Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Chế độ tỷ giá theo luật định (de jure) và chế độ tỷ giá thực tế của việt nam giai đoạn 2008 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (828.53 KB, 24 trang )

1
A. Lý thuyết
I. Chế độ tỷ giá cố định
NHTW công bố và cam kết can thiệp để duy trì tỷ giá cố định (gọi là tỷ giá trung tâm ) trong một
biên độ dao động hẹp đã được định trước ( thường là 1%)
Ưu điểm:

Thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế

Buộc chính sách kinh tế vĩ mơ phải có kỷ luật hơn

Thúc đẩy hợp tác quốc tế
Nhược điểm: Hoạt động đầu cơ bất ổn
II.
Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn
Tỷ giá được xác định hoàn toàn tự do theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối mà khơng có
bất cứ một can thiệp nào của NHTW
Ưu điểm:

Đảm bảo sự cân bằng của cán cân thanh tốn

Đảm bảo tính độc lập của CSTT

Giúp nền kinh tế trở nên độc lập hơn

Góp phần ổn định kinh tế

Đầu cơ giúp ổn định thị trường
III.
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết
Tỷ giá được xác định dựa trên quan hệ cũng cầu trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, NHTW


vẫn có thể tiến hành can thiệp nhằm duy trì tỷ giá nhưng khơng nhằm cố định tỷ giá.
Là chế độ tỷ giá trung gian giữa chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn.
IV. Chế độ tỷ giá thực tế ( de facto exchange rate regime)
1. Sự khác nhau giữa chế độ tỷ giá thao luật định ( de jure) và chế độ tỷ giá theo thực tế ( de
-

facto)
De jure ER: là chế độ tỷ giá mà chính phủ (đại diện là NHTW) cơng bố chính thức.
De facto ER: căn cứ vào sự biến động của tỷ giá trên thực tế, IMF đưa ra một số tiêu chí để phân

loại các chế độ tỷ giá.
2. Phân loại chế độ tỷ giá
Theo IMF, chế độ tỷ giá được phân thành các loại sau:

Chế độ tỷ giá khơng có tiền tệ theo pháp định riêng

Chế độ bản vị tiền tệ

Chế độ tỷ giá cố định thơng thường

Chế độ tỷ giá cố định có biên độ dao động rộng

Chế độ tỷ giá cố định bị trườn

Chế độ tỷ giá có biên độ dao động bị trườn

Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết khơng thơng báo trước

Chế độ tỷ giá thả nổi hồn toàn
B. Thực trạng

I. Giai đoạn 2008-2010
1. Chế độ tỷ giá theo luật định (de jure)
Căn cứ vào điều 30 Pháp lệnh ngoại hối và Điều 39 NĐ 160/2006/NĐ-CP thì cơ chế tỷ giá Việt
Nam là cơ chế thả nổi có sự điều tiết cụ thể là tại điều 39 NĐ 160/NĐ-CP đã chỉ rõ “Tỷ giá hối đoái
của đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện điều tiết tỷ giá hối đối thơng qua việc sử dụng


2
các cơng cụ của chính sách tiền tệ và thực hiện phương án mua bán trên thị trường ngoại tệ “ và
“ Cơ chế tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý do Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam xác định trên cơ sở rổ tiền tệ của các nước có quan hệ thương mại, vay, trả nợ, đầu tư
với Việt Nam phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ”.
1.1. Về yếu tố thả nổi:
Trong một thời gian dài khi mà nhà nước cịn có sự “bảo hộ” về tỷ giá đối với các doanh nghiệp,tỷ
giá của VND với các đồng tiền khác được giữ ở mức ổn định tương đối nhằm tạo thuận lợi cho hoạt
động xuất khẩu,hạn chế rủi ro tỷ giá nhưng khi mà sự hội nhập vào kinh tế toàn cầu ngày càng trở nên
sâu rộng và thực chất thì hội nhập về tỷ giá là điều không thế tránh khỏi.Do vậy,sự bảo hộ về tỷ giá
của NHNN đang dần được nới lỏng theo hướng thả nổi nhiều hơn.Điều này thể hiện rất rõ khi những
năm gần đây NHNN thường xuyên có những sự điều chỉnh biên độ dao động cho phù hợp với những
biến động của thị trường theo hướng lỏng hơn. Việc nới lỏng biên độ dao động tỷ giá là một nhu cầu
thiết thực đế đưa công tác điều chỉnh tỷ giá tiến gần tới các quy luật thị trường hơn, hay cũng đồng
nghĩa với việc tự' do hóa dần các giao dịch ngoại tệ. Khi thị trường hối đối thế giới có biến động
mạnh, các quy định hành chính về biên độ có thế làm đóng băng thị trường ngoại tệ trong nước,
khuyến khích các hoạt động phi pháp. Theo nguyên tắc của cơ chế tỷ giá thả nối có điều tiết do NHNN
Việt Nam quy định ,NHNN sẽ không chủ quan trực tiếp ấn định tỷ giá chính thức mà sẽ chỉ thơng báo
tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng.Mà tỷ giá bình quân liên ngân hàng lại là do cung cầu trên
thị trường liên ngân hàng quyết định.
Trên cơ sở tỷ giá bình quân liên ngân hàng ,các NHTM sẽ xác định tỷ giá kinh doanh theo quy tắc
sau:

Tỷ giá kinh doanh =TGBQLNH *(1 ± x)
Tức là : Tỷ giá bán ra(max) =TGBQLNH*(1 + x)
Tỷ giá mua vào (min) = TGBQLNH*(l-x)
(x là biên độ dao động do NHNN quy định)
Như vậy yếu tổ thả nổi trong tỷ giá kinh doanh chính là đại lượng TGBQLNH.

1.2. Về yếu tố điều tiết:
Tỷ giá giao dịch không được tự do biến động theo cung cầu trên thị trường liên ngân hàng mà sự
biến động chỉ được giới hạn trong biên độ giao dịch do NHNN quy định ± x% so với tỷ giá của ngày
giao dịch trước đó. Trong một ngày giao dịch, do ảnh hưởng của cung cầu trên thị trường ngoại hối
nên tỷ giá giao dịch có thế có những thay đơi đột biến vượt ra ngoài biên độ giao dịch cho phép,tuy
vậy tỷ giá luôn là cố định trong một ngày giao dịch bất chấp những thay đổi đó.
Như đã nói ở phần trên,yếu tố thả nổi trong tỷ giá kinh doanh chính là đại lượng tỷ giá bình quân
liên ngân hàng .Nhưng vì đây là tỷ giá bình quân ,nghĩa là phải do NHNN tính tốn dựa trên tỷ giá
giao dịch của các ngân hàng ,trong khi đó NHNN lại là người độc quyền điều hành,đồng thời cũng độc


3
quyền tính tốn,độc quyền thơng báo tỷ giá bình qn liên ngân hàng,do vậy trong một chừng mực
nào đó thì chỉ số TGBQLNH vẫn chưa hồn tồn thốt ly khỏi ý chí chủ quan của NHNN trong việc
điều hình tỷ giá nhằm đảm bảo một mức tỷ giá có lợi và phù hợp cho các hoạt động của nền kinh
tế,đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu,hạn chế rủi ro tỷ giá cho các doanh nghiệp.
Ngồi ra,NHNN cịn sử dụng một hệ thống các công cụ tác động lên tỷ giá gồm các công cụ trực
tiếp và gián tiếp.
1.2.1.

