Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Trong Luật Bảo Hiểm Xã Hội Năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỒN MINH HIỀN

B¶O HIĨM X· HéI Tù NGUN
TRONG LT B¶O HIĨM X· HéI N¡M 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỒN MINH HIỀN

B¶O HIĨM X· HéI Tù NGUN
TRONG LT B¶O HIĨM X· HéI N¡M 2014
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ THỊ HOÀI THU

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đồn Minh Hiền


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng, biểu đồ và hình
MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỰ NGUYỆN VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ............... 6
1.1.

Khái quát chung về bảo hiểm xã hội tự nguyện ............................ 6

1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa bảo hiểm xã hội tự nguyện ................................. 6
1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội tự nguyện ........................................ 10

1.2.

Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ................... 12

1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện......................... 12
1.2.2. Nguyên tắc pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ....................... 13
1.2.3. Nội dung của pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện .................... 15
1.2.4. Vai trò của pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện........................ 22
1.3.

Pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ở một số nước trên thế
giới và những gợi mở cho Việt Nam............................................ 25

Kết luận Chương 1.................................................................................. 31
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
TRONG LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI NĂM 2014 VÀ THỰC
TIỄN THI HÀNH ........................................................................ 32
2.1.

Thực trạng các quy định về bảo hiểm xã hội tự nguyện ............. 32

2.1.1. Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện .......................... 32
2.1.2. Về các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện ...................................... 33
2.1.3. Về mức đóng và phương thức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện ...... 38


2.1.4. Về quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện và quản lý bảo hiểm xã hội
tự nguyện ..................................................................................... 41
2.2.


Thực tiễn thi hành bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam ........ 43

2.2.1. Những kết quả đạt được ................................................................ 43
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế .................................. 49
Kết luận Chương 2.................................................................................. 55
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM............................................................... 56
3.1.

Các yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật bảo hiểm
xã hội tự nguyện.......................................................................... 56

3.1.1. Cần phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội..................... 56
3.1.2. Cần phù hợp với xu thế quốc tế ..................................................... 57
3.1.3. Cần đa dạng hóa các đối tượng tham gia ........................................ 58
3.1.4. Cần xây dựng các quy định linh hoạt ............................................. 61
3.2.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã
hội tự nguyện và các vướng mắc có thể gặp phải ........................ 62

3.2.1. Về mức đóng và phương thức đóng ............................................... 62
3.2.2. Về chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện ............................................ 64
3.2.3. Về chủ thể trong quan hệ bảo hiểm xã hội tự nguyện ...................... 67
3.3.

Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam................................ 68


3.3.1. Kiến nghị với BHXH Việt Nam .................................................... 68
3.3.2. Đối với địa phương ....................................................................... 71
Kết luận Chương 3.................................................................................. 74
KẾT LUẬN ............................................................................................. 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... 77


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASXH:

An sinh xã hội

BHXH:

Bảo hiểm xã hội

BHXHTN: Bảo hiểm xã hội tự nguyện
DN:

Doanh nghiệp

ILO:

Tổ chức Lao động Quốc tế


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH

Số hiệu
Bảng 2.1

Biểu đồ 2.1
Hình 1.1

Tên bảng, biểu đồ và hình

Trang

Số người tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện
qua các năm

46

Số người tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện
qua các năm

47

Bảng chế độ hưu trí 3 tầng tại Canada

28


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các chính sách xã hội, cụ thể là vấn đề an sinh xã hội (ASXH) của mỗi
quốc gia có vai trị đặc biệt quan trọng, vừa là mục tiêu vừa là động lực để
phát triển kinh tế nhanh và bền vững cũng như đảm bảo sự ổn định xã hội.
Trong đó, bảo hiểm xã hội (BHXH) đóng vai trị trụ cột trong sàn an sinh xã
hội, là bộ phận lớn nhất trong hệ thống an sinh xã hội, khơng có bảo hiểm xã
hội thì khơng thể có một nền an sinh xã hội vững mạnh.

Các chuyên gia về BHXH đánh giá hiện nay là thời điểm phù hợp để
tiến hành cải cách chính sách BHXH tại Việt Nam. Phó Thủ tướng Vương
Đình Huệ nhấn mạnh tại Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII diễn ra vào tháng 5 năm 2018: “Chính sách BHXH của nước ta đã đạt
được những kết quả tích cực, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề lớn cần phải
cải cách, điều chỉnh nhiều nội dung để khắc phục những hạn chế, yếu kém, đáp
ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp xu hướng phát triển và bối cảnh mới”. Ðề án
cải cách chính sách BHXH được nhận định là một trong ba đề án quan trọng
được thông qua tại Hội nghị này. Nội dung đầu tiên của Đề án là xây dựng hệ
thống BHXH đa tầng bao gồm: Lương hưu xã hội; BHXH cơ bản gồm BHXH
bắt buộc và BHXH tự nguyện; bảo hiểm hưu trí bổ sung nhằm tăng diện bao
phủ, hướng tới mục tiêu BHXH toàn dân; đồng thời tạo cơ hội cho người về
hưu có điều kiện đa dạng hóa các nguồn lương hưu. Trong đó, việc nâng cao
hiệu quả của chính sách BHXH tự nguyện đóng vai trị quan trọng trong việc
đảm bảo tính vững chắc cho hệ thống trên.
Tiếp đó tại Hội thảo xây dựng kế hoạch đánh giá chính sách trợ giúp xã
hội quy định tại Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn

1


2012- 2020 diễn ra vào ngày 29 tháng 6 năm 2018 tại Hịa Bình, một trong
hai lĩnh vực chính được các chuyên gia, các tổ chức quốc tế và đại diện các
địa phương tổ chức tập trung đánh giá là bảo hiểm xã hội, đặc biệt là chính
sách bảo hiểm xã hội tự nguyện. Bởi lẽ, trước những thay đổi nhanh chóng
của bối cảnh trong nước và quốc tế, đặc biệt là dưới tác động của các xu thế
mang tính thời đại như già hóa dân số, biến đổi khí hậu, cách mạng công
nghiệp 4.0, việc bảo đảm cuộc sống cho người lao động và gia đình họ, nhất
là những lao động phi chính thức trước những rủi ro xã hội ngày càng trở

thành vấn đề bức thiết.
Theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2017 và phương hướng nhiệm vụ
năm 2018 của Vụ Bảo hiểm xã hội, Bộ Lao động Thương bình và Xã hội,
tính đến ngày 30/11/2017, số người tham gia BHXH ước đạt 13,715 triệu
người đạt tỷ lệ 24,95% lực lượng lao động tham gia BHXH, trong đó số
người tham gia BHXH tự nguyện ước tính đạt 245 nghìn người, chiếm
0,45% lực lượng lao động tham gia BHXH. Trong khi đó, theo thống kê của
Tổ chức Lao động Thế Giới (ILO), tại Việt Nam, tính đến cuối năm 2017, tỉ
lệ lao động khu vực phi chính thức chiếm 57,2% - tương đương hơn 18 triệu
người. Như vậy, tỉ lệ người lao động tham gia BHXH tự nguyện chỉ đạt xấp
xỉ 0.014% lao động trong khu vực phi chính thức trong khi lao động phi
chính thức thường có đặc điểm là việc làm bấp bênh và thiếu ổn định, thu
nhập thấp và thời gian làm việc dài.
Có thể nhận thấy rằng, việc nghiên cứu và tiếp tục hoàn thiện các
quy định pháp luật về chế độ BHXH tự nguyện cho nhóm đối tượng chiếm
quá nửa lực lượng lao động tại thời điểm Việt Nam đang tiến hành cải cách
chính sách BHXH trở nên vơ cùng cấp thiết, đặc biệt quan trọng; sẽ góp
phần làm vững chắc hơn trụ cột của hệ thống an sinh xã hội – bảo hiểm xã
hội tại nước ta.

2


2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện vẫn được nghiên cứu
bởi các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước trong mối quan tâm chung về
việc đảm bảo đời sống của người lao động, đặc biệt là nhóm lao động phi
chính thức vốn được cho là bị bỏ ngỏ nhiều khoảng trống về quyền lợi.
Tại Việt Nam, các tài liệu nghiên cứu về bảo hiểm xã hội đều nghiên
cứu chung cho cả bảo hiểm xã hội bắt buộc lẫn bảo hiểm xã hội tự nguyện.

Phần lớn các cơng trình nghiên cứu trong nước gần đây thường giới hạn tại
một số các khu vực nhất định hoặc đối với một số nhóm chủ thể nhất định nên
thiếu đi cơng trình nghiên cứu mang khái quát, tổng hợp, đánh giá chung các
quy định pháp luật về BHXH tự nguyện trên phạm vi cả nước.
Một số các nghiên cứu trong đó có khn khổ hợp tác nghiên cứu về
“Khảo sát lao động phi chính thức” thuộc Dự án “Hỗ trợ chuyển đổi sang
chính thức” do Viện Khoa học Lao động và Xã hội phối hợp với Tổ chức Lao
động quốc tế (ILO) năm 2017, nghiên cứu cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn
xây dựng chính sách khuyến khích tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đối
với lao động nghèo, lao động là người dân tộc thiểu số, nơng dân có mức thu
nhập từ trung bình trở xuống” do Viện Khoa học Lao động Xã hội chủ trì đề
tài năm 2013, đề tài nghiên cứu “Phân tích thực trạng tham gia bảo hiểm xã
hội tự nguyện của người lao động tự do” của ThS. Nguyễn Thị Thúy,…
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vào những vấn đề về lý luận pháp luật
về BHXH tự nguyện và thực trạng thực hiện các quy định về BHXH tự
nguyện trong bối cảnh kinh tế xã hội tại Việt Nam hiện nay nhằm đề xuất một
số khuyến nghị, giải pháp để hoàn thiện các quy định pháp luật về BHXH tự
nguyện phù hợp với bối cảnh trong nước.

