tr.8].
Đến năm 1953, 7 xã miền thượng huyện Nghĩa Hưng sáp nhập vào
huyện Ý Yên, đồng thời 3 huyện Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên nhập vào tỉnh Hà
Nam. Đến tháng 3/1956, 3 huyện này lại tách về tỉnh Nam Định như trước
[32, tr.8].
Năm 1957, huyện Lạc Thủy tách khỏi tỉnh Hà Nam nhập vào tỉnh Hịa
Bình. Tỉnh Hà Nam lúc này cịn lại 5 huyện (Lý Nhân, Kim Bảng, Thanh
Liêm, Bình Lục, Duy Tiên) và 1 thị xã Phủ Lý.
Ngày 21/4/1965, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 103NQ/TVQH, sáp nhập hai tỉnh Hà Nam và Nam Định thành một đơn vị hành
chính mới lấy tên là tỉnh Nam Hà [32, tr.379]. Tỉnh lỵ đặt tại thành phố Nam
Định. Tên Nam Định vẫn tồn tại với tư cách là thành phố Nam Định trực
thuộc tỉnh. Lúc này tỉnh Nam Hà có diện tích rộng 2.304km2 có trên 2 triệu
dân [70, tr.6].
Đến ngày 27/12/1975, Quốc hội khoá V, kỳ họp thứ hai quyết nghị hợp
nhất hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình thành một tỉnh mới lấy tên là Hà Nam
Ninh [32, tr.501-502]. Tỉnh lỵ đặt tại thành phố Nam Định.

8



Ngày 26/12/1991, Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 10 ra Nghị quyết chia
tỉnh Hà Nam Ninh thành hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình. Tỉnh Nam Hà có 13
đơn vị hành chính, tỉnh Nam Hà tái lập.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 10 ngày
6/11/1996 về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, tỉnh
Nam Hà chia thành 2 tỉnh Hà Nam và Nam Định.
1.1.2 Điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội
1.1.2.1 Điềiu kiện tự nhên
Nam Hà nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ. Trên bản đồ hành chính,
phía Tây Bắc giáp tỉnh Hà Tây và Hịa Bình, phía Đơng Nam giáp vịnh Bắc
Bộ, phía Tây Nam giáp tỉnh Ninh Bình, phía Bắc và Đơng Bắc giáp tỉnh Thái
Bình và Hải Hưng. Tỉnh Nam Hà có diện tích 2.292km2 trong đó diện tích
canh tác là 1.442 km2, chiếm 70% tổng diện tích. Theo điều tra dân số tính
đến cuối năm 1965, tỉnh có 1.719.365 người, bình qn là 740 người/km2.
Nếu chia theo diện tích canh tác là 2,7 sào/người [62, tr.9].
Tỉnh Nam Hà gồm có 12 huyện, 1 thành phố và 1 thị xã. Phía Nam của
tỉnh gồm 4 huyện: Nghĩa Hưng, Hải Hậu, Xuân Thủy, Nam Ninh. Các huyện
này thuộc đồng mùa cấy 2 vụ lúa/năm. Cịn lại các huyện ở phía Bắc tỉnh
thuộc đồng chiêm trũng, trước đây nhân dân thường chỉ cấy 1 vụ chiêm cịn
vụ mùa thì bấp bênh hoặc là chỉ gieo trồng ở một số vùng nhất định [62, tr.9].
Dù là tỉnh đồng bằng nhưng địa hình khơng bằng phẳng mà mấp mơ,
lượn sóng. Phía Tây Bắc là khu vực bán sơn địa gồm một phần các huyện
Thanh Liêm, Kim Bảng, tiếp đến là khu đồng chiêm trũng và sau là khu đồng
màu ven biển. Các huyện giáp với tỉnh Hà Tây cao từ 3-4m, đến sơng Châu
Giang cịn từ 1,5-2m, sang bên kia sơng Châu Giang độ cao cịn khoảng 1,5m,
tiến về phía sơng Đào (vùng đồng chiêm) cao từ 0,5 - 1,2m, qua sông Đào là

