Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

(Khóa luận tốt nghiệp Luật học) - Thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1009.77 KB, 71 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ-LUẬT
KHOA LUẬT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ

SVTH: VŨ MINH HIẾU
MSSV: K165031950

TP. HCM, NĂM 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ-LUẬT
KHOA LUẬT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ

SVTH: VŨ MINH HIẾU
MSSV: K165031950

TP.HCM, NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “ thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn
thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế “ là công trình nghiên cứu của bản thân. Những


phần sử dụng tài liệu tham khảo trong luận án đã được nêu rõ trong phần tài liệu tham
khảo. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận án là hồn tồn trung thực, nếu sai tơi
xin chịu hồn tồn trách nhiệm, mọi kỉ luật của khoa và nhà trường đề ra.
TP.Hồ Chí Minh , ngày... tháng... năm...
Vũ Minh Hiếu


LỜI CẢM ƠN
“Lời đầu tiên, em xin trân trọng cảm ơn thầy đã hướng dẫn em là TS. Nguyễn Đình
Huy, thầy đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình học tập cũng như hoàn thành luận
văn.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy,cô khoa Luật của trường Đại học Kinh Tế -Luật đã
tận tình giảng dạy cho em tận tình trong thời gian em theo học tại trường.
Do giới hạn kiến thức và khả năng lý luận của bản thân cịn nhiều thiếu sót và hạn
chế, kính mong sự chỉ dẫn và đóng góp ý kiến của q thầy, cơ để bài luận văn của
em hoàn thiện thêm.
Em xin chân thành cảm ơn!”


DANH MỰC TỪ VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt/ký
Cụm từ đầy đủ
hiệu

TT

BLDS 2015

Bộ luật Dân sự năm 2015


BLTTDS 2015

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

Luật HN&GĐ 2014

Luật Hơn nhân&gia đình 2014

PLTK

Pháp lệnh thừa kế

SL

Sắc lệnh

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TANDCC

Tòa án nhân dân cấp cao

UBND

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1
2.Tình hình nghiên cứu ........................................................................................... 2
3.Phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................................................. 4
4.Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 4
5.Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài ................................................... 4
6.Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn ....................................................... 5
7.Kết cấu của luận văn ............................................................................................ 5
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ....................... 6
1.1 Khái niệm chung ............................................................................................... 6
1.1.1 Thừa kế và quyền thừa kế .............................................................................. 6
Một trong những yếu tố để đánh giá sự vững mạnh của một quốc gia đó chính là sự
bảo hộ của Nhà nước về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như việc
kết hợp hài hịa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Trên tinh thần đó, quyền
thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ. ....... 6
1.1.2 Di sản thừa kế ................................................................................................. 7
1.1.3. Người để lại di sản thừa kế ........................................................................... 8
1.1.4. Người thừa kế ................................................................................................ 8
1.2 Diện và hàng thừa kế ......................................................................................... 9
1.2.1 Khái quát chung về diện và hàng thừa kế ...................................................... 9
1.2.2 Cơ sở xác định diện và hàng thừa kế ........................................................... 12
1.3 Diện thừa kế theo pháp luật Việt Nam ............................................................ 13
1.3.1 Diện thừa kế theo quan hệ hôn nhân ............................................................ 14
1.3.2 Diện thừa kế theo quan hệ huyết thống........................................................ 18
1.3.3 Diện thừa kế theo quan hệ nuôi dưỡng ........................................................ 25
1.4 Hàng thừa kế theo pháp luật ............................................................................ 30
1.4.1 Hàng thừa kế thứ nhất .................................................................................. 33
1.4.2 Hàng thừa kế thứ 2 ....................................................................................... 36



1.4.3 Hàng thừa kế thứ 3 ....................................................................................... 37
Kết luận chương 1 ................................................................................................. 40
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ ...................................................... 41
2.1.Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật Việt Nam về diện và hàng
thừa kế ................................................................................................................... 41
2.1.1:Thực trạng giải quyết tranh chấp về thừa kế những năm gần đây ............... 41
2.1.2 Nguyên nhân của thực trạng những vướng mắc khi xử lý vụ án về diện và
hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam .................................................................. 45
2.1.3 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật- Một số điểm hạn chế ........................ 48
2.1.4 Kiến nghị hoàn thiện .................................................................................... 51
2.2 So sánh diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt nam với quy
định của một số nước trên thế giới ........................................................................ 53
2.2.1 Diện và hàng thừa kế của Nhật Bản ............................................................. 53
2.2.2 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật cộng hòa Pháp ................................... 55
2.2.3 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Nga .................................................... 56
2.2.4 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Iran .................................................... 58
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO




1

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Quyền thừa kế ra đời là một trong những phương thức pháp lý để bảo tồn và gia tăng
tích lũy của cải trong xã hội. Nhà nước đã công nhận quyền thừa kế của cá nhân đối với tài
sản, coi thừa kế là một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu. Điều này khơng chỉ có tác