Các công cụ tác động trực tiếp lên tỷ giá :

 Nghiệp vụ thị truờng mở nội tệ : Đây là nghiệp vụ dễ dàng thực hiện và có tác động trực tiếp
đến tỷ giá hối đoái. Nghiệp vụ này tác động đến cung tiền trong nuớc, NHTW đóng vai trị là

người mua bán tiền tệ trực tiếp cuối cùng trên thị trường liên ngân hàng tại một mức tỷ giá nào
đó. Để cơng cụ này có hiệu quả thì quốc gia phải có lượng dự trữ ngoại tệ lớn.
 Nghiệp vụ thị trường mở thuần tuý : Nghiệp vụ này được sử dụng đế thay đổi lượng cung tiền
lưu thông từ đó làm thay đối tỷ giá hoặc lãi suất thơng qua việc mua bán các giấy tờ có giá.
 Nghiệp vụ kết hối : Là việc chính phủ quy định với các thế nhân và pháp nhân có nguồn thu
ngoại tệ phải bán một tỷ lệ nhất định trong một thời hạn nhất định cho các tổ chức được phép
kinh doanh ngoại hối. Biện pháp này được áp dụng trong thời kỳ khan hiếm ngoại tệ giao dịch
trên thị trường ngoại hổi.
1.2.2.

Các công cụ tác động gián tiếp lên tỷ giá :
 Lãi suất chiết khấu
 Thuế quan
 Hạn ngạch: có tác dụng hạn chế nhập khẩu do đó có tác dụng lên tỷ giá tương tự như

thuế quan
 Giá cả
 Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các NHTM
 Quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn đối với tiền gửi bằng ngoại tệ
2. Chế độ tỷ giá thực tế (de factor)
Việt Nam đã có nhiều điều chỉnh trong cơ chế tỉ giá kể từ khi đất nước chấm dứt cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp năm 1989. Tuy nhiên, xét về bản chất các thay đổi này đều xoay
quanh chế độ neo tỉ giá. Ở Việt Nam, đồng USD gần như được mặc định là đồng tiền neo tỉ
giá. Ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNN) là cơ quan công bố tỉ giá VND/USD. Căn cứ
vào tỉ giá quốc tế giữa USD và các đồng tiền ngoại tệ khác, các ngân hàng thương mại sẽ xác lập tỉ giá
giữa các ngoại tệ đó với VND. Trên nền tảng chính sách neo tỉ giá, trong những giai đoạn nền kinh tế
bị biến động mạnh do cải cách ở bên trong hoặc do tác động từ bên ngoài, NHNH đưa ra
những điều chỉnh nhất định về biên độ tỉ giá cũng như tỉ giá trung tâm để thích nghi với
những tác động đó. Sau khi các tác động chấm dứt, chế độ tỉ giá lại quay trở về cơ chế tỉ giá
cố định hoặc neo tỉ giá có điều chỉnh.



4

Biểu đồ biến động biên độ tỷ giá từ năm 1989-2009
Một đặc điểm khác của cơ chế tỉ giá của Việt Nam là cơ chế hai tỉ giá. Mặc dù trên thực tế
NHNN áp dụng chỉ một tỉ giá chính thức cho tất cả các giao dịch thương mại trên phạm vi cả nước
nhưng tỉ giá thị trường tự do vẫn hiện diện song song với tỉ giá chính thức.Nguyên nhân này bắt nguồn
từ sự khó khăn trong tiếp cận ngoại tệ từ khối ngân hàng.Trong thập kỉ 1990, do có sự phân biệt giữa
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân trong vấn đề xuất khẩu, các doanh nghiệp tư nhân
khó tiếp cận các nguồn ngoại tệ từ hệ thống ngân hàng. Hiện nay, sự phân biệt kiểu này đôi khi vẫn
được các NHTM áp dụng đối với các doanh nghiệp hoặc cá nhân thuộc đối tượng "không khuyến
khích" sử dụng ngoại tệ như dùng ngoại tệ để đi du lịch hoặc mua, nhập các loại hàng hóa xa xỉ hay
loại hàng hóa trong nước có khả năng sản xuất được. Chính sự phân biệt này khiến cho thị trường
ngoại tệ tự do vẫn tiếp tục phát triển với quy mô tương đối lớn ở Việt Nam.
Theo IMF giai đoạn 2008-2010, Việt Nam áp dụng cơ chế neo tỉ giá với biên độ được điều
chỉnh (crawling bands).Theo đó, OER được điều chỉnh tăng giá 5 lần: 2%( 11/06/2008), 2.9%
(25/12/2008), 5,16% (25/11/2009), 3,25% (11/02/2010), 2.05% (18/08/2010) và biên độ dao động
được điều chỉnh 5 lần: +/- 1% (3/2008); +/- 2% (6/2008) ; +/- 3% (11/2008) ; +/- 5% (3/2009) ;+/- 3%
(11/2009).
Để hiểu rõ hơn về chế độ tỷ giá thực tế ở Việt Nam ta hãy cùng xem xét chi tiết những biến
động của diễn biến tỷ giá qua các năm 2008-2011
Giai đoạn từ năm 2008 – 2011 tỉ giá có nhiều sự biến động. Theo số liệu từ NHNN thì giai
đoạn từ năm 2008 đến 2011, NHNN đã điều hành chính sách tỷ giá theo hướng giảm giá đồng Việt
Nam ở mức vừa phải đã có tác động làm giá bán hàng xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới


5
cạnh tranh hơn.


Hình 1: biến động tỉ giá USD/VND từ năm 2008 đến 2011.
 Năm 2008 nền kinh tế thế giới rơi vào giai đoạn khủng hoảng vậy nên không thể
tránh khỏi ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam.Giai đoạn 2008-2009 đánh dấu sự phản
ứng trong chính sách tỉ giá ở Việt Nam .Dựa vào hình 1 có thể thấy tỉ giá NHTM có
nhiều biến động mạnh do lạm phát tăng cao (tỉ lệ lạm phát năm 2008 tăng rất coa có lúc
lên đến 20%) đồng thời cuộc khủng hoảng kinh tế đã có tác động đến Việt Nam nửa


6
cuối năm 2008. Trong 2008, biên độ tỷ giá được điều chỉnh tới 5 lần, một mật độ dày
chưa từng có.

Giai đoạn từ 01/01/2008 tới 25/03/2008: Trong giai đoạn này, tỷ giá USD/VND trên thị trường
LNH giảm mạnh từ 16.112 đồng xuống cịn 15.960 đồng. Tỷ giá trên TTTD có lúc rớt xuống thấp
hơn tỷ giá LNH và dao động trong khoảng từ 15.700 đến 16.000 VND/USD. Nguyên nhân: Thời
điểm này đang trong giai đoạn gần Tết nên lượng kiều hối chuyển về khá lớn. Chính phủ và ngân hàng
nhà nước áp dụng chính sách kiềm chế lạm phát, thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất cơ bản 8,25%/năm
(12/2007) lên 8,75%/năm (2/2008). NHNN không mua ngoại tệ USD nhằm hạn chế việc bơm tiền ra
lưu thông.
Giai đoạn từ 26/03/2008 tới 16/07/2008: Trong giai đoạn này tỷ giá tăng dần đều và đột ngột
tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên đến 19.400 VND/USD vào ngày 18/6, cách hơn 2.600 đồng
so với mức trần, còn trên TTTD cao hơn khoảng 100-150 VND/USD sau đó dịu lại khi NHNN nới
biên độ từ 1% lên +/- 2% (ngày 27/6) và kiểm soát chặt các giao dịch.Nguyên nhân:Do tâm lý bất ổn
của người dân và doanh nghiệp khi thấy USD tăng nhanh dẫn đến trạng thái găm ngoại tệ của nhà đầu
cơ.Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của doanh nghiệp xuất và nhập khẩu đến hạn cao.Tăng nhập
khẩu vàng. Nhà đầu tư rút vốn khỏi Việt Nam bằng việc bán trái phiếu khi lo ngại về tình hình kinh tế
và tình hình thanh khoản thấp trên thị trường. Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép cho vay
ngoại tệ đối với doanh nghiệp xuất khẩu ( theo quyết định số 09/2008/QĐ).Cầu ngoại tệ tăng mạnh so
với cung USD.
Giai đoạn từ 17/07/2008 tới 15/10/2008: Tỷ giá USD/VND giảm mạnh từ 19.400 VND/USD

cịn 16.400 VND/USD và giao dịch bình ổn quanh mức 16.600 VND/USD trong giai đoạn từ tháng 8
đến tháng giữa tháng 10.Nguyên nhân: Do sự can thiệp kịp thời của NHNN, NHNN đã công khai
lượng dự trữ ngoại hối quốc gia là 20,7 tỷ USD trong khi trên thị trường cho rằng USD đang khan
hiếm.NHNN ban hành nhiều chính sách bình ổn tỷ giá như: cấm mua bán ngoại tệ trên TTTD không