9



0,8m - 1,0m, đến Nam Trực là từ 1,5m - 2m, ra đến biển còn từ 0,6m - 1m.
Khu vực đất trũng đồng chiêm có thể nói là chỗ đựng nước của các nơi đổ
đến nhất là vùng núi phía Tây Bắc, làm cho đất bị úng hằng năm. Diện tích
đồng bằng ven biển với bãi cát ven biển là 32.048ha [62, tr.9].
Phía Tây tỉnh Nam Hà có vùng rừng núi nối liền với dãy núi đá vơi Ba
Vì thuộc tỉnh Hịa Bình và Hà Tây, có độ cao trung bình là từ 200 - 450m
chạy từ huyện Kim Bảng đến giáp huyện Ý Yên, dài 39km với diện tích là
406ha [62, tr.10]. Hai huyện Thanh Liêm và Kim Bảng có 511ha rừng rậm,
trong đó có rừng bương gồm hàng triệu cây chưa khai thác. Dưới các triền núi
là thung lũng làm nơi chăn ni gia súc như trâu, bị, dê. Hai huyện này cịn
có 3.609ha đồi trọc trồng các loại cây như chè, trẩu, trong đó có các vùng Đồi
Thị, Bồng Lạng, Do Lễ là nổi tiếng hơn cả: Ai về Bồng Lạng, Liên Sơn; Uống
chè Đồi Thị ngon hơn chè tầu” [87, tr.15]. Ngoài ra, chiếm một phần diện tích
đất đai trên địa bàn tỉnh Nam Hà là khu vực bán sơn địa với diện tích phần nhiều
là đồi đất trọc hoặc một số diện tích được người dân canh tác để trồng chè.
Khi gió mùa đơng bắc tràn về làm nhiệt độ giảm xuống, cùng với ảnh
hưởng của núi đá vôi nhiệt độ lại càng xuống thấp hơn, nhất là nơi thung
lũng, lịng chảo giam hãm khơng khí lạnh. Mùa hè thì nóng nực, khơ hanh,
gây ra thời tiết khơ nóng nhất là khu vực đồi trọc. Địa hình đồi núi phía Tây
Bắc có ảnh hưởng lớn đến chế độ mưa.Về mùa hè, khi gió mùa đơng nam thổi
tới, gặp bức bình phong chắn gió gây ra mưa lớn và thường xun có dơng,
làm cho khu vực đồi núi trở thành trung tâm mưa lớn nhất của tỉnh. Mùa mưa
kéo dài tới 7 - 8 tháng [62, tr.10].
Tỉnh Nam Hà có 72km đường ven biển tạo điều kiện cho các huyện phía
Nam tỉnh có khí hậu tương đối dễ chịu khi mùa đông trời rét dịu, ấm, mùa hè

10



tiết trời mát mẻ. Vùng ven biển có gió đất biển thổi từ biển vào và ban đêm
gió từ đất liền thổi ra làm cho khơng khí dễ chịu [62, tr.10].
Ngồi ra, địa bàn tỉnh có nhiều sơng ngịi, phân bố chằng chịt. Sông lớn
là sông Hồng và phân lưu của sông Hồng là sông Đáy cùng các sông phụ lưu
khác là sông Ninh Cơ, sông Đào, sông Sắt.
Đoạn Sông Hồng chạy qua địa bàn tỉnh Nam Hà dài 114km và trở thành
ranh giới tự nhiên ngăn cách Nam Hà với các tỉnh Hải Hưng 1, Thái Bình.
“Sơng Hồng có hàm lượng phù sa nhiều, tăng màu mỡ cho đất đai, đồng
ruộng. Mùa mưa nước sông dâng cao,đã giải quyết vấn đề nước tưới khá tốt
cho đồng ruộng các huyện Duy Tiên, Kim Bảng và 4 huyện phía Nam của
tỉnh” [62, tr.11]. Trong khi đó, với các khu vực thuộc đồng chiêm trũng, vấn
đề tiêu nước gặp khó khăn do nước đồng thấp hơn nước sông. Mùa khô, nước
sông xuống khá thấp. Mực nước trung bình là 0,60m, cao nhất là 1,66m, thấp
nhất là 0,24m [62, tr.11].
Sông Đáy là nhánh của sông Hồng chảy vào tỉnh Nam Hà dài 101km,
ngăn cách vùng đồng bằng với vùng bán sơn địa và trở thành ranh giới tự
nhiên giữa tỉnh Ninh Bình và tỉnh Nam Hà. Sơng Đáy có tác dụng tiêu nước
cho các huyện phía Tây tỉnh. Mùa mưa nước chảy xiết, mực nước sông cao
hơn đồng nên gây ra úng thủy cho khu vực đồng chiêm trũng. Mực nước
trung bình mùa mưa cao nhất là 1,13m, thấp nhất là 0,36m. Mùa khơ, mực
nước hạ xuống trung bình 0,40m, do đó việc tưới tiêu cho các cánh đồng gặp
nhiều khó khăn [62, tr.11].
Sông Ninh Cơ là chi lưu của sông Hồng dài 54km, mùa mưa có tác dụng
phân lũ sơng Hồng, mang nước phù sa bồi đắp cho các huyện Nghĩa Hưng,
Hải Hậu, tiêu nước cho 2 huyện Nam Ninh, Nghĩa Hưng, tưới nước cho các
1