dụng kích thích tính tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng mà còn tạo động lực đẩy mạnh
niềm say mê, kích thích sự quản lý năng động của mỗi con người tạo ra khối tài sản của
mình. Khi một người chết đi, tài sản của họ để lại sẽ trở thành di sản và được phân chia cho
các thế hệ con cháu, sự dịch chuyển di sản theo chế định thừa kế chính là sự nối tiếp về
quyền sở hữu. Pháp luật công nhận quyền thừa kế đã đáp ứng phần nào mong ước của con
người là tồn tại mãi mãi. Chính vì thế, pháp luật thừa kế trên thế giới nói chung và pháp luật
thừa kế ở Việt Nam nói riêng đã khơng ngừng phát triển và hoàn thiện chế định này.
Tại Việt Nam, sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của thừa kế, nên ngay
những ngày đầu mới dựng nước, các triều đại Lý, Trần, Lê cũng đã quan tâm đến ban hành
pháp luật về thừa kế. Pháp luật thành văn về thừa kế ở nước ta, lần đầu tiên được quy định
trong chương "Điền sản" của Bộ Luật Hồng Đức dưới triều vua Lê Thái Tổ. Trải qua quá
trình đấu tranh cách mạng, xây dựng CNXH ở nước ta, các quy định này đã được ghi nhận,
mở rộng, phát triển và được thực hiện trên thực tế tại các Điều 19 Hiến Pháp 1959 "Nhà
nước chiếu theo pháp luật bảo vệ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân". Điều 27 Hiến
Pháp 1980 "Nhà nước bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân", Điều 58 Hiến Pháp1992,
Hiến Pháp 2013... và đặc biệt là sự ra đời của Bộ luật Dân sự 1995, Bộ Luật Dân Sự 2005
và sau đó là BLDS 2015.Bộ luật đã đánh dấu một bước phát triển của pháp luật Việt Nam
nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng.
Bộ Luật Dân Sự 2015 được xem là kết quả cao của q trình pháp điển hố những quy
định của pháp luật về thừa kế. Nó kế thừa và phát triển những quy định phù hợp với thực
tiễn, khơng ngừng hồn thiện để bảo vệ quyền lợi của người thừa kế một cách có hiệu quả
nhất.
Hiện nay các tranh chấp về thừa kế có xu hướng ngày càng gia tăng và trở nên phức
tạp hơn. Sự nhận thức không đầy đủ về pháp luật của cá nhân, sự áp dụng pháp luật không


2

thống nhất giữa các cấp Tòa án là những yếu tố làm cho các vụ kiện gặp nhiều khó khăn,
thời gian giải quyết kéo dài, ảnh hưởng không tốt đến truyền thống đạo đức tốt đẹp vốn có

từ lâu đời của dân tộc Việt Nam ta. Đặc biệt hơn, một trong những khó khăn vướng mắc lớn
nhất khi áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp về thừa kế chính là vấn
đề xác định làm sao cho đúng về diện và hàng thừa kế. Trong vấn đề thừa kế theo pháp luật,
nó là vấn đề vơ cùng quan trọng. Nó xác định phạm vi và thứ tự được hưởng thừa kế của
những người được hưởng thừa kế. Hiện nay quy định của pháp luật tuy đã khá chặt chẽ
nhưng thực tế vẫn còn những điểm cần khắc phục, bởi vậy em đã chọn đề tài “Thực tiễn áp
dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật Việt Nam về diện
và hàng thừa kế” để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, phân tích, kiến nghị để làm sáng tỏ một số vấn đề
lý luận về diện và hàng thừa kế trong chế định thừa kế theo pháp luật là một đòi hỏi tất yếu,
khách quan cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế.
2.Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, các đề tài nghiên cứu về thừa kế tương đối nhiều và ở các cấp độ khác nhau
như khóa luận cử nhân, luận văn cao học và các luận án tiến sĩ. Ngồi ra, cịn một số bài viết
trong các tạp chí luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội, tạp chí dân chủ và pháp luật của
Bộ Tư pháp, tạp chí Tịa án nhân dân…
+ Các luận án tiến sĩ:
- Phùng Trung Tập: “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945
đến nay”. Luận án nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của thừa kế theo pháp luật
Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Nội dung chủ yếu của luận án làm rõ các điều kiện chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến việc điều chỉnh pháp luật về diện và hàng thừa
kế trong pháp luật dân sự Việt Nam.
- Phạm Văn Tuyết: “Thừa kế theo di chúc bộ luật dân sự Việt Nam”. Đề tài nghiên
cứu những vấn đề như: khái niệm về di chúc, quyền của người lập di chúc, các điều kiện có
hiệu lực của di chúc.
+Luận văn cao học:
- Nguyễn Thị Vĩnh: “Thừa kế theo pháp luật trong BLDS Việt Nam”. Nội dung chủ
yếu gồm các vấn đề sau: khái niệm thừa kế theo pháp luật, diện và hàng thừa kế, thừa kế thế
vị, các trường hợp thừa kế theo pháp luật.



3

- Nguyễn Thị Hồng Bắc: “Một số vấn đề thừa kế theo pháp luật trong BLDS Việt
Nam”. Đề tài nghiên cứu có tính sơ lược về lịch sử của thừa kế theo pháp luật ở Việt Nam,
một số nguyên tắc chủ yếu của thừa kế, các trường hợp thừa kế theo pháp luật, căn cứ phân
chia hàng thừa kế.
+ Các cơng trình nghiên cứu khác:
- Viện khoa học pháp lý: “Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của BLDS”. Các
tập bình luận phân tích nội dung cơ bản của qui định trong BLDS 1995 nói cung và các quy
định về thừa kế nói riêng.
- Việc nghiên cứu về nhà nước và pháp luật:” Những vấn đề cơ bản về BLDS Việt
Nam”. Đây là số tạp chí chuyên đề về BLDS (số 5/1995). Trong đó có chuyên đề về chế
định thừa kế trong BLDS. Chuyên đề này nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản của điều chỉnh
pháp luật về thừa kế, căn cứ khoa học để phân chia các hàng thừa kế.
- Trường Đại học Luật Hà Nội, số tạp chí chun đề về BLDS (1996). Trong đó có bài
viết về những điểm mới của di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS so với pháp lệnh
thừa kế 1990
- Tòa án nhân dân tối cao: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả
công tác giải quyết các tranh chấp thừa kế tại tịa án nhân dân”. Đây là cơng trình nghiên
cứu về thừa kế, nội dung chủ yếu của đề tài là các vấn đề thực tiễn xét xử của tòa án trong
việc giải quyết tranh chấp về thừa kế.
- Nguyễn Ngọc Điện: “Một số suy nghĩ về thừa kế trong BLDS”. Tác giả so sánh pháp
luật về thừa kế của Việt Nam qua các thời kỳ phát triển và so với chế định thừa kế trong bộ
luật dân sự Pháp.
Do tầm quan trọng của vấn đề thừa kế nên nội dung này đã được rất nhiều nhà khoa
học pháp lý quan tâm, nghiên cứu. Nguyễn Ngọc Điện là tác giả của cuốn "Bình luận khoa
học về thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam". Đinh Văn Thanh - Trần Hữu Biền có tác
phẩm "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế".
Tất cả các cơng trình nghiên cứu trên có phạm vi rộng, mang tính tồn diện, bao qt