3


4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn áp dụng một số các phương pháp khoa học trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, sử dụng tổng hợp các phương pháp
khoa học chuyên ngành và liên ngành, đặc biệt là phương pháp thu thập thơng
tin, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, nhận xét thực tiễn, nghiên cứu tài
liệu thứ cấp, v…v…
5. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm đưa ra cơ sở lý luận và thực
tiễn thực hiện các quy định pháp luật Việt Nam hiện nay về BHXH tự nguyện,
từ đó đánh giá và đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về BHXH tự
nguyện phù hợp với bối cảnh trong nước.
Với mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn gồm:
- Nghiên cứu một số vấn đề về lý luận chung về pháp luật bảo hiểm xã
hội tự nguyện;
- Phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện các quy định về BHXH tự
nguyện trong bối cảnh kinh tế xã hội tại Việt Nam hiện nay;
- Đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp để hoàn thiện các quy định
pháp luật về BHXH tự nguyện phù hợp với bối cảnh trong nước
6. Điểm mới của luận văn
Đề tài được nghiên cứu trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành đánh
giá kết quả thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội và khuyến nghị định hướng,
giải pháp giai đoạn tới nhằm cải cách chính sách BHXH sao cho phù hợp với
các xu thế mang tính thời đại.
BHXH tự nguyện không phải là chủ đề mới tại Việt Nam. Một số cơng
trình gần đây đã được các tác giả nghiên cứu về bảo hiểm xã hội tự nguyện
bao gồm: cơng trình được thực hiện ở cấp độ luận văn thạc sỹ, với đề tài “Bảo
hiểm xã hội tự nguyện – Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

4


thực thi pháp luật” luận văn thạc sĩ của Hoàng Quốc Đạt do TS. Nguyễn Thị
Kim Phụng hướng dẫn năm 2012 và gần đây nhất là đề tài “Thực hiện pháp
luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện - qua thực tiễn tỉnh Nghệ An” luận văn
thạc sĩ của Trần Văn Kiệm do TS. Dương Đức Chính hướng dẫn năm 2017,
…; cơng trình nghiên cứu cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chính
sách khuyến khích tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với lao động

nghèo, lao động là người dân tộc thiểu số, nông dân có mức thu nhập từ trung
bình trở xuống” do Viện Khoa học Lao động Xã hội chủ trì đề tài;…
Tuy nhiên, phần lớn các cơng trình nghiên cứu thường bị giới hạn tại
một số các khu vực nhất định (tỉnh Nghệ An, Hà Nội, Vĩnh Phúc…) hoặc đối
với một số nhóm chủ thể (lao động nghèo, người dân tộc thiểu số,…) mà thiếu
các cơng trình khái qt, tổng hợp, đánh giá chung các quy định pháp luật về
BHXH tự nguyện trên phạm vi cả nước. Vì vậy, tại thời điểm có thể coi như
giao thời của các chính sách BHXH tại Việt Nam, tác giả thực hiện nghiên cứu
mang tính tổng qt đánh giá chung với mong muốn đóng góp một phần cơng
sức của bản thân vào việc đánh giá thực trạng pháp luật, đưa ra một số giải
pháp thực hiện đối với BHXH tự nguyện của Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện và sự
điều chỉnh của pháp luật.
Chương 2: Thực trạng bảo hiểm xã hội tự nguyện trong Luật Bảo hiểm
xã hội năm 2014 và thực tiễn thi hành.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện bảo
hiểm xã hội tự nguyện trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa bảo hiểm xã hội tự nguyện
Giữa thế kỷ XIX, lần đầu tiên hệ thống bảo hiểm xã hội được hình

thành trên thế giới dưới thời Thủ tướng Đức Bismark. Năm 1838, chế độ bảo
hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ra đời lần đầu tiên ở nước Phổ
(Cộng hòa liên bang Đức). Đến năm 1850, quỹ ốm đau được thành lập ở Đức,
và tới năm 1861 được thành lập tại Bỉ. Năm 1883, nước Đức ban hành đạo
luật đầu tiên về Bảo hiểm xã hội. Tới năm 1893, quỹ bảo hiểm thất nghiệp
theo hình thức tự nguyện được thành lập tại Thụy Sĩ. Quỹ được thành lập
dưới sự đóng góp của ba bên giữa Nhà nước, giới chủ và giới thợ nhằm bảo
hiểm cho người lao động trong trường hợp họ gặp rủi ro. Năm 1894 và 1896
nước Bỉ và Hà Lan đã ban hành Bộ luật đầu tiên về các tổ chức tương tế. Cho
tới những năm 30 của thế kỷ XX, hệ thống này đã lan tỏa tới khu vực Châu
Mỹ và tiếp tục lan tỏa tới các nước ở Châu Á, Châu Phi và vùng Caribe vào
những năm sau đại chiến thế giới lần thứ hai (1940-1945).
Sự ra đời của bảo hiểm xã hội là kết quả của một quá trình đấu tranh
lâu dài giữa giai cấp công nhân làm thuê với giới chủ tư bản. Kết quả này đã
được các nước trên thế giới ghi nhận và dần trở thành trụ cột cơ bản của hệ
thống an sinh xã hội. Điều này được thể hiện ngay trong thời kỳ Thế chiến thứ
hai, một số vấn đề liên quan đến bảo hiểm xã hội vẫn vô cùng được quan tâm
như: tàn tật hay sinh đẻ liên quan đến lao động nữ hay vấn đề tử tuất của các
binh sỹ trong chiến tranh.
Ngày 25/6/1952, Công ước số 102 về an sinh xã hội đã được thơng qua
tại hội nghị tồn thể của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) với nội dung được
6