Tỉnh Hải Hưng nay là 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên.


11


huyện Xuân Thủy, Hải Hậu, Trực Ninh. Mực nước trung bình 0,49m, cao
nhất 1,66m, thấp nhất 0,53 m [62, tr.11].
Sơng Đào do nhân dân góp cơng sức xây dựng và có tên gọi khác là sơng
Nam Định. Sơng Đào là một phân lưu của sông Hồng và chi lưu của sông
Đáy. Sông đưa một phần nước của sông Hồng đổ vào sông Đáy và chảy
ra biển Đông. Đoạn chạy qua địa bàn tỉnh có chiều dài 33km, phân chia khu
vực đồng chiêm trũng với khu vực chịu ảnh hưởng thủy triều của 4 huyện
phía Nam tỉnh. Mùa mưa, sơng có tác dụng phân lũ sông Hồng, đem phù sa bồi
đắp cho đồng ruộng và tiêu tưới nước cho các huyện Nam Trực, Nghĩa Hưng
đồng thời góp phần tưới tiêu cho khu đồng chiêm trũng. Mùa mưa mực nước
trung bình đạt 1,72m. Mùa khơ mực nước trung bình đạt 0,57m [62, tr.12].
Nhìn chung, Nam Hà có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp. Người dân canh tác quanh năm, cây trồng có thể hồn thành vịng
sinh trưởng nhanh chóng, có thực vật phong phú. Vùng ven biển Nam Hà có
chế độ thủy triều thuận lợi cho việc tưới nước vào ruộng để chống hạn.
Tuy nhiên, thời tiết hay có diễn biến thất thường. Hằng năm, vùng ven
biển của tỉnh phải hứng chịu nhiều cơn bão làm ảnh hưởng đến sản xuất và
sinh hoạt của người dân.
Chế độ thủy văn Nam Hà có một hệ thống sơng và chi lưu dày đặc, mùa
mưa tập trung 6 - 7 tháng (chiếm đại bộ phận nước mưa cả năm) [62, tr.13].
Bên cạnh đó, tỉnh Nam Hà cịn nằm ở hạ lưu nên vào mùa mưa, nước từ
thượng nguồn đổ về thường gây ra lũ lụt, nhất là vùng chiêm trũng.
Về mùa khô, mực nước các sông đặc biệt sông Hồng xuống khá thấp,
chỉ những chân ruộng thấp dưới 0,6m mới tưới được nước [62, tr.11]. Tại các
huyện ven biển nước mặn xâm lấn vào mạch nước ngầm gây nhiều khó khăn
cho canh tác, cải tạo đất. “Tính trung bình từ năm 1959 đến năm 1962, trong