7
đăng ký với NHTM, cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác, kiểm soát chặt các đại lý thu đổi
ngoại tệ.
Giai đoạn từ 16/10/2008 đến hết năm: Tỷ giá USD/VND tăng đột ngột trở lại từ mức
16.600 lên mức cao nhất là 16.998 VND/USD sau đó giảm nhẹ. Giao dịchnằm trong biên độ tỷ giá.
Tuy nhiên cung ngoại tệ hạn chế, cầu ngoại tệ vẫn lớn. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên
3% trong ngày 07/11, tỷ giá tăng tới mức 17.440 VND/USD.Nguyên nhân: Nhà đầu tư nước ngồi đẩy
mạnh bán chứng khốn, đặc biệt là trái phiếu (700 triệu USD), cổ phiếu (100 triệu USD).Cầu USD
trên thị trường tín dụng tăng cao.
Nhìn chung trong năm 2008 cũng với sự biến động của tỉ giá và ảnh hưởng của suy thối kinh
tế tồn cầu thì cuối năm 2008, nhu cầu hàng xuất khẩu giảm,kim ngạch xuất khẩu giảm.Các nhà đầu
tư nước ngoài cũng giảm đầu tư,lượng khách du lịch vào Việt Nam cũng giảm,lượng kiều hối cũng
giảm mạnh làm ảnh hưởng lớn đến tỉ giá.Tuy nhiên chính phủ ta đã có biện pháp hợp lí và có biện
pháp kiểm sốt để tỉ giá khơng biến động quá mạnh.
 Trong năm 2009, tỷ giá USD/VND do thị trường Liên Ngân hàng do Ngân hàng nhà
nước công bố tiếp tục tăng và đặc biệt tỷ giá trên thị trường tín dụng cịn cao hơn nhiều
so với tỷ giá công bố.

Biểu đồ tiền đồng mất giá mạnh trong năm 2009
Năm 2009, tỷ giá biến động mạnh, mức chênh lệch giữa thị trường chính thức và phi chính
thức ln ở mức cao. Tỷ giá chính thức cuối năm đã tăng gần 2,000 VND/USD, tức tăng hơn 12% so
với mức đầu năm. Tỷ giá liên ngân hàng vào ngày 31/12/09 đang ở mức 17,941 VND/USD, tỷ giá
mua bán tại ngân hàng thương mại đang ở mức kịch trần biên độ với mức 18,479 VND/USD. Tỷ giá
trên thị trường phi chính thức đang ở mức từ 19,200 – 19,500 VND/USD.

Trong năm qua NHNN cũng thực hiện nhiều biện pháp can thiệp mạnh mẽ vào thị trường
ngoại hối. Ngày 23/03, NHHN ra Quyết định số 622/QĐ-NHNN nâng biên độ tỷ giá lên +/-5%, để tỷ


8
giá trên thị trường giao động một cách linh hoạt hơn. Tuy nhiên, trước tình hình tỷ giá vẫn khá căng
thẳng đến ngày 24/4/09, NHNN có cơng văn u cầu các phương tiện thông tin không thông tin về tỷ
giá trên thị trường chợ đen. Ngoài ra, NHNN cũng yêu cầu các cơ quan chức năng thắt chặt hoạt động
mua bán ngoại tệ trên thị trường phi chính thức. Trong khoảng thời gian đó nhiều người cịn nghi ngại
NHNN sẽ thực hiện các biện pháp kết hối.Diễn biến tiếp theo trên thị trường ngoại tệ khiến NHNN
phải bán USD dự trữ để giữ tỷ giá. Dự trữ ngoại tệ của NHNN giảm từ mức 23 tỷ USD vào cuối năm
2008, xuống còn khoảng 16-17 tỷ USD vào cuối năm nay. Trong những tháng cuối năm 2009, tình
trạng căng thẳng tỷ giá vẫn chưa được cải thiện. Tỷ giá trên thị trường chợ đen đã có lúc lên tới 20,000
VND/USD. Ngày 25/11, NHNN quyết định điều chỉnh tỷ giá tăng lên mức 17,961 VND/USD, từ mức
16,977 VND/USD trước đó. Đồng thời, NHNN cũng thu hẹp biên độ tỷ giá xuống còn +/- 3% từ ngày
26/11/2009, thay vì +/-5% như trước đây. Sự điều chỉnh tỷ giá khá mạnh này đã làm cho USD trên thị
trường tự do hạ nhiệt. Song song với việc điều chỉnh tỷ giá trên, Chính phủ cũng u cầu các tập đồn
và tổng cơng ty nhà nước bán ngoại tệ cho NHNN và NHTM.

 Diễn biến tỷ giá USD/VND trong năm 2010 liên tục có những biến động, gây bất ổn cho nền
kinh tế vĩ mô, gây xáo động thị trường. Để bình ổn thị trường ngoại hối, NHNN đã thực thi
rất nhiều chính sách biện pháp: điều chỉnh giá bình quân lien ngân hàng, cung ứng ngoại tệ ra
thị trường mặc dù dự trữ ngoại hối của quốc gia khơng dồi dào, kiểm sốt chặt chẽ thị trường
vàng ( ban hành thông tư 22 về quản lý và huy động và cho vay bằng vàng)
Biểu đồ : Biến động tỷ gia USD/VND năm 2010

Diễn biến tỷ giá năm 2010 có thể chia làm bốn giai đoạn chính dựa vào mối quan hệ giữa tỷ
giá trên TTTD và thị trường chính thức .



