Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Biện pháp ngăn chặn “tạm giam” theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.49 KB, 17 trang )

KHOA
BỘ MƠN LUẬT
.………***………..

BÀI TẬP HỌC KỲ
MƠN: TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỀ :

Biện pháp ngăn chặn “Tạm giam” theo
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự

HỌ VÀ TÊN :
NGÀNH

:

Hà Nội, 2020

1


MỤC LỤC
PHẦN THÂN BÀI...........................................................2
I. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN “TẠM GIAM”........................2
1. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN...........................................2
2. CĂN CỨ PHÁP LÝ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN “TẠM GIAM”
2
3. KHÁI NIỆM BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN “TẠM GIAM”.......4
4. ĐẶC ĐIỂM...............................................................4
5. MỤC ĐÍCH...............................................................5
6. Ý NGHĨA..................................................................5


7. ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG...............................................5
8. NHỮNG TRƯỜNG HỢP KHÔNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
TẠM GIAM...................................................................7
9. CĂN CỨ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM 8
10. THẨM QUYỀN RA LỆNH TẠM GIAM..........................8
11. THỦ TỤC TẠM GIAM...............................................8
12. THỜI HẠN TẠM GIAM.............................................9
II.

THỰC TRẠNG VÀ GÓP Ý PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN

THIỆN BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN “TẠM GIAM”................10
PHẦN KẾT BÀI............................................................11
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................12

1


2


PHẦN MỞ BÀI
Trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm, các biện pháp
ngăn chặn được quy định tại luật tố tụng hình sự có ý nghĩa
quan trọng. Việc áp dụng các biện pháp này có ảnh hưởng lớn
đến việc giải quyết nhiệm vụ có hiệu quả, cũng như kết quả
đấu tranh phịng chống tội phạm nói chung. Trong hệ thống các
biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự, tạm giam là
biện pháp ngăn chặn quan trọng và nghiêm khắc nhất. Tuy
nhiên, việc tạm giam có mặt trái là hạn chế quyền tự do thân

thể của con người, do đó địi hỏi pháp luật quy định chặt chẽ để
hài hòa giữa việc đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ
các quyền chính đáng của con người. Vậy pháp luật quy định
như thế nào về tạm giam để điều tra? Trong phạm vi bài viết về
: Biện pháp ngăn chặn “Tạm giam” theo quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự, tơi sẽ giải đáp những thắc mắc này.
PHẦN THÂN BÀI
I.
Biện pháp ngăn chặn “Tạm giam”
1. Biện pháp ngăn chặn
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng
áp dụng khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa
bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang,
để ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ,
ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có
hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án.
2. Căn cứ pháp lý biện pháp ngăn chặn “Tạm giam”
Điều 119 BLTTHS năm 2015 quy định:
“Điều 119. Tạm giam
3


1. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc
biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
2. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm
trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình
phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một
trong các trường hợp:
a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;

b) Khơng có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch
của bị can;
c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu
bỏ trốn;
d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai
báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo
chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan
đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại,
người tố giác tội phạm và người thân thích của những người
này.
3. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít
nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02
năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết
định truy nã.
4. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con
dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có
nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì khơng tạm giam mà áp dụng
biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:
a) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
b) Tiếp tục phạm tội;
4


c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai
báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo
chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan
đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại,
người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người
này;

d) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ
căn cứ xác định nếu khơng tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy
hại đến an ninh quốc gia.
5. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113
của Bộ luật này có quyền ra lệnh, quyết định tạm giam. Lệnh
tạm giam của những người được quy định tại điểm a khoản 1
Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê
chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày
nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên
quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê
chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải
hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc
xét phê chuẩn.
6. Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cước của người bị tạm
giam và thơng báo ngay cho gia đình người bị tạm giam, chính
quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị tạm giam cư trú hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người bị tạm giam làm việc, học tập biết.”
3. Khái niệm biện pháp ngăn chặn “Tạm giam”
Tạm giam là một trong các biện pháp ngăn chặn theo quy
định của BLTTHS 2015. Biện pháp tạm giam là biện pháp ngăn
chặn nghiêm khắc nhất trong tố tụng hình sự, khi bị áp dụng
biện pháp ngăn chặn này, người bị tạm giam bị cách ly khỏi xã
5


hội một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền con người,
quyền công dân như quyền tự do thân thể, cư trú, đi lại …”
Tạm giam được gọi là biện pháp ngăn chặn vì thơng qua biện
pháp này sẽ tạm thời hạn chế tự do thân thể, tự do đi lại và các
quyền tự do cá nhân khác của người bị áp dụng trong một