12


vụ chiếm diện tích bị bỏ hóa vì mặn là 2.598ha, cao nhất là năm 1959 tới
3.986ha” [62, tr.13].
1.1.2.2 Điều kiện xã hội
Quá trình xây dựng và cải tạo tự nhiên là một quá trình lịch sử lâu dài với
sự chinh phục và chiến thắng tự nhiên của các thế hệ con người nơi đây. Q
trình đó đã dần hình thành truyền thống đoàn kết, xây dựng một cộng đồng có
tính cấu kết cao.
Sau khi sáp nhập, tỉnh Nam Hà có 163.713ha ruộng đất canh tác [70, tr.29].
Người dân cùng nhau đoàn kết, khai phá đất đai, mở rộng diện tích canh tác,
đồng thời thực hiện các biện pháp thâm canh tăng vụ, nâng cao năng suất và sản
lượng cây trồng. Từ vùng chiêm trũng quanh năm lụt lội, các thế hệ phải “sống
ngâm da, chết ngâm xương”, người dân phía Bắc tỉnh đã cải tạo đồng đất trở nên
phì nhiêu, màu mỡ, một năm có 2 vụ chiêm và mùa.
Nơi đây còn là vùng đất thiêng để các bậc đế vương chọn làm nơi cày
ruộng tịch điền hằng năm, cầu mong một mùa màng tươi tốt, bội thu. Năm
987, sau khi lên ngơi Hồng Đế, vua Lê Hồn dạy dân cày ruộng ở chân núi
Đọi (tỉnh Hà Nam ngày nay).
Người dân Nam Hà với bản tính kiên trì, sự sáng tạo, khéo léo, bàn tay
tài hoa ghi dấu trên tất cả các di tích lịch sử, văn hóa qua các triều đại. Trong
quá trình lao động sản xuất đầy khó khăn, cha ơng đúc rút nhiều kinh nghiệm
q báu trong việc thâm canh cây lúa và hoa màu, tạo nên những sản phẩm
nông nghiệp nổi tiếng như gạo tám xoan ở các huyện Nghĩa Hưng, Hải Hậu,
Xuân Trường, Giao Thủy, khoai lang limở Chợ Chùa, làng hoa Vị Khê.
Ngoài ra, quê hương còn nổi tiếng với ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền
thống như: Nghề mộc ở Trịnh Xá (huyện Bình Lục), Cao Đà (huyện Lý
Nhân); nghề khảm trai, chạm sừng ở làng Đơ Hai (huyện Bình Lục); làng dệt


13


lụa Nha Xá (huyện Duy Tiên), làng hoa cây cảnh Vị Khê (huyện Nam Trực),
mây tre đan ở Thạch Cầu (huyện Nam Trực), sơn mài, mây tre đan Yên Tiến
(huyện Ý Yên)…
Nam Định và Hà Nam vốn nổi tiếng là cái nôi sản sinh và nuôi dưỡng
nhiều người con ưu tú có đóng góp to lớn cho quê hương, đất nước. Với bản
tính cần cù, chịu khó, sáng tạo trong lao động sản xuất và kiên cường, bất
khuất, anh dũng trong chiến đấu, do đó mỗi giai đoạn, những người con Nam
Định và Hà Nam đều thể hiện dấu ấn, vị trí nhất định trong lịch sử của quê
hương, đất nước.
Các thế hệ người dân Nam Định và Hà Nam tạo dựng nên mảnh đất địa
linh nhân kiệt với truyền thống lịch sử anh hùng và bản sắc văn hóa phong phú.
Những con người nơi đây luôn kiên cường, anh dũng khơng khuất phục trước
khó khăn, thử thách. Nhân dân đồn kết một lịng quyết tâm xây dựng và bảo vệ
vững chắc quê hương, đưa kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
1.1.3 Tình hình kinh tế nơng nghiệp của tỉnh trước năm 1965
Về tình hình thực hiện phong trào hợp tác hóa nơng nghiệp: Trước năm
1965, hai tỉnh Nam Định, Hà Nam đã hoàn thànhj xây dựng tổ đổi cơng và
bắt đầu đi vào thực hiện hợp tác hóa nơng nghiệp. Năm 1961, tỉnh Nam Định
có 91% số hộ nông dân vào hợp tác xã. Cuối năm 1962, tỉnh Hà Nam có
95,75% số hộ nơng dân tham gia vào 750 hợp tác xã nông nghiệp, tỷ lệ hợp
tác xã bậc cao tăng lên 33,1% [32, tr.339].
Từ năm 1963, hai tỉnh Nam Định và Hà Nam tổ chức mở rộng cuộc vận
động cải tiến quản lý hợp tác xã, nhờ vậy các mặt sản xuất có bước phát triển,
cơ sở sản xuất phục vụ kinh tế nông nghiệp được xây dựng nhiều hơn trước,
cơng tác quản lý có nhiều tiến bộ và đến năm 1964 hồn thành vịng I của