cả chế định pháp luật về thừa kế, và đưa ra những kiến nghị để ngày càng hoàn thiện hơn hệ
thống pháp luật về thừa kế. Riêng với đề tài " Diện và hàng thừa kế theo pháp luật dân sự
Việt Nam ", tác giả tập trung đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung, bản chất của diện và
hàng thừa kế được quy định trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra


4

một số kiến nghị mang tính giải pháp để ngày càng hoàn thiện hơn những quy định về nội
dung này trong luật.
Đây thực sự là những cơng trình có giá trị lớn trong cả khoa học lý luận và thực tiễn.
Tuy nhiên, những cơng trình nghiên cứu này hoặc đề cập đến những vấn đề mang tính khái
quát chung về chế định thừa kế qua các thời kỳ hoặc chỉ đi sâu vào phân tích một quan hệ
thừa kế nhất định chứ chưa nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về vấn đề thừa kế theo
pháp luật hiện hành. Thừa kế theo pháp luật nói chung hay diện và hàng thừa kế theo pháp
luật nói riêng khơng phải là đề tài mới nhưng với sự thay đổi từng ngày từng giờ của các quan
hệ xã hội, quan hệ tài sản địi hỏi phải có những quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh. Do
đó, việc nghiên cứu kịp thời để có hướng đề xuất các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề
này cho phù hợp với thực tiễn là hết sức cần thiết.
3.Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, nội dung, bản chất quy định của pháp
luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế. Khi nghiên cứu đề tài, tác giả sẽ tham khảo toàn bộ
các quy định pháp luật của nước ta về diện và hàng thừa kế gắn với từng giai đoạn trong lịch
sử theo sự phát triển của đất nước, trong các sách chuyên khảo, đặc biệt là các quy định
trong Bộ Luật Dân Sự 2015, so sánh với các quy định của một số nước trên thế giới về diện
và hàng thừa kế qua đó có cái nhìn về diện và hàng thừa kế theo pháp luật hiện hành một
cách tổng quát hơn, cụ thể hơn.
4.Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật

lịch sử. Bên cạnh đó cịn có sự phối hợp với một số phương pháp khác như: phương pháp
thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp.
5.Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ nội dung và bản chất của diện và hàng thừa
kế theo quy định của pháp luật Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước.
Trên cơ sở đó, xác định đúng, chính xác những người thuộc diện thừa kế và thứ tự hưởng
ưu tiên theo quy định của BLDS năm 2015.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả rút ra những vướng mắc còn tồn tại khi áp dụng
quy định của pháp luật về diện và hàng thừa kế. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị mang


5

tính giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại, góp phần hồn thiện hơn các quy định
về thừa kế
6.Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Từ trước đến nay đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực thừa kế.
Có những cơng trình khoa học nghiên cứu vấn đề nội dung này một cách tồn diện, bao qt,
nhưng cũng có những cơng trình chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhỏ của chế định thừa kế.
Đề tài luận văn này không phải là đề tài nghiên cứu mới. Đã có những tác giả chọn để
làm cơng trình nghiên cứu riêng của mình ở nhiều cấp độ khác nhau. Tuy nhiên khi chọn đề
tài nghiên cứu này tôi đã nghiên cứu một cách chi tiết về từng diện và từng hàng thừa kế gắn
với từng quy định của mỗi giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, tơi đã so
sánh với các quy định của một số nước về diện và hàng thừa kế qua đó làm sáng tỏ những
quy định của pháp luật hiện hành và tìm ra những vướng mắc còn tồn tại trên thực tế để đề
xuất kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế.
7.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 2 chương:
Chương 1: lý luận chung về diện và hàng thừa kế

Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện pháp luật về diện
và hàng thừa kế