9
Giai đoạn 1: Quý 1 năm 2010: Giá USD trên TTTD giao dịch ở mức cao hơn tỷ giá chính
thức. Tỷ giá mua USD của các NHTM đã tăng nhanh trong tháng 3, gần như cận sát với tỷ giá bán
( mức trần 19.100 VND/USD ). Diễn biến này do các doanh nghiệp xuất khẩu muốn nắm giữ USD
dung khi cần thiết, gửi ngân hàng thì lãi suất thấp . Ngồi ra, các doanh nghiệp thay vì vay bằng VND
lại chuyển sang vay bằng USD có lãi suất thấp hơn và kì vọng ổn đinh hơn (6-7,5%) . Diễn biến này
gây ra căng thẳng cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Giai đoạn 2 : Quý 2 năm 2010: giá USD tự do và USD tại các NHTM giảm và rời mốc trần tỷ
giá theo quy định của NHNN. Tỷ giá trên TTTD liên tục giảm từ 19.300- 19.330 xuống cịn 18.95018.970 tại thời điểm cuối tháng 4.Sau đó ổn định ở mức dưới 19.000.Giá USD tại các NHTM cũng
giảm liên tục từ 19.050-19.100 xuống còn 18.950-19.0101. Sự tụt giảm tỷ giá so lượng cung tăng
mạnh, trong khi cầu USD không biến động nhiều.Nguyên nhân : Lượng cung ngoại tệ lớn do lượng
cung áo bắt nguồn từ một chênh lệch lãi suất bằng VND và USD quá cao. Ngoài ra thị trường vàng
suy giảm hoạt động khiến cho cầu USD giảm do nhu cầu nhập khẩu vàng thấp
Giai đoạn 3: Quý 3 năm 2010 tỉ giá tự do biến động mạnh vượt tỷ giá trên thị trường chính
thức. NHNN bất ngờ điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng thêm 2% vào ngày18/8/2010.
Sau một thời gian ổn định giá USD có xu hướng tăng mạnh. Như vậy trong vòng 1 năm NHNN đã 3
lần điểu chỉnh tỷ giá LNH.Nguyên nhân :Nhu cầu mua ngoại tệ trả nợ đáo hạn tăng. Nhu cầu dự trữ
ngoại tệ phục vụ hoạt động nhập khẩu cuối năm. Từ giữa tháng sáu, NHNN đưa ra u cầu kiểm sốt
chặt tín dụng ngoại tệ. Lãi suất USD có xu hướng tăng trong khi NHNN yêu cầu đồng thuận giảm lãi
suất VND khiến nhu cầu nắm giữ USD tăng
Giai đoạn 4: Quý 4 năm 2010 tỷ giá TTTD vượt mốc 20.000. NHNN điều chỉnh tỷ giá LNH
vào ngày 18/8, tỷ giá ổn định ở mức 19.500.Cuối tháng 9 đến cuối tháng 10 tỷ giá tăng mạnh vượt
mức 20.000 vào ngày 19/10. Cung cầu ngoại hối trên thị trường đang có dấu hiệu căng thẳng.Tỷ giá
TTTD vượt mức 21.000 trong tháng 11. Chênh lệch giữa giá USD trên TTTD và giá trần theo quy
định của NHNN lên đến 1.300-1.500VND/1USD.Nguyên nhân: lượng dự trữ ngoại tệ trong giai đoạn
này khá mỏng.Tâm lý lo sợ VND ngày càng mất giá cộng với lạm phát có xu hướng tăng cao đã khiến
cho người dân nắm giữ vàng và ngoại tệ.Nhập siêu tăng mạnh trong tháng 11 lên mức cao nhất kể từ
tháng 2/2010.

II. Giai đoan 2011-2013

1.1. Diễn biến tỷ giá USD/VND và các biện pháp điều hành chính sách tỷ giá trong năm 2011:
.Diễn biến tỷ giá VND trong năm 2011 có thể được chia thành 4 giai đoạn với các sắc thái
diễn biến khác nhau của tỷ giá trên thị trường tự do:


10


Giai đoạn 1- Tháng 1/2011: Tỷ giá tự do ổn định quanh mốc 21.000, trong khi NHNN cố gắng
kiềm giữ tỷ giá chính thức ở mức 18.932.



Giai đoạn 2- Thời điểm sát Tết nguyên đán đến đầu tháng 3/2011: Tỷ giá tự do tăng mạnh lên
trên 22.300 sau khi NHNN phá giá.



Giai đoạn 3- Trung tuần tháng 3 đến đầu tháng 8/2011: Tỷ giá tự do giảm mạnh, xuống sát
với tỷ giá của NHTM sau khi NHNN thi hành nhiều biện pháp điều hành chính sách tỷ giá.



Giai đoạn 4- Tỷ giá tự do bắt đầu tăng mạnh vượt trên giá trần quy định của NHNN và tiếp
tục dao động quanh mức 21.300-21.400 cho đến cuối năm 2011.

1.1.1.

Giai đoạn 1- Tháng 1/2011


Trong những ngày đầu năm 2011, do chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới tiếp tục tăng cao
đã đẩy giá USD trên thị trường tự do tăng lên trên mức 21.000. Trước sức ép liên tục về phá giá VND,
nhưng NHNN vẫn tiếp tục kiềm giữ duy trì tỷ giá bình quân liên ngân hàng tại mức 18.932, trong khi
các ngân hàng thương mại (NHTM) niêm yết tỷ giá tại mức trần 19.500. Diễn biến này khiến cho
chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và tự do (paralell market premium) đẩy lên tới 1.5001.600VND (tương đương khoảng 8% so với tỷ giá chính thức). Đà tăng tỷ giá trên thị trường tự do chỉ
chững lại vào cuối tháng 1, nhưng sau đó lại có xu hướng tăng mạnh trong các ngày sát và sau kì nghỉ
Tết nguyên ñán 2011. Diễn biến này hơi khác với các năm trước khi mà tỷ giá USD thường giảm vào
dịp Tết do lượng kiều hối đổ về nhiều. Sự tăng mạnh của giá USD tự do tại thời điểm đó có thể do
chênh lệch khá lớn giữa giá vàng trong nước và thế giới (hơn 1 triệu VND/lượng). Bên cạnh đó, sự kì
vọng của giới đầu cơ về khả năng NHNN sẽ tiến hành phá giá VND ngay sau Tết cũng có thể được coi
là nguyên nhân khiến cho giá USD tự do tăng. Diễn biến tỷ giá USD/VND trong những ngày đầu năm
mới 2011 cho thấy giới đầu cơ đang trơng chờ nhiều vào các tín hiệu của NHNN về điều hành chính
sách tỷ giá.
1.1.2.

Giai đoạn 2- Thời điểm sát Tết nguyên đán đến đầu tháng 3/2011

Đúng như dự đốn và kì vọng của thị trường, ngày 11/2 NHNN đã tiến hành điều chỉnh tăng tỷ giá
bình quân liên ngân hàng thêm 9,3% (tương đương với việc VND bị phá giá 8,5%) đồng thời thu hẹp
biên độ dao ñộng tỷ giá xuống ±1%. Động thái ñiều chỉnh tỷ giá lần này được kì vọng sẽ giúp cho
VND xích lại gần hơn với giá trị thực và có thể giúp loại trừ được phần nào tình trạng “tồn tại 2 tỷ giá
với mức chênh lệch quá lớn” trong thời gian khá dài, từ đó giúp khơi thơng nguồn cung ngoại tệ cho
các NHTM. Hành động này của NHTW còn giúp làm giảm sức ép tới nguồn dự trữ ngoại hối đang khá
mỏng trong ngắn hạn. Không những thế, sự điều chỉnh tỷ giá khá mạnh tay lần này của NHNN sẽ có
thể đưa đến những tác động tích cực đến xuất khẩu trong khi lại tác động không đáng kể tới nhập khẩu
bởi các doanh nghiệp đã phải giao dịch với tỷ giá trong thời gian khá dài nên việc thay đổi tỷ giá lần


11
này chỉ là sự “hợp thức hóa” các giao dịch. Thêm vào đó, việc NHNN đưa ra một thơng điệp rõ ràng

hơn về chính sách tỷ giá sẽ khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài mạnh tay giải ngân vốn FDI, FII do
tâm lý trông chờ NHNN phá giá thêm đã được loại trừ. Một điểm thay đổi khá quan trọng sau ngày
11/2 đó là NHNN đã thực hiện linh hoạt trong việc niêm yết tỷ giá chứ không cố ñịnh tỷ giá trong thời
gian dài như trước đây thơng qua việc tăng/giảm tỷ giá này theo ngày (Hình 1). Tỷ giá niêm yết tại các
NHTM cũng biến động cũng chiều với tỷ giá bình quân liên ngân hàng mặc dù luôn được niêm yết
kịch trần (+1%). Tuy nhiên, động thái điều chỉnh tỷ giá của NHNN lại dường như khơng có mấy tác
động tích cực tới thị trường tự do khi mà giá USD liên tục tăng kể từ ngày 11/2 cho đến cuối tháng 2,
đặc biệt biến động khá mạnh trong ngày 17/2 khi giá bán được niêm yết vượt 22.000, đạt kỉ lục 22.300
vào ngày 19/2. Sự tăng mạnh đột biến của giá USD có thể bắt nguồn từ chênh lệch giá vàng thế giới
và trong nước vẫn đang duy trì ở mức khá cao, cộng thêm với tâm lý đầu cơ của người dân cũng như
sự e ngại về giá trị của VND. Không những thế, thông tin dự trữ ngoại hối tại thời điểm đó chỉ cịn
khoảng 10 tỷ USD và những quan ngại về tình hình lạm phát cao có thể là những nguyên nhân góp
phần khiến cho giá USD tự do liên tục tăng mạnh
1.1.3.