14



cuộc vận động cải tiến quản lý. Từ năm 1964, tỉnh tiếp tục tiến hành thực hiện
cải tiến quản lý hợp tác xã vịng II.
Tính đến cuối năm 1964, tồn tỉnh Hà Nam có “132 xã và 99,5% số hợp
tác xã đã xây dựng xong quy hoạch thủy lợi, 97,5% số hợp tác xã tổ chức
được 729 đội thủy lợi chuyên môn” [32, tr.361]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
bộ tỉnh cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp tiến hành 5 đợt
và giành kết quả đáng ghi nhận, đánh dấu một bước trong việc củng cố và
tăng cường quan hệ sản xuất mới về mọi mặt bước đầu kinh tế tập thể phát
triển, xây dựng cơ sở vật chất, vốn tích lũy cho tập thể có nhiều tiến bộ.
Cơ sở hạ tầng phục vụ nơng nghiệp được đầu tư, góp phần tích cực đưa
nơng nghiệp phát triển. Năm 1964, Nhà nước đầu tư xây dựng một đường
điện cao thế 35KV từ Văn Điển (Hà Nội) đi Hà Nam - Nam Định và 7 trạm
bơm điện với 175 máy nhằm tiêu úng cho 7.536ha và chống hạn cho khoảng
11.880ha đất canh tác. Đến ngày 25/9/1964, trạm bơm điện Cổ Đam khởi
công xây dựng với công suất thiết kế 5 triệu m3/ngày. Đây là cơng trình đại
thủy nơng có vị trí rất quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp của 2 tỉnh Hà
Nam và Nam Định. Sau khi hồn thành, cơng trình đảm bảo tiêu úng cho
18.000ha lúa mùa, chống hạn cho 12.600ha lúa vụ chiêm thuộc 3 huyện Bình
Lục, Thanh Liêm và Ý Yên [32, tr.360-361]. Vào cuối năm 1964, tỉnh Hà Nam
đã xây dựng 11 trạm bơm điện với 89 máy bơm và 144 máy bơm dầu [32, tr.361].
Trước năm 1965, nhân dân Nam Hà đạt nhiều thành tích trong cơng tác
thủy lợi, là tiền đề thúc đẩy nông nghiệp phát triển vào giai đoạn sau. Chỉ 2
năm 1964 - 1965, người dân đóng góp trên 50 triệu ngày cơng, đào đắp 66
triệu thước khối đất, xây đắp 102.000m3 đá và 28.000m3 bê tông bằng cả khối
lượng đào đắp 30 năm thời Pháp thuộc và gấp 2 lần về khối lượng đào đắp, 4
lần về khối lượng xây đắp của 3 năm làm thủy lợi (1961, 1962, 1963) [3, tr.4].