6

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ
1.1 Khái niệm chung
1.1.1 Thừa kế và quyền thừa kế
Một trong những yếu tố để đánh giá sự vững mạnh của một quốc gia đó chính là sự
bảo hộ của Nhà nước về các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân cũng như việc kết hợp
hài hịa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Trên tinh thần đó, quyền thừa kế là một
trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ.
Để hiểu và nhận thức sâu sắc về khái niệm quyền thừa kế trước hết phải làm sáng tỏ
nội dung khái niệm thừa kế. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngơn ngữ học thì "Thừa kế
là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống" hay theo Từ điển Luật học
của Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp thì thừa kế được giải thích là "Sự dịch chuyển tài
sản của người chết cho người cịn sống. Thừa kế ln gắn với sở hữu.
Khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ sở hữu và quan hệ thừa kế đã tồn tại
như một tất yếu khách quan. Thừa kế xuất hiện phụ thuộc vào quan hệ sở hữu. Nếu sở hữu
là yếu tố quyết định thừa kế, thì thừa kế là phương tiện duy trì và củng cố quan hệ sở hữu.
Nghiên cứu tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người đã chỉ ra rằng quan hệ thừa
kế xuất hiện như một tất yếu khách quan cùng với quan hệ sở hữu. Khi thừa kế tài sản chưa có
sự can thiệp của Nhà nước thì thừa kế đơn thuần chỉ là quan hệ xã hội mang tính kinh tế. Khi
Nhà nước ra đời, thông qua các quy phạm pháp luật, Nhà nước đã điều chỉnh, tác động đến
quá trình dịch chuyển tài sản nói trên bao gồm cả quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng
di sản của các chủ thể được gọi chung là quyền thừa kế. Như vậy, khác với thừa kế xuất hiện ngay
từ thời kỳ sơ khai, khi xã hội chưa có sự phân chia giai cấp, khái niệm quyền thừa kế chỉ xuất
hiện khi có sự xuất hiện của Nhà nước và pháp luật. Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế có thể
được hiểu là một chế định pháp luật bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quá

trình dịch chuyển tài sản từ người chết cho người còn sống. Theo nghĩa hẹp, quyền thừa kế có
thể được hiểu là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể có quyền để lại di sản thừa kế hoặc
có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết để lại theo ý chí của người đó khi cịn sống (bằng
di chúc) hoặc theo điều kiện, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định (thừa kế theo pháp luật).
Pháp luật thừa kế ở nước ta trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động, tôn
trọng thành quả lao động do họ làm ra cũng như chuyển thành kết quả đó cho những người
thừa kế sau khi họ chết. Mặt khác, quyền thừa kế ở nước ta là một trong những phương tiện


7

để củng cố và phát triển các quan hệ hôn nhân gia đình, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các
chủ thể trong quan hệ thừa kế, đặc biệt bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên hoặc đã
thành niên nhưng khơng có khả năng lao động. Qua đó góp phần bảo đảm quyền sở hữu cho
mọi cá nhân trong xã hội.
Tóm lại, thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của một người đã chết sang cho người cịn
sống theo những trình tự luật định. Quyền thừa kế của một cá nhân gắn bó chặt chẽ với
quyền sở hữu của cá nhân đó. Quyền sở hữu là tiền đề, là cơ sở của quyền thừa kế và ngược
lại, quyền thừa kế là căn cứ thiết lập quyền sở hữu mới. Vì vậy, hệ thống pháp luật dân sự
của tất cả các nước trên thế giới bao giờ cũng qui định về vấn đề thừa kế như là một phương
thức bảo đảm quyền sở hữu của chủ sở hữu.
Thừa kế theo pháp luật về bản chất vừa bảo vệ quyền đương nhiên của người có tài sản
được để lại tài sản của họ khi họ chết, vừa bảo vệ quyền của những người có quan hệ huyết
thống, gia đình hay thân thuộc với người đã chết có tài sản để lại.
1.1.2 Di sản thừa kế
Theo Từ điển tiếng Việt: "Di sản là của cải, tài sản của người chết để lại"
Điều 612 BLDS năm 2015 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết,
phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác". Di sản được Điều 612
BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng khá đầy đủ và có tầm khái quát cao, không dùng
phương pháp liệt kê bao gồm những tài sản gì như những quy định trước đây.

Như vậy, di sản là toàn bộ những tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đã
chết cũng như các quyền về tài sản của người đó bao gồm: Tư liệu sinh hoạt; Tiền, vàng,
bạc, kim khí quý, đá quý được dùng làm đồ trang sức hoặc dùng làm của cải để dành, tiền
tiết kiệm ngân hàng, tiền lương, tiền thưởng chưa lĩnh; Nhà ở thuộc sở hữu của người chết;
Vốn, cổ phần, vật tư, tư liệu sản xuất của người chết; Tài liệu, dụng cụ máy móc của người
làm cơng tác nghiên cứu; Cây cối mà người được giao sử dụng đất trồng và hưởng lợi trên
đất đó; Các quyền về tài sản đó là quyền địi nợ đồ vật đã cho mượn, cho thuê, chuộc lại tài
sản đã cầm cố, quyền đối với tài sản đã thế chấp, đã bồi thường thiệt hại về tài sản, hưởng
những quyền lợi của tác giả hoặc chủ sở hữu văn bằng, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp,
quyền tác giả đối với tác phẩm.


8

Tóm lại, di sản được Điều 612 BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và có
tính khái quát cao. Điều này thể hiện trình độ và kỹ thuật lập pháp của nước ta đã đạt được
một kết quả nhất định.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp và có liên quan đến nhiều vấn đề khác trong
quan hệ thừa kế mà chỉ được quy định trong một điều luật nên khi nghiên cứu cũng như khi
xét xử phải đặt nó trong mối liên hệ biện chứng với các quy phạm pháp luật khác liên quan
trực tiếp đến việc xác định và phân chia di sản.
Bởi vậy, việc xác định quyền sở hữu của một người để từ đó xác định di sản khi người
đó chết cịn gặp nhiều vướng mắc về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
1.1.3. Người để lại di sản thừa kế
Quyền để lại thừa kế là một quyền cơ bản của cá nhân được pháp luật Việt Nam ghi
nhận và bảo hộ. Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu của mọi cá nhân đối với những thu nhập hợp
pháp của họ. do đó bất kỳ cá nhân nào cũng có quyền quyết định đối với các loại tài sản
thuộc quyền sở hữu riêng của mình. Vì thế cá nhân có quyền lập di chúc cho người khác
hưởng tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của mình sau khi mình chết, nếu khơng có di chúc
thì tài sản này được chia theo pháp luật.