khoảng thời gian nhất định. Do đó, khi những chủ thể có thẩm
quyền áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo cần
tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự trước khi
thi hành.
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất nhưng
tạm giam không phải là hình phạt tù bởi vì mục đích của tạm
giam là ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật của
người phạm tội, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
thi hành án được tiến hành đúng đắn, cịn hình phạt là biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước do Tòa án áp dụng
nhằm trừng phạt người phạm tội và nhằm mục đích cải tạo họ
thành người có ích cho xã hội.
4. Đặc điểm
Biện pháp ngăn chặn tạm giam là một dạng biện biện pháp
cưỡng chế tố tụng nghiêm khắc thể hiện ở việc hạn chế quyền
của người bị áp dụng. Đó có thể là quyền tự do thân thể, tự do
đi lại, tự do cư trú và quyền tài sản... Việc hạn chế quyền con
người để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người
phạm tội phạm tội mới, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi
gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như để
đảm bảo thi hành án.
Biện pháp tạm giam được áp dụng khi có những căn cứ pháp
luật quy định. Các căn cứ này đảm bảo để biện pháp cưỡng chế
6


được áp dụng ở mức cần và đủ để đạt được mục đích áp dụng,
bảo đảm quyền khác nhau của con người.
5. Mục đích
Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai

đoạn khác nhau của tố tụng hình sự. Vì vậy, ngồi mục đích
chung, thống nhất là ngăn chặn không để bị can, bị cáo có điều
kiền tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc
giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp
dụng biện pháp này cịn có mục đích riêng nhằm bảo đảm thực
hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng. Chẳng hạn,
việc tạm giam đối với bị can trong giai đoạn điều tra tạo điều
kiện thuận lợi cho cơ quan điều tra có thể tiến hành hoạt động
thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu
thấy cần thiết mà không phải triệu tập nhiều lần, đồng thời
cũng giúp cho việc quản lí, giám sát bị can được chặt chẽ; việc
tạm giam bị cáo sau khi tuyên án nhằm đảm bảo cho việc thi
hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được thuận lợi.
6. Ý nghĩa
Biện pháp tạm giam có ý nghĩa lớn trong đấu tranh phịng,
chống tội phạm, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước, thể hiện sự cương quyết của Nhà nước trong đấu
tranh phịng chống tội phạm, bảo đảm quyền con người, quyền
cơng dân của những người lương thiện không bị xâm hại, bảo
đảm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu
quả cao nhất.
7. Đối tượng áp dụng
Cũng như biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, đối
tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam cũng chỉ có thể là bị can,
7


bị cáo. Song không phải bị can, bị cáo nào cũng có thể bị áp
dụng biện pháp này, mà những bị can, bị cáo đó phải thỏa mãn
những căn cứ luật định thì mới bị tam giam.

Theo quy định của điều luật, đối tượng bị áp dụng biện pháp
tạm giam bao gồm:
- Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất
nghiêm trọng;
- Bị can phạm tội ít nghiêm trọng nếu tiếp tục phạm tội
hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
- Bị can phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng quy
định hình phạt tù từ 02 năm trở lên, nếu thuộc trường hợp
sau:
- Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác như cấm đi khỏi
nơi cư trú, bảo lĩnh…nhưng không thực hiện hoặc thực
hiện không đầy đủ các nghĩa vụ mà người phạm tội phải
thực hiện.
- Khơng có nơi cư trú rõ ràng, đây là các đối tượng lang
thang, khơng có nơi ở cố định, thường lấy việc phạm tội
làm phương tiện sống. Hoặc không xác minh được lý lịch
bị can là trường hợp bị can khai báo khơng chính xác về
nhân thân hoặc bị can đã bỏ đi khỏi nơi cư trú nhiều năm,
phạm tội ở nhiều nơi….
- Có dấu hiệu bỏ trốn;
- Có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
- Có hành vi cản trở điều tra, truy tố, xét xử như hành vi
mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian
dối, cung cấp tài liệu sai dự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng
cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến
8


vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại,
người tố giác tội phạm và người thân thích của những