15



Tồn tỉnh xây 257 cơng trình thủy lợi loại vừa và loại lớn, hàng nghìn cơng
trình loại nhỏ. Nhờ tác dụng tích cực của thủy lợi đã cải tạo 21.000ha ruộng
vùng chiêm trũng, 7.000ha vùng chua, mặn hạn chỉ cấy 1 vụ chuyển sang 2
vụ, bước đầu phục vụ thâm canh, phục vụ trồng cây hoa màu [34, tr.6].
Thực hiện thủy lợi gắn bó chặt chẽ với giao thơng vận tải, với phong
trào “giải phóng đối vai”, nhân dân tích cực tham gia tu sửa, xây mới
đường sá nông thôn thuận tiện cho đi lại, vận chuyển. Tháng 6/1964, tỉnh
Hà Nam hoàn thành 1.754km đường các loại với hơn 6,5 triệu m3 đất và
gần 4 triệu ngày công để xây dựng 44 cầu, 246 cống, đóng 1.648 xe và
6.351 thuyền các loại. Tỷ lệ giải phóng đơi vai tăng từ 50,4% năm 1963
lên 76% năm 1964 [32, tr.363].
Trước năm 1965, các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát
triển, phục vụ tốt hơn cho sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân.
Việc phát triển cơng nghiệp có tác dụng tốt đối với việc phân công và sử dụng
hợp lý sức lao động của nhân dân và hỗ trợ đối với công nghiệp Trung ương.
Năm 1964, giá trị tổng sản lượng công nghiệp, thủ công nghiệp vượt 4,8% so
với kế hoạch [32, tr.365]. Công nghiệp sản xuất một số sản phẩm mới phục
vụ sản xuất nông nghiệp như máy xát gạo, máy tuốt lúa chạy động cơ điện,
máy nghiền thức ăn gia súc và trang bị cơ khí nhỏ cho 27 hợp tác xã[32,
tr.365]. Đối với ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nông cụ cải tiến phục vụ
nông nghiệp, phục vụ thuỷ lợi như xe vận chuyển, guồng nước có ổ bi, cày,
tời, bừa cỏ, máy chẻ cói, máy nghiền bột, thái rau... Với tinh thần khẩn
trương, tích cực sản xuất, nhiều tư liệu như cày, bừa cải tiến, cào cỏ đạt vượt
kế hoạch. Ngành xây dựng cơ bản đầu tư 3,719 triệu đồng phục vụ cho xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật [32, tr.366].

16



Tính đến năm 1964, giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp tăng hơn
nhiều so với các giai đoạn trước. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp, thủ công
nghiệp tăng 6% so với cùng kỳ năm 1962, trong đó, công nghiệp quốc doanh
tăng 8,7%, thủ công nghiệp tăng 3,6% [32, tr.365].
Tính đến năm 1965, sản xuất nơng nghiệp của 2 tỉnh Hà Nam và Nam
Định đều đạt kết quả cao. Đầu năm 1965, tỉnh Nam Định có 18 hợp tác xã đạt
và vượt năng suất 5 tấn/ha, có hợp tác xã thôn Nội, xã Nam Ninh huyện Nam
Trực đạt tới 6,5 tấn/ha trên tồn bộ diện tích. Các vùng sản xuất tập trung và
vùng trọng điểm trồng lúa, dâu tằm, mía, lạc, cói hình thành. Ngồi ra, nhiều
loại hoa màu, cây cơng nghiệp vượt kế hoạch về diện tích, năng suất, dâu tằm
phát triển gấp 2 lần năm trước [7, tr.5].
Chăn ni có chuyển biến lớn với sự phát triển của phong trào ni lợn
tập thể. Tồn tỉnh Nam Định có 104 hợp tác xã ni 3.105 con lợn, gấp 5 lần
năm 1963 [32, tr.364]. Đàn gia súc phát triển nhanh, đáp ứng yêu cầu sức kéo
trong canh tác.
Đời sống của xã viên ngày càng cải thiện, thu nhập ngày một tăng, nộp
thuế và bán cho Nhà nước là 25 tấn, năm 1964 là 26 tấn và năm 1965 là 55
tấn[34, tr.4].
Bên cạnh kết quả đạt được, sản xuất nông nghiệp của tỉnh Nam Định và
Hà Nam trước năm 1965 vẫn tồn tại một số hạn chế như: Quy mơ phát triển
của hợp tác xã cịn nhỏ, trình độ sản xuất và kỹ thuật còn lạc hậu, manh mún,
phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Mặc dù việc cải tiến quản lý và cải
tiến kỹ thuật song nông cụ sản xuất vẫn cịn thơ sơ, hiệu quả lao động chưa
cao. Năng suất các loại cây trồng còn bấp bênh, việc mở rộng hoạt động cơ
giới còn hạn chế [34, tr.7].