Cần lưu ý rằng, người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân, khơng thể là các pháp nhân
hay tổ chức. Các pháp nhân hay tổ chức được thành lập với những mục đích và nhiệm vụ
khác nhau và tài sản của các pháp nhân, tổ chức đó nhằm để phục vụ cho các hoạt động kinh
doanh của chính pháp nhân, tổ chức. Khi các pháp nhân, tổ chức đó đình chỉ hoạt động của
mình (phá sản, giải thể...) tài sản của các pháp nhân, tổ chức được giải quyết theo các quy
định của pháp luật. Các pháp nhân, tổ chức chỉ tham gia quan hệ thừa kế với tư cách là người
được hưởng di sản theo di chúc.
1.1.4. Người thừa kế
Người thừa kế là người hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp
luật. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân, tổ chức nhưng người thừa kế theo pháp
luật thì chỉ có thể là cá nhân và phải có quan hệ hơn nhân, gia đình hoặc ni dưỡng đối với
người để lại di sản. Giữa người để lại di sản và người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ pháp
lý với nhau. Người thừa kế có quyền sở hữu đối với phần di sản thừa kế, đồng thời họ phải
có trách nhiệm với những nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản.
Điều 613 BLDS năm 2015 quy định:


9

“Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh
ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản
chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm
mở thừa kế”1.
• Trường hợp người không được quyền hưởng di sản:
Là những trường hợp người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật bị tước quyền
hưởng di sản vì họ khơng xứng đáng được hưởng quyền đó. Khoản 1 Điều 621 BLDS năm
2015 quy định những trường hợp không được quyền hưởng di sản.
Mặc dù những trường hợp nói trên là những trường hợp không được quyền hưởng di
sản nhưng khoản 2 Điều 621 BLDS 2015 quy định những người đó vẫn được hưởng di sản
"nếu người để lại di sản biết những hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ hưởng

thừa kế theo di chúc".
Việc không cho hưởng quyền nhận di sản được thực hiện sau khi mở thừa kế. Trong
thực tế xảy ra trường hợp làm giả mạo giấy tờ về người thừa kế khác từ chối nhận di sản
thừa kế để cho người đó được hưởng nhiều hơn. Giấy tờ này khơng có giá trị pháp lý nhưng
pháp luật không quy định trường hợp này là trường hợp không được hưởng quyền nhận di
sản. Đây là một vấn đề mà các nhà lập pháp cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật
hơn nữa.
1.2 Diện và hàng thừa kế
1.2.1 Khái quát chung về diện và hàng thừa kế
* Diện thừa kế
Diện thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của chế định thừa kế, tuy nhiên
vấn đề này lại chưa thực sự được các nhà làm luật quan tâm quy định cụ thể, chi tiết trong
luật. Khái niệm diện thừa kế chỉ được quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp
lý. Cịn luật thực định từ trước đến nay chưa có văn bản nào quy định cụ thể về vấn đề này.
BLDS 1995, 2005 cũng như BLDS năm 2015 chưa có nội dung nào quy định về khái niệm
diện thừa kế là gì và diện thừa kế bao gồm những ai? Đây là một vấn đề cần được khắc phục
trong quá trình hồn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam.

1

BLDS 2015


10

Theo giáo trình Luật dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội diện thừa kế được hiểu là
"phạm vi những người có quyền hưởng di sản của người chết theo quy định của pháp luật" 2.
Nhìn chung, khái niệm nêu trên đã phản ánh đầy đủ nội dung cũng như bản chất của diện
thừa kế.
Diện thừa kế chỉ được đặt ra trong trình tự thừa kế theo pháp luật. Mà pháp luật phụ

thuộc rất nhiều vào quan hệ sản xuất của từng giai đoạn phát triển xã hội. Vì thế ở mỗi một
chế độ xã hội nhất định mà phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật lại được
quy định ở diện rộng hẹp khác nhau.
Tiếp cận và tìm hiểu những quy định của pháp luật của một số nước trên thế giới về
diện thừa kế cho thấy mặc dù có sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
nhưng nhìn chung dù ở chế độ xã hội nào những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật
đều có đặc điểm chung là những người thân thích gần gũi với người để lại di sản thừa kế và
do quan hệ hôn nhân và gia đình chi phối.
Pháp luật của Nhật và các nước Nam Mỹ quy định diện thừa kế bao gồm các con của
người chết; cha, mẹ, anh, chị, em ruột của người chết; bà con xa, gần khác.
Một số nước như Đức, áo, Thụy Sĩ quy định: Bà con bậc trên, thế hệ trên của người
chết như: cha, mẹ, cố, cụ; bà con bậc dưới, thế hệ dưới của người chết như con, cháu.
Điều 1629 Bộ luật thương mại Thái Lan quy định diện thừa kế là: Con cái; bố, mẹ;
anh, chị, em cùng huyết thống; anh, chị, em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà;
chú, bác, cơ, dì; người vợ (hoặc người chồng cịn sống).
Ở nước ta, trước năm 1945 dưới chế độ thực dân phong kiến, tư tưởng trọng nam khinh
nữ nặng nề đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc xác định diện thừa kế. Địa vị của người vợ trong
quan hệ gia đình luôn bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con và người chồng trong những
quan hệ xã hội thông thường và ngay cả trong quan hệ thừa kế.
Ngược lại với bản chất pháp luật của chế độ thực dân, phong kiến, pháp luật thừa kế
dưới chế độ mới ở nước ta đã được thể hiện rõ bản chất ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Điều 9 Hiến pháp 1946 quy định: "Đàn bà ngang
quyền với đàn ông về mọi phương diện", trong đó người vợ có quyền thừa kế như những
người con khác khi chồng chết trước. Đặc biệt, khi sắc lệnh số 97-SL ngày 22 tháng 5 năm