người này.
Ngồi 02 nhóm đối tượng được quy định trong Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 là “bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng” và “bị can, bị cáo phạm tội nghiêm
trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định
hình phạt tù trên hai năm” (nếu thuộc một trong những căn cứ
luật định) thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung thêm
01 nhóm đối tượng nữa cũng có thể bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam, đó là “bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng
mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến hai năm” nhưng
phải thuộc một trong các trường hợp “nếu họ tiếp tục phạm tội
hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã”. Việc mở rộng
thêm đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là
phù hợp với thực tiễn và chính sách hình sự của nước ta vì trong
trường hợp đối tượng phạm tội nhiều lần hoặc sau khi phạm tội
bỏ trốn là thể hiện mức cao hơn tính chất nguy hiểm của hành
vi phạm tội, cần phải được áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam nếu xét thấy cần thiết.
8. Những trường hợp không áp dụng biện pháp tạm
giam
Không phải bị can, bị cáo nào cũng phải áp dụng biện pháp
tạm giam. Các trường hợp không được áp dụng biện pháp tạm
giam mà áp dụng các biện pháp khác, trừ trường hợp đặc biệt
theo quy định:
­ Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ ni con
dưới 36 tháng tuổi có nơi cư trú rõ ràng.
9


­ Bị can, bị cáo là người già yếu, người bị bệnh nặng có nơi

cư trú rõ ràng.
Đối với bị can, bị cáo thuộc một trong hai trường hợp nói trên
cần áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, có thể là cấm đi khỏi
nơi cư trú hoặc bảo lãnh…
Tuy nhiên, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang
thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị
bệnh nặng có nơi cư trú rõ ràng, nếu có đủ điều kiện tạm giam
thì vẫn có thể ra lệnh tạm giam, các trường hợp đó được quy
định cụ thể:
­ Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.
­ Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác
nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm
trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử.
­ Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có
đủ căn cứ cho rằng nều khơng tạm giam đối với họ thì sẽ
gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Ngồi các quy định nói trên, có thể coi các trường hợp sau đây
cũng là các trường hợp không cần thiết phải tạm giam mà có
thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác:
­ Người bị tam giam có căn cước rõ ràng, hành vi phạm tội
thuộc tội ít nghiêm trọng, việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn khác không ảnh hưởng đến việc điều tra, xét xử
hoặc thi hành án.
­ Người bị tam giam được người khác bảo lãnh và có đủ điều
kiện để áp dụng BPNC này.
9. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
Để xác định bị can, bị cáo có thể trốn hoặc cản trở việc điều
tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội, thường phải căn cú
10



vào việc điều tra, xét xử và sự cần thiết của việc ngăn chặn tội
phạm; nhân thân của bị can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp
ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn. Khi áp dụng biện pháp ngăn
chặn ít nghiêm khắc hơn biện pháp tạm giam nhưng sau đó bị
can, bị cáo khơng thực hiện nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập
của cơ quan tiến hành tố tụng, trốn tránh việc điều tra, xét xử
hoặc làm rõ sự thật của vụ án thì có thể xác định đó là hành
động không thực hiện các điều kiện của biện pháp ngăn chặn
đã được áp dụng thì có thể bắt để tạm giam bị can, bị cáo đó.
Như vậy, chỉ khi nào có đầy đủ hai điều kiện kể trên mới được
quyết định tạm giam.
10.

Thẩm quyền ra lệnh tạm giam

Theo quy định của điều luật, việc áp dụng biện pháp tạm
giam chỉ được giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng như Tịa
án, VKS, cụ thể:
­ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp.
Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng
cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
­ Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các
cấp;
­ Chánh án, Phó Chánh án Tịa án nhân dân và Chánh án,
Phó Chánh án Tịa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
Như vậy thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
được quy định cho nhiều Cơ quan với nhiều chủ thể khác nhau
tuỳ thuộc vào các giai đoạn tố tụng. Viện kiểm sát với chức

năng là Cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ kiểm tra,
giám sát hoạt động này, đặc biệt đối với lệnh tạm giam của thủ
11


trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải được VKS
cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
11.

Thủ tục tạm giam

Với tính chất là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, hạn
chế tự do của người bị áp dụng trong một khoảng thời gian nhất
định, vì vậy quy định việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam cần phải tuân theo một trình tự thủ tục rất chặt chẽ. Việc
tạm giam phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm
giam phải ghi rõ và giao cho người bị tạm giam một bản:
­ Ngày, tháng, năm
­ Họ tên chức vụ của người ra lệnh
­ Họ tên, địa chỉ của người bị tạm gia
­ Lý do tạm giam
­ Thời hạn tạm giam.
Sau khi ra lệnh tạm giam, Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm
tra căn cước của người bị tạm giam nhằm xác định đúng đối
tượng cần tạm giam, tránh trường hợp nhầm lẫn. Đồng thời cơ
quan đã ra lệnh tạm giam phải thông báo ngay cho gia đình
người bị tạm giam và cho chính quyền xã phường, thị trấn hoặc
cơ quan, tổ chức, nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc
biết để gia đình họ cũng như các cơ quan tổ chức biết và khơng
phải tiến hành những thủ tục tìm kiếm khơng cần thiết gây tốn

kém.
12.