tập hợp từ các chế độ và các vấn đề an sinh xã hội đã có và được thực hiện ở
một số nước trên thế giới trước đó. Dựa trên Công ước số 102, các nước ở
Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La tinh đều xây dựng cho mình một hệ thống
bảo hiểm xã hội phù hợp với điều kiện từng nước.
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) định nghĩa: BHXH là sự đảm bảo
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp

phải những biến cố rủi ro làm giải hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc
lam, bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự đóng
góp của người sử dụng lao động, người lao động và sự bảo trợ của Nhà nước,
nhằm đảm bảo an tồn đời sóng cho người lao động và cho gia đình, góp phần
bảo đảm an tồn xã hội.
ILO cũng đưa ra định nghĩa về an toàn xã hội và đưa quy phạm tối
thiểu về an toàn xã hội vào Điều 2 của Công ước số 102. An toàn xã hội là:
Sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thơng qua
một loạt các biện pháp cơng cộng, để đối phó với khó khăn về kinh
tế xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập, gây ra bởi
ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết, việc cung cấp
chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.
Sự phát triển của xã hội cùng với sự gia tăng của rủi ro xã hội giống
như hai mặt của một đồng tiền luôn song hành. Những rủi ro bất ngờ này
không nằm trong mong muốn cũng không nằm trong tầm kiểm soát của con
người. Điều này khiến cho nhu cầu về biện pháp bảo đảm khi gặp rủi ro càng
trở nên mạnh mẽ, nhất là đối với con người khi tham gia lao động vốn luôn
phải chịu sự tác động từ những yếu tố khách quan có thể dẫn tới những thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản. Cùng với đó là sự giới hạn về đối tượng
tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đã gạt khỏi vịng bảo vệ một nhóm người
lao động có nhu cầu tham gia bảo hiểm những khơng thuộc nhóm đối tượng

7


được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Những người lao động này khơng có
một cơ chế thích hợp để tự bảo vệ mình trước những rủi ro trong cuộc sống.
Vì lẽ đó, nhằm đáp ứng nhu cầu được bảo đảm thu nhập khi gặp rủi ro, vì tình
người với người trong xã hội, bảo hiểm xã hội tự nguyện xuất hiện một nhu
cầu tất yếu bên cạnh bảo hiểm xã hội bắt buộc.

Luật BHXH năm 2014, Điều 3, khoản 3 quy định: BHXH tự nguyện là
loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức
đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có
chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hơi để người tham gia hưởng chế độ
hưu trí và tử tuất.
BHXH tự nguyện là loại hình BHXH được xây dựng trên cơ sở tự
nguyện. Sự tự nguyện của loại hình bảo hiểm xã hội này được thể hiện trên
nguyên tắc có tham gia đóng bảo hiểm xã hội mới được hưởng quyền lợi.
Điều này thể hiện ý thức của người tham gia đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện
có sự tự do hơn so với những người tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Bên cạnh sự khác biệt về mối quan hệ lao động của những người tham gia
BHXH ở hai loại hình này, đây chính là sự khác biệt cơ bản giữa bảo hiểm xã
hội tự nguyện và bảo hiểm xã hội bắt buộc. Dù vậy nhưng cả hai loại hình bảo
hiểm xã hội này vẫn có nét tương đồng: mục tiêu của hai loại hình bảo hiểm
xã hội nhằm bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao
động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên nguyên tắc có sự chia sẻ
giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội. Bản chất, mục đích hoạt động,
sự hình thành và sử dụng quỹ cũng tương tự như nhau do BHXH tự nguyện là
chính sách của Nhà nước ban hành nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên tham
gia nên Nhà nước sẽ quy định mức đóng góp để hình thành quỹ sao cho đảm
bảo về kinh phí để chi trả cho những người tham gia BHXH tự nguyện và xây
dựng chế độ mà họ được hưởng.
8


Với mục tiêu thiêng liêng nhằm bảo đảm sự phát triển kinh tế bền vững
và thúc đẩu ổn định, thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, BHXH nói chung và
BHXH tự nguyện nói riêng có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Thứ nhất, đảm bảo sự công bằng xã hội, tạo sự bình đẳng giữa các

thành phần kinh tế trên thị trường lao động
BHXH là công cụ phân phối lại thu nhập của các thành phần trong xã
hội: giữa thu nhập cao với thu nhập thấp; thu nhập của người khoẻ mạnh,
công việc ổn định với thu nhập của người ốm yếu, tàn tật, hoặc những người
gặp biến cố, rủi ro trong lao động hoặc trong cuộc sống. Với tư cách là một
công cụ phân phối lại thu nhập, BHXH cũng giúp cân bằng lại phần nào sự
phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp trong xã hội, giảm khoảng cách giàu
nghèo, tạo được sự bình đẳng cho những người lao động.
Thứ hai, BHXH phân phối, sử dụng nguồn quỹ dự phòng một cách hiệu
quả, tạo cơ chế chia sẻ, nhằm giảm bớt những rủi ro, góp phần phịng tránh
và hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn cho sản xuất và đời sống xã hội, tạo
động lực cho phát triển kinh tế xã hội
Việc xây dựng và duy trì một nguồn quỹ dự phịng có sự đóng góp của
cộng đồng để đối phó với những rủi ro sẽ làm giảm bớt gánh nặng cho ngân
sách quốc gia, từ đó tạo nguồn lực tài chính để tạo tiền đề cho sự phát triển.
Cũng như vậy, sự hỗ trợ của Nhà nước vào quỹ BHXH tự nguyện giúp giảm
gánh nặng tài chính đóng góp cho những người tham gia BHXH để xây dựng
nguồn quỹ dự phòng phòng ngừa rủi ro. Hai điều này giúp ổn định cả về nhân
lực và vật lực cho việc phát triển kinh tế quốc gia.
Thứ ba, bảo đảm nguồn thu nhập cho người lao động và gia đình họ
trước những rủi ro
Đới tượng tham gia BHXH tự nguyện chủ yếu tới từ khu vực phi chính
thức. Đặc điểm chung của họ là việc làm không ổn định, thu nhập bấp bênh