17



Như vậy, trước năm 1965, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Nam,
Nam Định, thắng lợi về phát triển sản xuất và cuộc vận động cải tiến quản lý
hợp tác xã nông nghiệp đánh dấu một bước trong việc củng cố và tăng cường
quan hệ sản xuất mới về mọi mặt, bước đầu kinh tế tập thể phát triển, cơ sở
vật chất xây dựng, vốn tích luỹ cho tập thể có nhiều tiến bộ. Trình độ quản lý,
ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa của xã viên nâng cao. Trong giai đoạn lịch
sử mới, Đảng bộ Nam Hà quyết tâm lấy kết quả làm động lực và hạn chế, khó
khăn làm bài học kinh nghiệm để nhân dân tiếp tục hoàn thành thắng lợi
nhiệm vụ vừa xây dựng và bảo vệ quê hương vừa chiến đấu đánh thắng đế
quốc Mỹ xâm lược.
1.2 Đảng bộ tỉnh Nam Hà lãnh đạo về phát triển kinh tế nôngnghiệp từ
năm 1965 đến năm 1968
1.2.1 Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nam Hà về phát
triển kinh tế nông nghiệp
Từ đầu năm 1965, đế quốc Mỹ đưa chuyên gia và quân nước đồng minh
vào miền Nam Việt Nam, bắt đầu tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ”,
đồng thời mở rộng chiến tranh ra ngoài miền Bắc. Nhân dân cả nước phải
bước vào thời kỳ chiến đấu mới với nhiều thuận lợi và khó khăn. Sau khi thực
hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất, cơ sở vật chất xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc được củng cố, sự chi viện cho cách mạng miền Nam
ngày càng nhiều theo cả đường bộ và đường biển. Tuy nhiên, việc đế quốc
Mỹ mở "chiến tranh cục bộ" ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ và các nước
đồng minh vào trực tiếp xâm lược miền Nam làm cho tương quan lực lượng
trở nên bất lợi cho ta.
Tình hình đó đặt ra u cầu mới cho Đảng ta trong việc xác định quyết
tâm và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhằm đánh thắng

18



giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Hội nghị
Trung ương lần thứ 11 (hội nghị đặc biệt) (tháng 3/1965) và lần thứ 12 (tháng
12/1965) tập trung đánh giá tình hình và đề ra đường lối kháng chiến chống
Mỹ cứu nước.
Hội nghị lần thứ 11 xác định miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là
hậu phương lớn. Nhiệm vụ cấp bách của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc là phải kịp thời chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây
dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho phù hợp với tình hình
mới. Nghị quyết Hội nghị khẳng định: “Phát triển sản xuất nông nghiệp phải
đi sâu vào từng vùng, trên cơ sở khảo sát quy hoạch, có hướng phát triển
thích hợp với điều kiện và tính chất của từng vùng, phù hợp với yêu cầu mới,
khẩn trương giải quyết cho bằng được vấn đề ăn, mặc, trước hết là vấn đề ăn
của quân đội và nhân dân” [56, tr.74-75].,
Trong sản xuất nông nghiệp, Đảng ta xác định cần tiếp tục đẩy mạnh cải
tiến quản lý, cải tiến lao động, đưa nơng nghiệp phát triển. Ngày 21/8/1965,
Ban Bí thư ra Chỉ thị số 107-CT/TW về việc tiếp tục một bước mới cuộc vận
động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất nông
nghiệp ở các tỉnh vùng đồng bằng và trung du. Mục tiêu của cuộc vận động
là: “Trong thời gian vài ba năm, phải cố gắng đưa năng suất bình quân lên 50
tạ/ha, đưa năng suất và sản lượng hoa màu lên một cách chắc chắn, tích cực
phát triển trồng rau bốn mùa, phát triển cây cơng nghiệp một cách có trọng
điểm, ra sức đẩy mạnh chăn nuôi, làm cho chăn nuôi và trồng trọt cân đối
hơn” [56, tr.383].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của BCH TW Đảng khẳng định “Phải
đẩy mạnh sản xuất nơng nghiệp trong bất cứ hồn cảnh khó khăn nào và tiến
những bước mới trong hai năm tới 1966-1967… Phải tích cực phấn đấu phát

19



×