2

Giáo trình Luật dân sự- Đại học Luật Hà Nội , tr.266



11

1950 được ban hành, diện thừa kế theo pháp luật theo tinh thần của Điều 10 và Điều 11 bao
gồm: con cháu, vợ hay chồng của người để lại di sản.
Như vậy, diện thừa kế theo pháp luật dưới chế độ mới ở nước ta kể từ năm 1945 đến
nay luôn được xác định theo quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng
giữa người để lại di sản và người thừa kế.
Một người có thể trở thành người thừa kế theo pháp luật đối với di sản của người chết
thì giữa họ phải có mới quan hệ nhất định khi người để lại di sản còn sống. Mối quan hệ này
là sợi dây ràng buộc họ bởi quyền của người này và nghĩa vụ của người kia hoặc là bổn phận
và trách nhiệm giữa họ khi người để lại di sản còn sống. Những mối quan hệ được bắt nguồn
từ sâu xa của giá trị đạo đức truyền thống cùng sự phù hợp với pháp luật của một chế độ xã
hội nhất định.
Theo BLDS hiện hành thì những người thuộc diện thừa kế gồm: Vợ, chồng, cha đẻ,
mẹ đẻ, mẹ nuôi, cha nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại, anh, chị, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại; cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ
ruột, dì ruột chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Tóm lại, diện thừa kế bao gồm các cá nhân cịn sống có quan hệ hơn nhân, quan hệ
huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản được tính đến thời điểm mở thừa
kế của người đó và những cá nhân sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã
thành thai trước khi người để lại di sản chết. Phạm vi những cá nhân thuộc diện thừa kế được
xác định theo số người được pháp luật chỉ định trong các hàng thừa kế theo pháp luật của
người để lại di sản.
* Hàng thừa kế
Khác với thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật phải xác định được người thuộc
diện thừa kế là ai? Nhưng không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế đều được hưởng
di sản thừa kế như nhau, mà theo mức độ quan hệ với người để lại di sản thừa kế, pháp luật
phân những người thuộc diện thừa kế thành các hàng thừa kế.
Những nhóm người được pháp luật xếp trong cùng một hàng được hưởng phần di sản

bằng nhau được gọi là hàng thừa kế. Không phải tất cả những người thuộc diện được hưởng
thừa kế đều được hưởng phần di sản như nhau, mà tùy thuộc vào mức độ quan hệ với người
để lại di sản, pháp luật phân những người thuộc diện được hưởng thừa kế thành các hàng


12

thừa kế khác nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu khơng cịn
ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, khơng có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di
sản hoặc từ chối nhận di sản.
Nghiên cứu và phân tích một số các quy định về hàng thừa kế theo pháp luật của một
số nước trên thế giới cho thấy việc xác định hàng thừa kế ở mỗi nước có khác nhau nhưng
cũng như diện thừa kế, việc quy định hàng thừa kế cũng đều dựa trên quan hệ huyết thống,
hôn nhân và ni dưỡng.
Khái niệm hàng thừa kế là gì cũng không được quy định cụ thể trong hệ thống pháp
luật của Việt Nam và cũng chưa có tác giả nào đưa ra khái niệm chính xác, đầy đủ thể hiện
rõ nội dung của hàng thừa kế
Điều 651 BLDS năm 2015 quy định những người thừa kế theo pháp luật được sắp xếp
theo ba hàng thừa kế sau đây:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em
ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại,
bà ngoại.
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột,
cơ ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, hàng thừa kế cũng được sắp xếp dựa
trên cơ sở mức độ thân thích với người để lại di sản. Những người thừa kế ở hàng thứ nhất
và hàng thứ hai đều có mối quan hệ huyết thống, hơn nhân, ni dưỡng với người để lại di
sản, giữa họ đều có nghĩa vụ nuôi dưỡng, giám hộ và đại diện đương nhiên của nhau khi

thỏa mãn các điều kiện phải giám hộ cho nhau nhất định. Những người thừa kế ở hàng thứ
ba được cơ cấu gồm nhiều thế hệ và nhiều bậc trên dưới khác nhau theo quan hệ huyết thống
nhưng giữa họ khơng có sự ràng buộc về nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng nhau.
1.2.2 Cơ sở xác định diện và hàng thừa kế
Qua từng giai đoạn phát triển, quy định về diện thừa kế có nhiều điểm chung và có những
quy định về phạm vi rộng hẹp khác nhau. Trước hết, cần xem xét khái niệm về diện thừa kế.
Diện thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của chế định thừa kế. Tuy nhiên, khái
niệm về diện thừa kế mới chỉ được quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp lý chứ


13

chưa được ghi nhận dưới góc độ quy định của pháp luật nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác
nhau. Trong Giáo trình Luật dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội có đưa ra khái niệm về
diện thừa kế như sau: "Diện những người thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng
di sản thừa kế của người chết theo quy định của pháp luật".
Khái niệm về diện thừa kế cịn có thể được hiểu là "phạm vi những người có thể được
hưởng di sản do người chết để lại được xác định theo một trong ba quan hệ (quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng) với người để lại di sản". Nhìn chung các khái
niệm nêu trên đã phản ánh khá đầy đủ nội dung cũng như bản chất của diện thừa kế. Tuy
nhiên, khái niệm thứ hai về diện thừa kế là hợp lý, cụ thể hơn và tác giả đồng tình với quan
điểm này bởi không phải cá nhân nào trong diện thừa kế cũng có quyền hưởng di sản thừa kế.
Phạm vi những người có thể được hưởng di sản thừa kế phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển
của xã hội cũng như quy định pháp luật của mỗi chế độ nhất định.
Như đã đề cập ở trên về tiến trình phát triển pháp luật về thừa kế theo pháp luật, ở
nước ta, trước năm 1945, dưới chế độ cũ, đặc biệt là dưới chế độ thực dân phong kiến, bản chất
của giai cấp thống trị với tư tưởng trọng nam khinh nữ hết sức nặng nề đã có sự ảnh hưởng sâu
sắc đến việc xác định diện thừa kế. Theo đó, diện thừa kế chủ yếu dựa trên quan hệ huyết
thống nội tộc, địa vị của người vợ trong quan hệ thừa kế bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các
con và có sự phân biệt giữa vợ cả và vợ thứ trong việc hưởng di sản của người chồng chết trước.