9


hoặc thu nhập thấp, nhiều trường hợp có thể là người lao động chính hoặc lao
động duy nhất trong gia đình. Khi họ gặp rủi ro, khơng thể tự kiếm sống và
chăm lo cho gia đình điều này sẽ gây ảnh hưởng tới nguồn thu nhập không chỉ

của riêng họ mà có thể là cả gia đình. Lúc này, việc tham gia BHXH tự
nguyện sẽ giúp họ và gia đình phần nào được bảo đảm.
Thứ tư, BHXH tự nguyện góp phần nâng cao năng suất lao động xã
hội, thúc đẩy sản xuất phát triển
BHXH là sự bảo đảm về tinh thần cho những người tham gia lao động
để họ an tâm làm việc khi đã có sự chuẩn bị sẵn đề phòng khi già yếu, mất
sức lao động hoặc gặp những rủi ro bất chợt trong cuộc sống. Đồng thời đây
cũng là động lực để thu hút người lao động của các chủ sử dụng lao động,
thúc đẩy sản xuất, nâng cao năng suất lao động.
Thứ năm, phân phối lại thu nhập quốc dân, giảm chi ngân sách nhà
nước, bảo đảm an sinh xã hội
Như đã phân tích, BHXH là một công cụ phân phối lại thu nhập,
BHXH cũng giúp cân bằng lại phần nào sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng
lớp trong xã hội, giảm khoảng cách giàu nghèo, tạo được sự bình đẳng cho
những người lao động. BHXH tự nguyện cũng là sự vận động thực hiện trách
nhiệm đối với xã hôi, để cả xã hội cùng tương trợ những số phận bất hạnh gặp
rủi ro, khó khăn; người có thu nhập cao, năng lực cao cùng trợ giúp nhóm
người yếu thế trong xã hội.
1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội tự nguyện
Xuất hiện như một nhu cầu tất yếu của xã hội và là sản phẩm của nền kinh
tế, BHXH tự nguyện vừa mang bản chất kinh tế vừa mang bản chất xã hội.
- Tính kinh tế của BHXH tự nguyện
Người tham gia BHXH tự nguyện đã tự nguyện đóng góp một phần thu
nhập của mình để xây dựng nguồn quỹ dự phịng rủi ro khơng chỉ cho mình mà

10


cho những người khác cùng tham gia BHXH tự nguyện. Sự đa dạng về mức
thu nhập của những người tham gia khiến cho mức đóng BHXH tự nguyện

cũng khơng cố định. Nguồn quỹ này sau khi được hình thành sẽ được rút ra trợ
giúp cho những đối tượng già yếu, hoặc mất khả năng lao động để tìm kiếm thu
nhập, đảm bảo cho những người này có nguồn thu nhập để sinh sống.
Về mặt kinh tế, BHXH tự nguyện là một hình thức tổ chức, đã phân
phối lại thu nhập của xã hội dựa trên hoạt động thu – trợ cấp để đảm bảo an
toàn về kinh tế cho những người lao động và gia đình của họ. GDP của quốc
gia được cấu thành từ nhiều nguồn trong đó bao gồm BHXH mà sẽ được phân
phối lại cho các thành viên trong xã hội khi phát sinh các nhu cầu BHXH như
đau ốm, bệnh tật, chết …. Bên cạnh đó, BHXH tự nguyện cũng kéo ngắn
khoảng cách phân hoá giàu nghèo của các thành phần trong xã hội.
Có thể nói rằng, việc hình thành nguồn quỹ BHXH tự nguyện cũng
như sử dụng quỹ để phần nào phân phối lại thu nhập của xã hội nhằm bảo
đảm đời sống cho người lao động và gia đình họ chính là bản chất kinh tế
của BHXH tự nguyện.
- Tính xã hội của BHXH tự nguyện
Khác với bảo hiểm thương mại, BHXH tự nguyện được xây dựng
khơng vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu xã hội. Dựa trân nguyên tắc “lấy
số đông bù số ít”, quỹ BHXH xã hơi được sử dụng để bù đắp một phần hoặc
toàn bộ thu nhập của người lao động tham gia BHXH tự nguyện khi họ gặp
phải rủi ro khiến họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động để tìm kiếm thu
nhập. Khoản tiền người lao động tham gia BHXH tự nguyện đóng có thể
khơng bằng mức hưởng bảo hiểm mà họ nhận được để chia sẻ rủi ro cho
người lao động và gia đình họ khi thu nhập bị giảm sút hoặc mất hoàn tồn.
BHXH tự nguyện khơng phải là hoạt động kinh doanh của bất kỳ cá
nhân hay tổ chức nào mà là một trong những chính sách xã hội nhằm đảm bảo
cho an toàn xã hội.
11