Giai đoạn 3- Trung tuần tháng 3 đến đầu tháng 8/2011

Trước những bất ổn của thị trường ngoại hối tự do do tác động của tâm lý và hiện tượng đầu cơ
làm giá của các đại lý thu hổi ngoại tệ, NHNN cho biết sẽ kiểm soát chặt chẽ hoạt động thu hổi ngoại
tệ với sự phối hợp của công an và quản lý thị trường. Đây là biện pháp đầu tiên nằm trong gói các biện
pháp mà NHNN đưa ra nhằm thực hiện tốt Nghị quyết 11 của Chính phủ nhằm bình ổn thị trường
ngoại hối, tăng niềm tin vào giá trị VND và hạn chế tình trạng đơ la hóa nền kinh tế. Thơng tin này đã
khiến cho thị trường ngoại hối tự do ngừng giao dịch ngay trong ngày 7/3/2011 (phiên đầu tuần thứ 2
của tháng 3) làm nhiều người có nhu cầu giao dịch ngoại tệ ngỡ ngàng. Mặc dù không thể phủ nhận
vai trò của các đại lý thu đổi ngoại tệ trong việc đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho các cá nhân, thậm chí là
doanh nghiệp, nhưng cũng phải thừa nhận rằng đây cũng là gây nên những bất ổn của thị trường tiền
tệ. Chính vì vậy kiểm sốt hoạt động của các đại lý này là một trong những biện pháp của NHNN
nhằm ổn ñịnh hoạt động của thị trường ngoại tệ tự do qua đó bình ổn vĩ mơ nền kinh tế, chống USD
hóa nền kinh tế và tăng niềm tin của người dân vào giá trị VND trong thời điểm hiện nay. Cùng với
việc kiểm soát chặt thị trường ngoại tệ tự do, NHNN cho biết sẽ cụ thể hóa giải pháp tiến tới xóa bỏ

hồn tồn hoạt ñộng kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do cũng như đưa hoạt động của thị
trường vàng vào khuôn khổ như đã đề ra trong Nghị quyết 11 thông qua việc ban hành các quy định
về giao dịch vàng (dự kiến được ban hành trong Quý 3). Thông tin về các biện pháp kiểm soát chặt thị
trường vàng lần này của NHNN được kì vọng sẽ tránh được tình trạng đầu cơ vàng, vốn được coi là
nguyên nhân chính gây nên những bất ổn của thị trường vàng cũng như liên thông tới thị trường ngoại
tệ tự do như trong thời gian trước đây. Thêm vào đó, nó có thể giúp loại bỏ tình trạng nắm giữ, tích trữ
vàng trong dân, phục hồi niềm tin vào VND. Ngoài ra, nó sẽ giúp cho NHNN tránh phải đưa ra các
quyết định nhập khẩu vàng liên tục (nhu cầu tăng đột biến do tâm lý tích trữ, đầu cơ trong dân mỗi khi


12
giá vàng thế giới tăng), giảm áp lực tới dự trữ ngoại hối quốc gia. Các biện pháp hành chính này
dường như tỏ ra khá hiệu quả khi mà tỷ giá giao dịch “ngầm” tự do liên tục giảm xuống từ trên 22.000
vào thời ñiểm đầu tháng 3 xuống chỉ cịn 21.100-21.150 tại thời điểm cuối tháng, đưa chênh lệch tỷ
giá chính thức và tự do xuống cịn 210 - 250 VND.
Trong Quý 2, NHNN tiếp tục ban hành các văn bản pháp lý nhằm bình ổn thị trường ngoại hối,
hạn chế tình trạng USD hóa nền kinh tế và hướng tới mục tiêu chỉ sử dụng VND trên lãnh thổ Việt
Nam khi áp trần lãi suất huy động USD là 3% (Thơng tư 09, ngày 9/4) và sau đó là 2% (Thông tư 14,
ngày 2/6); Quyết định 750 về tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc ñối với tiền gửi ngoại tệ từ 4% lên 6% (ngày
9/4) và sau đó tăng lên 7% (ngày 1/6). Với các biện pháp nhằm hạn chế huy động và cho vay bằng
ngoại tệ này của NHNN đã giúp khơi thông nguồn ngoại tệ do người dân nhận thấy nắm giữ USD
khơng có lợi bằng VND nên có xu hướng bán USD để gửi tiết kiệm bằng VND, giúp tăng nguồn cung
ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Không những thế, NHNN đã mở rộng đối tượng phải kết hối ngoại
tệ khi ban hành Thơng tư 13 (có hiệu lực từ 1/7/2011). Chính vì vậy, khơng có gì là khó hiểu khi trong
q 2, cùng với đà giảm của tỷ giá bình quân liên ngân hàng, các NHTM liên tiếp giảm tỷ giá mua và
bán xuống dưới mốc trần tỷ giá (+1%) theo quy định của NHNN, thậm chí có thời điểm gần sát với
giá sàn, dao động quanh 20.500-20.700 (Hình 1). Đây là lần đầu tiên kể từ tháng 5/2010, tỷ giá của các
NHTM rơi khỏi mốc trần của NHNN. Cùng với diễn biến trên thị trường chính thức, tỷ giá trên thị
trường tự do cũng tiếp tục suy giảm, biến động tương đối cùng chiều với tỷ giá bình quân liên ngân
hàng và tỷ giá niêm yết tại các NHTM. Sự ổn định trên các thị trường ngoại tệ được kéo dài cho đến

đầu tháng 8/2011 khi mà sự tăng giá kỉ lục của giá vàng thế giới đẩy giá vàng trong nước tăng cao, đã
khiến cho giá USD tại các ngân hàng cũng như trên thị trường tự do tăng lên sát trần quy ñịnh của
NHNN
2.1.4. Giai đoạn 4- từ tháng 8/2011 đến cuối năm.
Trong các năm gần đây, tỷ giá thường có xu hướng biến động rất mạnh trong quý 4 với chênh lệch
giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do thường ở mức khá cao, dao động khoảng 1.0002.000VND. Mặc dù hiện tượng này vẫn chưa được loại trừ hồn tồn trong q 4 năm 2011 do các
nguyên nhân vốn từng gây nên những biến động trên thị trường tự do vẫn tiếp tục xảy ra nhưng mức
chênh lệch chỉ cịn khoảng 300-400VND có thể coi là “chấp nhận được”. Sự ổn định tạm thời và
những chuyển biến tích cực trên thị trường ngoại tệ tự do tại thời ñiểm cuối năm 2011 được cho là bắt
nguồn từ một số nguyên nhân trong đó phải kể đến những cam kết của NHNN nhằm bình ổn thị
trường ngoại tệ, theo đó tỷ giá USD/VND sẽ được điều chỉnh không quá 1% kể từ ngày 7/9/2011 cho
đến hết năm. Ngoài ra, diễn biến thuận lợi của cán cân thương mại, cán cân tổng thể trong năm 20112,
đặc biệt trong những tháng cuối năm đã hỗ trợ khá đắc lực cho những cam kết của NHNN. Không
những thế những quy định và biện pháp kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng đã khiến cho biến động
của thị trường này khơng cịn gây nhiều tác động tiêu cực đến thị trường ngoại tệ tự do như trước đây.