Kể từ khi giành được độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam và trong quá trình đổi mới, phát
triển, pháp luật thừa kế ở nước ta đã xóa bỏ những tàn tích của tư tưởng lạc hậu trọng nam,
khinh nữ và mở rộng diện thừa kế. Theo đó, người thừa kế theo pháp luật phải có một trong
ba mối quan hệ sau đây với người để lại di sản: quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân
hoặc quan hệ nuôi dưỡng.
1.3 Diện thừa kế theo pháp luật Việt Nam
Pháp luật dân sự hiện hành quy định chế định thừa kế bao gồm hai hình thức là thừa
kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Diện và hàng thừa kế là một trong những vấn đề
chính yếu và chỉ được đặt ra trong hình thức thừa kế theo pháp luật. Quy định này xuất phát
từ bản chất của hình thức thừa kế theo di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc, có thể
để lại di sản cho bất kỳ ai nên không cần phải xác định diện và hàng thừa kế.
BLDS Việt Nam hiện hành quy định diện và hàng thừa kế dựa trên ba cơ sở: quan hệ
huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng.


14

1.3.1 Diện thừa kế theo quan hệ hôn nhân
Quan hệ hôn nhân là quan hệ khởi nguồn và bắt đầu để tạo ra các gia đình - Các tế bào
của xã hội. Vì vậy, quan hệ hơn nhân ln được pháp luật coi trọng và bảo vệ. Quan hệ hôn
nhân được thiết lập trên cơ sở có sự kết hơn giữa nam và nữ. Việc kết hôn không chỉ gắn bó
giữa hai người với nhau về tình cảm mà cịn làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa hai người
trong đó có quyền thừa kế. Pháp luật ghi nhận và bảo vệ cho vợ chồng thuộc diện thừa kế
theo pháp luật của nhau nhằm mục đích duy trì quan hệ tình cảm đồng thời tạo cơ sở để tiếp
tục duy trì cuộc sống gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, phát sinh và phát triển cùng với
sự phát triển của xã hội. Mỗi gia đình được xây dựng dựa trên những sợi dây liên kết của
hôn nhân, huyết thống và ni dưỡng trong đó quan hệ hơn nhân có thể xem là quan hệ nền
tảng. Quan hệ hôn nhân là một trong những căn cứ quan trọng để xác định diện thừa kế theo
pháp luật.
Kết hôn là việc nam nữ lấy nhau thành vợ chồng theo những quy định của pháp luật,

đặc biệt là Luật HN&GĐ. Theo Luật HN&GĐ năm 2014, nam nữ kết hôn phải tuân theo
các quy định về điều kiện kết hôn, không vi phạm những điều cấm, và tiến hành đúng trình
tự, thủ tục luật định. Khi kết hôn, quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng phát sinh và được
pháp luật bảo vệ. Việc kết hơn khơng chỉ gắn bó giữa hai người với nhau về tình cảm mà
cịn làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa hai người, ngoài ra hai bên cịn có quan hệ tài sản,
Vợ chồng là hàng thừa kế thứ nhất của nhau theo qui định tại khoản 1 Điều 651 BLDS năm
2015 có quy định.
Trước năm 1945, dưới chế độ thực dân phong kiến, quan hệ hôn nhân không được coi
là cơ sở để xác định diện thừa kế giữa vợ và chồng. Trong quan hệ gia đình thì quan hệ hơn
nhân bị xem nhẹ. Tư tưởng trọng nam, khinh nữ đã ảnh hưởng sâu sắc tới chế định thừa kế.
Thừa kế di sản trong thời kỳ này được coi như là một trong những phương tiện để duy trì và
bảo vệ khối tài sản của nội tộc và ưu tiên cho những người trong nội tộc của người để lại di
sản được thừa hưởng. Người phụ nữ nói chung và người vợ trong gia đình khơng có sự bình
đẳng với người đàn ơng, người chồng về quan hệ sở hữu tài sản trong gia đình, quyền để lại
thừa kế và quyền thừa kế ruộng đất. Địa vị người vợ trong quan hệ gia đình bị đẩy xuống
bậc thứ yếu so với các con và so với người chồng trong mọi quan hệ xã hội. Người vợ không
thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người chồng. Điều này phản ánh quan hệ hôn nhân
không ràng buộc bất cứ bổn phận, trách nhiệm nào của chồng đối với người vợ. Điều 32 của