Bản chất xã hội và bản chất kinh tế của BHXH tự nguyện không tách

rời mà đan xen lẫn nhau. Trong bản chất kinh tế có tính xã hội và trong bản
chất xã hội có tính kinh tế, chính vì lẽ đó, sự ra đời của BHXH tự nguyện là
nhu cầu tất yếu của xã hội và là sản phẩm của nền kinh tế.
1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện
Ở Việt Nam, ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hịa ra đời,
Chính phủ đã thể hiện mối quan tâm đặc biệt tới vấn đề an sinh xã hội, trong
đó có chính sách bảo hiểm xã hội. Điều 13 và điều 14 của Hiến pháp năm
1946 đã quy định: “Quyền lợi của giới cần lao trí thức và chân tay được đảm
bảo, và những người công dân già cả hoặc tàn tật, không làm được việc thì
được giúp đỡ”. Tuy nhiên, do đặc thù của hồn cảnh kháng chiến gian khổ,
các chính sách về bảo hiểm xã hội trong thời kỳ trước năm 1954 có đối tượng
áp dụng hạn hẹp, mức trợ cấp thấp, việc thực hiện còn nhiều hạn chế. Mỗi
thời kỳ lịch sử khác nhau, Nhà nước sẽ xây dựng và ban hành hệ thống pháp
luật phù hợp với kinh tế, văn hoá, xã hội của từng thời điểm. Năm 1986, Việt
Nam thực hiện cải cách kinh tế, chuyển đổi từ nền kinh cơ chế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Hiệu ứng ảnh hưởng từ việc
thay đổi cơ chế địi hỏi các chính sách xã hội nói chung và chính sách bảo hiểm
xã hội nói riêng cần có những thay đổi tương ứng, phù hợp với thời đại mới.
Tháng 01 năm 1995, Bộ Luật Lao động có hiệu lực, trong đó, bảo hiểm xã hội
được quy định tại Chương XII. Mặc dù ở thời kỳ này, các quy định về loại hình
bảo hiểm xã hội tự nguyện chỉ mang tính nguyên tắc chung, nhưng việc bảo
hiểm xã hội tự nguyện được đưa vào trong Bộ luật Lao động là một bước tiến
để tạo tiền đề cho việc đưa bảo hiểm xã hội tới với mọi người trong xã hội.
Ngày 12/7/2006, Quốc hội đã thơng qua Luật BHXH đầu tiên trong đó
BHXH bắt buộc có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 và BHXH tự nguyện có hiệu

12



lực từ ngày 01/01/2018. Trải qua các lần sửa đổi bổ sung cho phù hợp với sự
phát triển của kinh tế xã hội, ngày 20 tháng 11 năm 2014, Quốc hội đã thơng qua
Luật BHXH có hiệu lực từ ngày 01/01/2016 trong đó quy định đầy đủ về đối
tượng, mức đóng, phương thức đóng, các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Có thể nói rằng, ở Việt Nam, BHXH được biết tới từ rất sớm và được
xem như là một công cụ đắc lực để trợ giúp cho người lao động trang trải
khi gặp những biến cố đột xuất hoặc những rủi ro không lường trước.
Những quy định về BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng là sự
bảo đảm trong việc thực hiên BHXH trong khuôn khổ pháp luật, đảm bảo
cho sự an toàn xã hội.
Do vậy, pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện là tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia quan hệ BHXH tự
nguyện: người tham gia BHXH tự nguyện, người hưởng BHXH tự nguyện và
người thực hiện BHXH tự nguyện.
1.2.2. Nguyên tắc pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện
Pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiên dựa trên ba
nguyên tắc cơ bản:
Thứ nhất, pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện trên cơ
sở tự nguyện của người tham gia bảo hiểm
Đây là nguyên tắc cơ bản, đặc trưng của bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Nguyên tắc này thể hiện sự tự do ý chí của người tham gia bảo hiểm xã hội tự
nguyện khác với bảo hiểm xã hội bắt buộc mà trong đó người lao động và
người sử dụng lao động đều buộc phải tham gia theo quy định của pháp luật.
Sự tự do ý chí của người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cho họ quyền tự
quyết định sẽ tham gia loại hình bảo hiểm này hay khơng. Nếu tham gia, họ
được quyền lựa chọn mức đóng bảo hiểm, phương thức đóng bảo hiểm phù
hợp với nhu cầu và điều kiện kinh tế của bản thân họ.