13
1.2. Diễn biến tỷ giá năm 2012
Năm 2012 là một năm thành cơng trong cơng tác điều hành chính sách tiền tệ nói chung và chính
sách tỷ giá VND/USD nói riêng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá các biện
pháp điều chỉnh tỷ giá VND/USD trong năm 2012, bài viết đề xuất một số giải pháp góp phần nâng
cao hơn nữa hiệu quả điều hành chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước năm 2013.
1.2.1.

Diễn biến tỷ giá VND/USD ổn định:

Nhìn lại diễn biến tỷ giá VND/USD trong năm 2012 cho thấy, vào đầu năm duy trì ổn định với
biến động khơng q +/-1% theo tỷ giá bình quân liên ngân hàng (BQLNH) và với chiều hướng giảm
từ 21.030 VND/1USD, xuống còn khoảng 20.850 VND/1USD vào cuối năm. Theo số liệu của Tổng

cục Thống kê, nếu như năm 2008 giá USD (tỷ giá VND/USD) tăng 6,31%, năm 2009 tăng tới 10,07%,
năm 2010 tăng 9,68% thì năm 2011 chỉ tăng 2,2% và năm 2012 đã giảm gần 1%. Trong 6 tháng đầu
năm 2012 tỷ giá VND/USD có xu hướng tăng nhẹ, cịn 6 tháng cuối năm giảm, tính chung cả năm tỷ
giá giảm gần 0,88% (Biểu đồ 1). Đây là một hiện tượng ngược lại diễn biến tỷ giá trên thị trường trong
những năm xáo trộn (2008 - 2011) khi tỷ giá luôn biến động theo chiều hướng tăng dần từ đầu năm
đến cuối năm.
Nhìn chung, diễn biến tỷ giá USD/VND trong năm 2012 có thể chia thành hai giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Từ tháng 1- 6/2012, tỷ giá tăng nhẹ. Trong 6 tháng đầu năm diễn biến tỷ giá
VND/USD diễn ra ổn định với chiều hướng tăng nhẹ khoảng 0,55%. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng
(BQLNH) tiếp tục được duy trì ở mức 20.828 VND/1 USD. Tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương
mại (NHTM) sau một thời gian duy trì ở mức kịch trần biên độ đã được các ngân hàng điều chỉnh
giảm dừng ởmức 20.860 - 20.920 VND/USD vào thời điểm cuối tháng 6/2012.
Riêng những ngày đầu tháng 6/2012, các NHTM đồng loạt nâng giá bán ra USD kịch trần và duy
trì trạng thái này gần một tuần, sau đó đã được các ngân hàng điều chỉnh giảm trở lại. Diễn biến tỷ giá
trên thị trường “chợ đen” bám sát diễn biến tỷ giá giao dịch của NHTM, chênh lệch giữa hai thị trường
này chỉ còn ở mức từ 20 - 70 VND/1USD – một sự chênh lệch không đáng kể nếu so với năm 2011
trung bình mức chênh lệch là 1.000 - 2.000 VND/1 USD.
Một điểm khác biệt so với các năm trước là trong quý I/2012, từ ngày 13/2/2012 tỷ giá mua vào
của Sở Giao dịch NHNN được điều chỉnh cao hơn tỷ giá mua vào của các NHTM. Điều này nhằm
khuyến khích các NHTM bán lại cho NHNN ngoại tệ mua được từ các doanh nghiệp và dân cư, tạo
điều kiện cho NHNN thực hiện mục tiêu tăng dự trữ ngoại hối quốc gia.


14

Giai đoạn 2 :tháng 7 - 12/2012, tỷ giá giảm dần. Xu hướng biến động tỷ giá VND/USD duy trì
ở mức độ ổn định và giảm dần. Những quyết sách rõràng vàminh bạch của NHNN trong công tác điều
hành chính sách tỷgiá, cùng với diễn biến khảquan của cung - cầu ngoại tệtrong nền kinh tế, góp phần
quan trọng tạo nên thặng dư của cán cân tổng thể trong nửa đầu năm 2012 tiếp tục duy trìxu thếổn
định vào cuối năm.

Tháng 8/2012, tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do có tăng nhẹ và kéo dài khoảng cách chênh
lệch với tỷ giá giao dịch của các NHTM ở mức gần 70 VND/1USD, nhưng sang tháng 9 bắt đầu xu
hướng giảm dần đều cho tới cuối năm 2012 khi xoay quanh mức 20.850 – 20.870/VND/1USD. Tỷ giá
BQLNH vẫn được duy trì một đường kẻ thẳng kể từ ngày 24/11/2011 cho đến nay.

Năm 2012 DIỄN BIẾN THAY ĐỔI TỶ GIÁ USD/VND NĂM 2012


15

Điều đáng nói, diễn biến tỷ giá VND/USD diễn ra dường như theo quy luật trong các năm gần
đây là vào những tháng cuối năm tỷ giá thường cóxu hướng biến động rất mạnh, kèm với sự chênh
lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do thường ở mức khá cao. Tuy nhiên, trong năm
2012 hiện tượng này lại được loại trừ hoàn toàn. Có được kết quả trên là do sự kết hợp linh hoạt các
biện pháp điều hành chính sách tỷ giá của NHNN trong suốt năm 2012, nhằm bình ổn thị trường ngoại
tệ. Theo đó, tỷ giáVND/USD sẽđược điều chỉnh biên độ dao động không quá 2 - 3% trong cả năm
2012. Ngoài ra, diễn biến thuận lợi của cán cân thương mại, cán cân tổng thể trong năm 2012, đã hỗ
trợ khá đắc lực cho những cam kết của NHNN. Đồng thời, những quy định và biện pháp kiểm soát
chặt chẽ thị trường vàng đã khiến cho biến động của thị trường này khơng cịn gây nhiều tác đợng tiêu
cực đến thị trường ngoại hối tự do như trước đây.
1.2.2.

Điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt

Trong năm 2012, NHNN đã sử dụng linh hoạt các biện pháp điều hành chính sách tỷ giá để ổn
định thị trường. Những biện pháp này có thể chia thành hai nhóm là nhóm các biện pháp tác động trực
tiếp và nhóm các biện pháp tác động gián tiếp lên tỷ giá VND/USD (Xem bảng 1) như sau:


16


.
1.3. Điều hành tỷ giá năm 2013
Theo dữ liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá USD trong 11 tháng năm 2013 so với tháng
12/2012 như sau:


17

Như vậy, giá USD tháng 12 năm sau so với tháng 12 năm trước sau khi tăng khá cao trong
thời kỳ 2008-2010 (năm 2008 tăng 6,31%, năm 2009 tăng 10,7%, năm 2010 tăng 9,68%), đã tăng
chậm lại vào năm 2011 (tăng 2,24%), giảm vào năm 2012 (giảm 0,96%) và tiếp tục tăng thấp trong 11
tháng năm 2013.
Ở góc độ khác, nếu tính bình qn thì bình qn 11 tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước
mới tăng 0,62%, thấp hơn so với bình quân thời kỳ 2006-2012 (tăng 4,1%).

NHNN chủ động trước những diễn biến của tỷ giá. Việc điều hành chính sách quản lý tỷ giá
và thị trường ngoại tệ được công khai ngay từ đầu năm : Tiếp tục duy trì ổn định tỷ giá trong năm


18
2013 với mức biến động 2 - 3%. Trên cơ sở các cam kết này, NHNN luôn chủ động theo dõi, phân tích
các cân đối vĩ mơ, diễn biến cán cân thanh toán quốc tế, cung cầu ngoại tệ trên thị trường và thực hiện
các biện pháp điều hành cần thiết để nhanh chóng ổn định thị trường.
Ngồi ra, NHNN còn chủ động phối hợp với các bộ, ngành liên quan tăng cường quản lý,
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về quản lý ngoại hối, quản lý hoạt động kinh doanh vàng, ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp, hợp
lý của người dân và doanh nghiệp được đáp ứng thông qua hệ thống các TCTD.