15

bộ Hoàng Việt luật lệ phản ánh rõ sự bất bình đẳng trong quan hệ hơn nhân giữa vợ và
chồng. Nội dung của điều luật này cho thấy sau khi kết hơn người chồng là chủ tồn bộ khối
tài sản của vợ chồng bao gồm cả những tài sản do người vợ đem về nhà chồng. Nếu vợ chết
trước người chồng tiếp tục quản lý, sử dụng khối tài sản đó với tư cách là chủ sở hữu. Nếu
người chồng chết trước, người vợ không được quyền thừa kế, mà chỉ tiếp tục được hưởng
hoa lợi, lợi tức trên tài sản của người chồng để lại và có nghĩa vụ trả nợ cho chồng, kể cả
trong trường hợp khoản nợ đó lớn hơn giá trị di sản của người chồng để lại.3
Đến thời kỳ Pháp thuộc, quan hệ hôn nhân có được xem xét đến, tuy nhiên chỉ dừng lại

ở một khía cạnh nhỏ. Theo quy định tại Bộ Dân luật Bắc kỳ thì người vợ chính thất của người
q cố được hưởng toàn bộ di sản trong trường hợp bên chồng khơng cịn người thân thuộc,
trong khi đó người vợ thứ lại không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của chồng, chỉ được ở
lại nhà chồng, hưởng lương thực và tiền chi dùng cho sinh hoạt hàng ngày. Điều này cho thấy
quan hệ hơn nhân khơng có tính ràng buộc.
Như vậy, thời kỳ trước năm 1945 diện thừa kế theo pháp luật được quy định chủ yếu
dựa vào quan hệ huyết thống nội tộc mà không quan tâm đến quan hệ hôn nhân. Quan hệ
hôn nhân chỉ mang lại lợi ích về quyền thừa kế cho người đàn ông nhưng không phải là cơ
sở xác lập quyền thừa kế cho người đàn bà. Sau năm 1945, pháp luật thừa kế của nước ta đã
có những thay đổi to lớn, trái ngược hoàn toàn với bản chất pháp luật thừa kế của chế độ cũ.
Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã ghi nhận "Đàn
bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện". Đây là cơ sở pháp lý quan trọng xóa bỏ
những quy định thể hiện sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng của chế độ
HN&GĐ phong kiến để từ đó xây dựng chế độ hôn nhân mới dân chủ và tiến bộ. Mặc dù không
quy định cụ thể về quyền thừa kế của người vợ hoặc chồng trong trường hợp một bên chết trước
nhưng trên cơ sở của Điều 9 có thể hiểu trong quan hệ thừa kế theo pháp luật, người vợ và người
chồng thuộc diện thừa kế của nhau.
Sắc lệnh số 97/SL đã chính thức ghi nhận quan hệ hơn nhân trở thành một trong các căn
cứ để xác định diện thừa kế, trong đó đã khẳng định vợ, chồng thuộc diện thừa kế theo pháp
luật của nhau. Nguyên tắc này được tiếp tục kế thừa và cụ thể hóa tại các văn bản pháp luật
sau này như Luật HN&GĐ năm 1959, Thông tư số 81, Luật HN&GĐ năm 1986, Pháp lệnh

3

Hoàng Việt luật lệ năm 1812


16

thừa kế năm 1990, Luật HN&GĐ năm 2014 và BLDS năm 2015. Tại Điều 17 Luật HN&GĐ

năm 2014 quy định: " Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi
mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định
trong Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên quan”.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, tại khoản 1 Điều 3 Luật HN&GĐ Việt Nam
năm 2014 thì "hơn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn". Vợ và chồng thuộc
diện thừa kế theo pháp luật của nhau khi quan hệ hôn nhân của họ tính đến thời điểm mở thừa
kế của người vợ hoặc người chồng được xác định là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ vào quan
hệ hôn nhân hợp pháp, quyền thừa kế của vợ, chồng trong việc hưởng di sản của nhau được
bảo đảm bằng các quy định của pháp luật. Để có thể được pháp luật thừa nhận là quan hệ
hơn nhân hợp pháp thì việc kết hôn phải tuân thủ các điều kiện và thủ tục do pháp luật quy
định. Hôn nhân hợp pháp phải đảm bảo cả về mặt nội dung lẫn hình thức nghĩa là phải đảm
bảo các điều kiện kết hơn và có đăng ký kết hôn. Tại khoản 5 Điều 3 Luật HN&GĐ Việt
Nam năm 2014 quy định: "Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy
định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn". Để được đăng ký kết hôn, hai
bên nam, nữ phải thỏa mãn điều kiện về độ tuổi kết hơn, ý chí tự nguyện, khơng mất năng
lực hành vi dân sự và không thuộc các trường hợp cấm kết hôn quy định tại các điểm a, b,
c, d khoản 2 điều 5 luật HN&GĐ 2014.
Giấy chứng nhận kết hôn được coi là bằng chứng của cuộc hôn nhân hợp pháp. Từ
thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cơng nhận các bên có quyền và nghĩa vụ
đối với nhau. Giấy chứng nhận kết hôn được coi là cơ sở pháp lý để các bên yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho mình trong quan hệ hơn nhân. Tuy nhiên, trong trường hợp Giấy chứng nhận kết hôn
được cấp không đúng thẩm quyền sẽ không làm phát sinh giá trị pháp lý, hai bên nam nữ
không được coi là vợ chồng và do đó, khơng thuộc diện thừa kế của nhau.
Trên thực tế, có một số trường hợp do điều kiện, hồn cảnh khách quan nên vẫn tồn
tại những quan hệ hôn nhân đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn nhưng lại vi phạm thủ tục
đăng ký kết hôn. Nguyên nhân bắt nguồn từ điều kiện lịch sử, đất nước ta trải qua nhiều
năm chiến tranh, nảy sinh nhiều trường hợp nam, nữ mới chỉ được gia đình tổ chức lễ cưới
theo tập quán mà chưa tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn; do ảnh hưởng của những tập tục
lạc hậu, dẫn tới ý thức của người dân còn rất hạn chế, chỉ tôn trọng nghi thức cưới theo tập



×