13



Đương nhiên, sự tự do ý chí này vẫn trong một khuôn khổ nhất định
nhằm tránh sự hỗn loạn. Yếu tố mệnh lệnh được thể hiện chính trong việc
Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện pháp luật
bảo hiểm xã hội tự nguyện thống nhất trong phạm vi quốc gia. Với tư cách là
hình thức dịch vụ công, khác với bảo hiểm thương mại vì mục tiêu lợi nhuận,
nội dung các chính sách của bảo hiểm xã hội tự nguyện được Nhà nước quy
định chặt chẽ, cụ thể bằng văn bản, các cơ quan bảo hiểm xã hội không được
tự ý đặt ra bất kì chế độ hay quy định nào.
Thứ hai, các quy định pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyên phải linh
hoạt nhưng trong giới hạn nhất định để đảm bảo cân đối, hài hịa lợi ích của
các chủ thể trong quan hệ bảo hiểm xã hội tự nguyện
Phần lớn đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thuộc khu vực
phi chính thức như nơng dân, người lao động có thu nhập khơng cố đinh, đời
sống bấp bênh, … Những đối tượng này có sự đa dạng về mức thu nhập, trình
độ dân trí nên cần có sự linh hoạt trong quy định pháp luật để tạo điều kiện tốt
nhất để họ tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Sự linh hoạt này thể hiện trong
hai vấn đề về phương thức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện và mức đóng.
Phương thức người lao động có thể lựa chọn đóng theo hàng tháng,
hàng quý, 6 tháng đóng một lần, 12 tháng đóng một lần, đóng một lần cho
nhiều năm về sau nhưng không quá 5 năm cho một lần đóng hoặc đóng một
lần cho những năm cịn thiếu đối với người tham gia bảo hiểm xã hội đã đủ
điều kiện về tuổi để hưởng lương hưu theo quy định nhưng thời gian đóng
bảo hiểm xã hội cịn thiếu khơng q 10 năm (120 tháng) thì được đóng cho
đủ 20 năm để hưởng lương hưu. Bên cạnh đó, mức đóng bảo hiểm xã hội tự
nguyện của người tham gia sẽ được tính trên cơ sở mức thu nhập của họ xuất
phát từ sự thiếu ổn định trong quan hệ lao động của những người này. Căn cứ
vào mức đóng và thời gian đóng bảo hiểm xã hội mà từ đó xác định mức
hưởng bảo hiểm xã hội tương ứng của họ.
14



Tuy nhiên, tính linh hoạt này cần có giới hạn nhất định để bảo đảm sự
bình đẳng giữa những người cùng tham gia bảo hiểm. Sự giới hạn này sẽ cân
đối hài hịa về mặt lợi ích giữa các chủ thể; tránh gây xáo trộn không cần thiết
cho quỹ bảo hiểm xã hội và đảm bảo tính khả thi của việc thực hiện bảo hiểm
xã hội tự nguyện.
Thứ ba, pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện phải đảm bảo sự liên
thông giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Xuất phát từ sự thay đổi liên tục của các điều kiện kinh tế xã hội, sự
biến chuyển của người lao động từ khu vực phi chính thức sang khu vực
chính thức và ngược lại, sự thay đổi không ngừng của quan hệ lao động trong
cuộc sống hiện đại; pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện cần đảm bảo sự liên
thông giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm xã hội bắt buộc nhằm bảo
đảm quyền tham gia bảo hiểm xã hội theo đúng loại hình của người lao động.
Sự chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ, hay các thành phần lao động
không thể là bức tường ngăn cản quyền được tham gia bảo hiểm xã hội liên
tục, thông suốt trong q trình đóng bảo hiểm xã hội của người lao động. Đây
là nguyên tắc cơ bản để bảo đảm quyền lợi của người lao động.
1.2.3. Nội dung của pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.2.3.1. Chủ thể tham gia quan hệ BHXH tự nguyện
Chủ thể tham gia vào quan hệ bảo hiểm xã hội tự nguyện bao gồm
người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, người hưởng bảo hiểm xã hội tự
nguyện và người thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là người đóng góp phí BHXH
để bảo hiểm cho mình hoặc cho người khác được bảo hiểm xã hội. Theo các
quy định của pháp luật hiện hành, chủ thể tham gia bảo hiểm xã hội là người
lao đông, người sử dụng lao động và Nhà nước trong chừng mực nhất định.
Nhưng theo nghĩa rộng hơn thì người sử dụng lao động cũng có thể là người


15


gián tiếp tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Điều này được hiểu khi người
sử dụng lao động trả một khoản phí cố định với tiền lương tháng cho người
lao động để họ tham gia BHXH tự nguyện.
Chủ thể tham gia quan hệ BHXH tự nguyện là người lao động. Sự tự
nguyện được thể hiện khi người lao động lựa chọn tham gia một hoặc tất cả
các chế độ BHXH tự nguyện mà Nhà nước tổ chức. Người lao động là tất cả
những cá nhân trong độ tuổi lao động bao gồm cả người thuộc diện tham gia
BHXH bắt buộc và người không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc như:
người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc nhưng vì nhiều lý do nên họ
khơng được tham gia; người lao đọng làm việc trong các cơ quan, đơn vị
không có quan hệ lao động có nguyện vọng tham gia BHXH tự nguyện;
người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có quan hệ lao động, khơng
thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, người làm cơng ăn lương theo
hình thức hợp đồng dưới 1 tháng.
Chủ thể chủ yếu tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là người lao động
không thuộc diện BHXH bắt buộc. Những đối tượng này thường thuộc khu
vực lao động phi chính thức hoặc khơng có cơng việc và thu nhập ổn đinh nên
địi hỏi chính sách BHXH tự nguyện phù hợp với nhu cầu và khả năng tham
gia đóng góp của những người lao động. Bên cạnh đó, sự phát triển của kinh
tế thị trường và công nghệ số kéo theo sự ra đời của nhiều loại ngành nghề
mới, cần nghiên cứu để xây dựng chế độ BHXH tự nguyện phù hợp nhằm mở
rộng hơn nữa các chủ thể tham gia.
Chủ thể được hưởng BHXH tự nguyện là người lao động hoặc thành
viên gia đình họ khi thoả mãn đầy đủ các điều kiện được bảo hiểm xã hội theo
quy định của pháp luật. Việc bảo đảm những điều kiện này thường được căn
cứ dựa trên mọt số tiêu chí như: thời gian tham gia bảo hiểm, độ tuổi của
người lao động, … Những căn cứ này được quy định rõ trong các văn bản quy