1.3.1. Đối với tỷ giá bán ngoại tệ

Khi thị trường có biến động thời điểm cuối tháng 2/2013 đầu tháng 3/2013, NHNN đã linh
hoạt trong điều hành tỷ giá thông qua việc điều chỉnh giảm giá bán ra về mức 20.950 VND/USD
từ ngày 5/3/2013 thay vì mức giá trần là 21.036 VND/USD được duy trì từ cuối năm 2011 và sẵn
sàng bán ngoại tệ can thiệp tại mức giá này nếu TCTD có nhu cầu.
Khi sang đến đầu quý II/2013, thị trường đã có những biến động. Cụ thể là, từ cuối tháng
4/2013 đến cuối tháng 6/2013, nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) đã nâng giá USD lên kịch trần
cho phép 1 USD đổi 21.036 VND. Thậm chí tại số đông NHTM tăng giá mua lên kịch trần 21.036
VND, trong khi giá bán USD trên thị trường tự do lên tới 21.320 VND. Trước áp lực đó, cộng với một
số diễn biến kinh tế vĩ mô khác, kể từ ngày 28/6/2013, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng tỷ giá
liên ngân hàng lên thêm 1% so với trước đó. Theo đó, các NHTM cũng đồng loạt điều chỉnh tăng tỷ
giá mua - bán ngoại tệ của mình, đồng thời điều chỉnh giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD
của tổ chức (từ 2%/năm xuống 0,25%/năm), cá nhân (từ 2%/năm xuống 1,25%/năm) tại TCTD để hỗ
trợ duy trì được mức chênh lệch lợi tức giữa việc nắm giữ VND và USD trong điều kiện mức chênh
lệch này đã giảm xuống mức thấp nhằm đảm bảo việc điều chỉnh tỷ giá không gây biến động trên thị
trường, tiếp tục khuyến khích người dân nắm giữ VND, giảm nắm giữ ngoại tệ.
Sau đợt điều chỉnh đó, bắt đầu từ đầu tháng 7/2013, tại các NHTM, tỷ giá VND/USD được
niêm yết phổ biến ở mức từ 21.110-21.140 VND/USD (mua vào) và 21.220-21.230 VND/USD (bán
ra), tăng từ 5-20 VND/USD so với ngày 28/6/2013 và tăng bình quân 1% so với trước ngày 28/6/2013.
Giá USD trên thị trường tự do những ngày cuối tháng 6 và đầu tháng 7/2013 cũng biến động. Cụ thể,
tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do tại Hà Nội sáng ngày 1/7/2013 niêm yết ở mức 21.380 - 21.430
VND/USD (mua vào - bán ra), tăng 30 đồng mua vào và giảm 20 đồng bán ra so với chiều ngày
28/6/2013; tiếp đó đến ngày 8/7/2013 lại tăng lên 21.800 VND/USD... Thị trường lại tái diễn tình
trạng găm giữ USD.

1.3.2. Tỷ giá mua vào USD của NHNN


19
Được điều hành theo hướng khuyến khích các TCTD bán ngoại tệ cho NHNN để tăng dự trữ
ngoại hối Nhà nước. Tỷ giá mua vào được NHNN duy trì tương đối ổn định ở mức 20.850

VND/USD, cao hơn mức tỷ giá bình quân liên ngân hàng là 20.828 VND/USD.
Vào cuối tháng 7 và đầu tháng 8/2013, khi tỷ giá giảm nhanh, NHNN cũng đã thực hiện
nghiệp vụ mua vào ngoại tệ. Ngày 7/8/2013, Sở Giao dịch NHNN đã nâng mạnh giá mua vào USD từ
mức 20.826 đồng lên 21.100 đồng/USD và duy trì mức giá đó trong một thời gian dài. Trong những
ngày cuối năm 2013, giá USD tại các NHTM ổn định quanh mức 21.140 VND. Trên thị trường tự do,
giá USD phổ biến ở mức 21.180-21.200 VND.
Việc NHNN mạnh tay mua vào hôm 10/10 được nhận định là đã kịp thời chặn đà giảm tỷ giá
trong 2 ngày trước đó: 8 và 9/10. Qua đó vừa giúp NHNN tăng dự trữ ngoại hối đồng thời không để
cung ngoại tệ quá dư thừa trên thị trường. Đây cũng là một trong những hiện tượng khá lạ trên thị
trường ngoại tệ, đi ngược lại thông lệ những năm trước, khi hoạt động bán ra của NHNN thường diễn
ra trong những tháng cuối năm.
Với những ứng biến linh hoạt trong việc mua và bán ngoại tệ mà NHNN đã mua được một
lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, góp phần tăng tiềm lực tài chính và uy tín của
quốc gia, đưa dự trữ ngoại hối từ chỗ chỉ đạt 6 tuần nhập khẩu vào cuối năm 2010, lên 6,5 tuần nhập
khẩu vào cuối năm 2011, đạt được ranh giới an tồn tài chính theo thơng lệ quốc tế ( 12 tuần nhập khẩu)
vào cuối năm 2012 và cuối năm 2013. Do tỷ giá ổn định, các tổ chức kinh tế và cá nhân có xu hướng đẩy
mạnh bán ngoại tệ cho các NHTM để lấy VND, dòng kiều hối chuyển về cũng tăng mạnh. Theo dự báo
của Ngân hàng Thế giới, lượng kiều hối về Việt Nam trong năm 2013 đạt khoảng 11 tỷ USD, đứng thứ 9
trong danh sách các nước nhận kiều hối hàng đầu thế giới.
C. Đánh giá chung và những kinh nghiệm học tập của chế độ tỷ giá ở một số nước
I.

Nhận xét chung về giai đoạn trên:


20

Sau khi tỷ giá USD/VNĐ được điều chỉnh tăng tới 9,3% đầu năm 2011, đến nay NHNN đã
duy trì tỷ giá hối đối khá ổn định và thậm chí là không thay đổi tỷ giá trong suốt cả năm 2012. Và
cho đến giữa năm 2013 mới có sự điều chỉnh tỷ giá hối đối chính thức ở mức 1% đồng thời duy trì

biên độ dao động của tỷ giá giao dịch tại các NHTM là +/-1%. .Ở Việt Nam, chính sách tỷ giá hối đối
gắn rất chặt với chính sách tiền tệ, thậm chí gần như trở thành một bộ phận khơng thể tách rời của
chính sách tiền tệ.

Năm 2014 nên tiếp tục duy trì chính sách tỷ giá hối đối đã định hình trong các năm 2012 2013 nhằm tăng tính hấp dẫn của VNĐ và tăng dự trữ ngoại hối, tuân thủ cam kết không điều chỉnh tỷ
giá q 2%. Bên cạnh đó, chính sách tỷ giá hối đối phối hợp chặt chẽ với chính sách quản lý thị
trường vàng theo Nghị định 24, bảo đảm ổn định thị trường, lập lại và củng cố trật tự trên thị trường
vàng và thị trường ngoại hối.
Một số nhược điểm:


Chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay nặng nề về quản lý tỷ giá hối đoái danh nghĩa , thiếu các
phan tích và đánh giá thường xuyên về tỷ giá hối đoái thực và mức độ tác động đến lạm phát,
xuất khẩu để có chính sách điều chỉnh thích hợp



Chính sách nới lỏng biên độ tỷ giá hối đoái hiện nay là đúng hướng , tuy nhiên mức độ nới
lỏng q ít và lộ trình nới lỏng q chậm chạp.

2, Cơ chế tỷ giá nào là phù hợp cho Việt Nam?