Thời hạn tạm giam

Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003: Đối với
tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần,
lần thứ nhất không quá 02 tháng và lần thứ hai không quá 01
tháng; Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn
12


tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ
hai không quá 02 tháng; Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần khơng q
04 tháng.
Cịn theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì: Đối
với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một
lần không quá 02 tháng; Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có
thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng; Đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm
giam hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
Việc giảm bớt số lần và rút ngắn thời hạn gia hạn tạm giam để
điều tra như trên chính là sự thể chế hóa tinh thần của Hiến
pháp năm 2013 đề cao quyền con người, quyền cơng dân.
II.

Thực trạng và góp ý phương hướng hoàn thiện
biện pháp ngăn chặn “Tạm giam”


Trong quá trình điều tra, nhiều trường hợp bị can các Cơ
quan tiến hành tố tụng không áp dụng biện pháp ngăn chặn
tạm giam (sau khi đã áp dụng biện tạm giữ) mà áp dụng biện
pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Từ đó gây khó khăn trong hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử, ảnh hưởng đến việc xử lý tội
phạm, như việc triệu tập bị can đến CQĐT, VKS, Tòa án để làm
việc hoặc giao nhận các quyết định tố tụng, kéo dài thời hạn xử
lý vụ án… riêng tội phạm về ma túy việc không áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam đối với các bị can là những người
nghiện ma túy thì chưa được dư luận đồng tình, ủng hộ.
Tại Khoản 4, Điều 119 BLTTHS có đề cập đến đối tượng bị
can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý
13


lịch rõ ràng. Vấn đề là hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể như
thế nào là bị “bệnh nặng” để có thể được cơ quan có thẩm
quyền quyết định không áp dụng biện pháp tạm giam mà thay
thế bằng các biện pháp ngăn chặn khác. Dẫn đến tình trạng áp
dụng biện pháp ngăn chặn khác mà không phải là biện pháp
tạm giam một cách tùy tiện hoặc có những trường hợp bị bệnh
nặng đáng lẽ không áp dụng biện pháp tạm giam hoặc đình chỉ
điều tra…thì lại áp dụng biện pháp tạm giam làm ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo dẫn đến sự
không thống nhất trong áp dụng pháp luật và gây khó khăn cho
việc giải quyết vụ án.
Khoản 2 Điều 119, điều luật cũng diễn đạt bằng các cụm từ
mang tính tùy nghi như “có thể”; “có dấu hiệu tiếp tục phạm
tội”; “có dấu hiệu bỏ trốn”. Để bảo đảm áp dụng khơng gặp

vướng mắc thì cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về các
quy định này.
PHẦN KẾT BÀI
Mặc dù khơng ngừng được hồn thiện dần qua những đợt pháp
điển hóa, nhưng thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự về biện pháp ngăn chặn tạm giam trong thời gian qua
cho thấy vẫn cịn có những hạn chế, bất cập trong quy định của
pháp luật cũng như nhận thức của người tiến hành tố tụng về
áp dụng biện pháp này. Đó là việc tạm giam bị can, bị cáo một
cách tràn lan, tùy tiện không có căn cứ, sử dụng biện pháp tạm
giam như là một biện pháp nghiệp vụ điều tra, tạm giam bị can,
bị cáo với thời hạn quá dài... Những sai sót đó đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân, phần nào dẫn đến việc hạn chế mục đích cần đạt
14


được của tố tụng hình sự nói chung và biện pháp tạm giam nói
riêng, làm suy giảm niềm tin của người dân đối với tính tơn
nghiêm của pháp luật. Như vậy, từ những phân tích trên, đối với
các quy định về áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, trong
thời gian tới, cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản
hướng dẫn cụ thể hơn, khắc phúc những vướng mắc về những
quy định mang tính tùy nghi dẫn đến hiểu sai bản chất khi áp
dụng.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình
sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007, 2008.
2. Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tố
tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội,
2001.
3. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
4. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2005
5. Biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường "sinh viên nghiên cứu
khoa học" Hà Nội, 2001.

16



×