16


phạm pháp luật. Khi những tiêu chí được đảm bảo theo đúng quy định, người
lao động hoặc người thân của họ sẽ được hưởng các chế độ BHXH tương
ứng. Như vậy, khi người lao động tham gia BHXH tự nguyện, họ không chỉ
bản thân họ được hưởng BHXH mà những thành viên trong gia đình họ được
hưởng các chế độ tương ứng, với điều kiện những thành viên trong gia đình
họ là người trực tiếp được hưởng thu nhập của người lao động.
Chủ thể thực hiện BHXH tự nguyện là các cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức
thực hiện các chức năng: thu, chi, quản lý bảo hiểm cho người được BHXH tự
nguyện theo quy định của pháp luật. Trên thế giới, chủ thể tổ chức thực hiện
BHXH có thể là cơ quan do Nhà nước thành lập hoặc do các tổ chức kinh tế,
tổ chức chính trị, tổ chức xã hội hoặc tự nhân thành lập theo quy định của
pháp luật nước sở tại. Ở Việt nam, cơ quan BHXH là chủ thể thực hiện
BHXH tự nguyện. Hoạt động của cơ quan này do Nhà nước thống nhất quản
lý từ Trung ương đến địa phương, tổ chức thực hiện và được kiểm tra, giám
sát thường xuyên. Cơ quan BHXH tại địa phương đóng vai trị quan trọng
trong việc đảm bảo đầy đủ, kịp thời các khoản trợ cấp cho người hưởng
BHXH theo quy định của pháp luật. Cơ quan BHXH chịu trách nhiệm trước
nhà nước về thực hiện BHXH đối với người lao động theo đúng quy định
pháp luật và chịu trách nhiệm về tài chính đối với người được bảo hiểm khi
họ đạt đủ các điều kiện hưởng bảo hiểm theo đúng quy định.
1.2.3.2. Các chế độ BHXH tự nguyện
Đáp ứng nhu cầu sống để tồn tại và phát triển, con người phải tạo ra
của cải vật chất để phục vụ cuộc sống thông qua lao động. Nhưng quá trình
sống của con người trải qua các giai đoạn của “sinh-lão-bệnh-tử”, ai rồi cũng
sẽ già đi, mất khả năng lao động tạo ra của cải vật chất, khơng cịn khả năng
đáp ứng nhu cầu cuộc sống, thậm chí là chết đi. Khi con người rơi vào giai

đoạn không thể tự mình kiếm thêm thu nhập, khoản tiền để duy trì cuộc sống

17


tới khi mất của họ chỉ có thể là do tích luỹ từ trong q trình lao động hoặc do
con cái của họ cấp dưỡng. Tuy nhiên đây không phải nguồn thu nhập mang
tính thường xuyên, cố định mà sẽ phụ thuộc vào điều kiện của từng người.
Để đảm bảo quyền và lợi ích cho người lao động đặc biệt là nhóm la
động trong khu vực phi chính thức khi họ hết tuổi lao động hoặc không thể
tiếp tục tham gia quan hệ lao động và giúp họ ổn định đời sống, Nhà nước
thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện. Chế độ BHXH tự nguyện bao
gồm 2 chế độ: Hưu trí và tử tuất.
Chế độ hưu trí là chế độ bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo thu nhập cho
người lao động đã hết tuổi lao động hoặc không thể tiếp tục tham gia quan hệ
lao động theo quy định của pháp luật.
Chế độ hưu trí là chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn nằm ngoài quá trình
lao động nhưng lại được thể hiện ngay trong quá trình lao động. Người tham
gia BHXH sẽ tham gia đóng trong một thời gian dài liên tục đến khi đạt đủ
điều kiện về thời gian tham gia đóng BHXH theo quy định của mỗi quốc gia
thì mới đạt được 1 trong số các tiêu chí hưởng bảo hiểm hưu trí.
Người hưởng BHXH hưu trí sẽ phải đạt đến độ tuổi nhất định hoặc
được giảm tuổi trong một số trường hợp do nghề nghiệp hoặc môi trường lao
động tuỳ theo quy định của mỗi quốc gia và mỗi giai đoạn của lịch sử gắn với
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội.
Tuổi lao động được quy định theo pháp luật của mỗi nước, việc lựa
chọn độ tuổi lao động sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó bao gồm chất
lượng, thể trạng và tuổi thọ của người dân của quốc gia đó.
Tại Việt Nam, độ tuổi nghỉ hưu bình quân theo quy định là 57, tuổi
nghỉ hưu bình quân thực tế là 53,5 (năm 2012), là 55 tuổi (năm 2017) và đạt

56 tuổi (năm 2018). Trên thực tế, độ tuổi nghỉ hưu của Việt Nam tương đối
thấp trong khi tuổi thọ trung bình cao. So với các nước trong khu vực tuổi

18


×