21

Thực tiễn xu hướng vận động của các đồng tiền cũng như hệ thống tiền tệ thế giới cho thấy các
nước trên thế giới có xu hướng chuyển dịch từ cơ chế tỉ giá cố định sang cơ chế tỉ giá thả nổi có quản
lí.. Trong những thập kỷ gần đây, cơ chế tỉ giá cố định cũng bộc lộ những điểm yếu chết người ở các
nước đang phát triển khi dòng vốn được tự do luân chuyển hơn. Điều này có liên quan mật thiết đến
“bộ ba bất khả thi” (impossible trinity). Một khi dự trữ vàng và ngoại hối bị giảm sút mạnh mẽ thậm

chí trở nên cạn kiệt, tâm lí lo ngại sự mất giá đồng tiền cùng với hoạt động đầu cơ dễ dàng gây ra
khủng hoảng tiền tệ và tài chính tương tự như cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 hay
(trong một phạm vi hẹp hơn) cuộc khủng hoảng tiền tệ ở châu Mỹ Latin 2000-2001.
Các phân tích ở trên cho thấy trong quá khứ tỉ giá ở Việt Nam được điều hành theo hướng hạ giá
VND trong thời kỳ bất ổn và quay trở lại chế độ neo tỉ giá khi giai đoạn kinh tế bất ổn qua đi. Cơ chế
này đã đạy được những hiệu quả tích cực trong thời gian qua khi mà cán cân XNK và dự trữ ngoại hối
đã được cải thiện rõ ràng.

 Có nên hay khơng khi thay đổi neo giá dựa vào 1 rổ tiền tệ gồm NDT, JPY,
EUR,USD..hay vẫn giữ nguyên như cũ neo 1 đồng ngoại tệ là USD
Nhận định: Việt Nam có thể sẽ phải thay đổi chế độ neo tỷ giá VND với USD hiện nay sang
chế độ neo VND với một nhóm tiền tệ. Nên thay đổi neo giá dựa trên một rổ tiền tệ, vì việc neo giữ
chặt vào đồng USD khiến lựa chọn chính sách trở nên thu hẹp hơn nhưng nếu chuyển sang cơ chế neo
giữ một giỏ tiền tệ là một lựa chọn hợp lý, vừa giữ được ổn định tỷ giá ở mức độ nhất định, vừa đảm
bảo tính linh hoạt của chính sách.
Đây khơng phải lần đầu tiên khả năng (hoặc yêu cầu) thay đổi chế độ neo tỷ giá được đặt ra,
mà đã từng được đề cập đến trong ý kiến của một số chuyên gia trong thời gian qua, nhất là ở các thời
điểm tỷ giá biến động mạnh. Và lần này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề cập đến một cách cụ thể, có thể
xem là một tham khảo, hay một hướng điều hành chính sách cần xem xét. Thêm vào đó, thực tế biến
động trên thị trường thế giới thời gian qua và hiện nay khiến việc xem xét lại chế độ neo tỷ giá trở nên
nổi bật hơn.Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng nhận định: “Những biến động của các đồng tiền trong thời
gian gần đây cho thấy khơng có đồng tiền nào trên thế giới là thực sự an toàn. Điều này dẫn đến xu thế
đa dạng hóa nguồn dự trữ ngoại tệ và cơ chế neo tỷ giá của các quốc gia”. Bổ sung thêm nhận định
trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dẫn ý kiến của nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng Việt Nam sẽ có thể phải
thay đổi chế độ neo tỷ giá VND với USD hiện nay sang chế độ neo VND với một nhóm tiền tệ bao
gồm USD, NDT, EUR, JPY. Khi đó, tỷ giá VND được phản ánh chính xác hơn và ít bị phụ thuộc


22
riêng vào sự mạnh yếu của USD; tình trạng Đơ la hóa thị trường cũng sẽ giảm.Cịn thực tế trên thị

trường hiện nay, những diễn biến phức tạp về tiền tệ có thể sẽ dẫn đến việc điều chỉnh tỷ giá đồng nội
tệ so với đồng USD ở một số nền kinh tế, đặc biệt là Trung Quốc và Việt Nam cần chú ý những tác
động liên quan.
Theo phân tích của Bộ Kế hoạch và đầu tư, trong thời gian tới, khi đồng nhân dân tệ (NDT) tiếp tục
tăng giá và USD giảm giá tương đối so với đồng NDT, cán cân thương mại của Việt Nam - Trung
Quốc, Việt Nam - Mỹ sẽ vận động theo chiều hướng như sau: thứ nhất, nhập siêu từ Trung Quốc có
thể sẽ giảm nhẹ; thứ hai, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ có thể sẽ tăng nhẹ khi đồng NDT mạnh
hơn do hàng hóa của Trung Quốc vào Mỹ sẽ trở lên đắt đỏ. Tuy nhiên, ở hướng thứ hai, tác động sẽ
chưa thực sự rõ nét vì đồng USD đang trong xu hướng giảm giá khiến hàng hóa nói chung vào Mỹ trở
lên đắt hơn sẽ khiến người dân Mỹ thắt chặt chi tiêu. Hơn nữa, việc đồng USD giảm giá sẽ phần nào
làm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ giảm tương đối. Bên cạnh đó, việc đồng
USD tiếp tục xuống giá sẽ có thể tác động tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu của khu vực sử dụng đồng
Euro vào thị trường Mỹ, điều đó sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam vào khu vực.
Đánh giá:
Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ chưa tới 20%, trong khi nhập khẩu của Việt Nam từ
Mỹ chỉ chiếm khoảng 4% tổng kim ngạch nhập khẩu. Trong năm 2013, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu giữa Việt Nam và Mỹ chỉ chiếm 11%, trong khi Trung Quốc là 19%, Nhật Bản là 9,5% và EU là
12,8%.Ngoài ra, cơ cấu đồng tiền trong nợ nước ngoài của Việt Nam cũng đã trở nên đa dạng, khơng
chỉ phụ thuộc chính vào đồng USD. Các chủ nợ lớn của Việt Nam năm 2012 bao gồm Nhật Bản
(34,5%tổng nợ), WB (28,8%) hay ABD (15,5%). Như vậy, phần lớn nợ nước ngoài của Việt Nam chủ
yếu định giá bằng các động tiền mạnh như JPY, SDR, USD và EUR. Cịn nếu tính đến tháng 12/2010,
cơ cấu nợ cơng nước ngoài Việt Nam là JPY (38,8%), SDR (27,1%),USD (22,2%) và EUR
(9,2%).Việc phụ thuộc lớn vào USD, trong khi thương mại và vay nợ phụ thuộc vào đồng tiền các
nước khác với tỷ trọng cao hơn khiến cho tỷ giá song phương giữa Việt Nam và các nước bạn hàng
lớn bị ảnh hưởng trong quan hệ thương mại và đầu tư, không phản ánh được đúng tương quan kinh tế
giữa Việt Nam và các nước bạn hàng, đặc biệt trong bối cảnh tiền USD trên thị trường thế giới biến
động mạnh như hiện nay.Việc thực hiện cơ chế tỷ giá hối đoái dựa trên một rổ tiền tệ được phản ánh
qua cơ chế cho phép chuyển đổi tự do từ đồng USD thông qua VND sang các ngoại tệ mạnh khác trên
lãnh thổ Việt Nam; cùng với đó cho phép hệ thống các ngân hàng thương mại được chuyển đổi từ
VND sang USD, sang các ngoại tệ khác ở thị trường trong nước và thị trường quốc tế.Và nhờ cơ chế

tỷ giá hối đoái dựa trên một rổ tiền tệ, các nhà xuất khẩu Việt Nam có điều kiện để tính tốn giá thành
sản phẩm xuất khẩu bằng VND quy đổi qua USD hay các ngoại tệ mạnh khác để xác định được mức
giá bán hàng của mình làm sao cạnh tranh nhất trên thị trường xuất khẩu.


23


24



×