Tải bản đầy đủ (.pdf) (188 trang)

Những Biểu Tượng Nghệ Thuật Tiêu Biểu Trong Thơ Ca Việt Nam Giai Đoạn 1930 - 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 188 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM ĐỨC CƯỜNG

NHỮNG BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT
TIÊU BIỂU TRONG THƠ CA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1930 - 1945

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM ĐỨC CƯỜNG

NHỮNG BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT
TIÊU BIỂU TRONG THƠ CA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1930 - 1945

Chuyên ngành: Lý luận Văn học
Mã số: 62 22 01 20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Trần Khánh Thành


Hà Nội - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung trong Luận án “Những biểu tượng
nghệ thuật tiêu biểu trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945” là cơng
trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Trần
Khánh Thành.
Những số liệu, kết quả, trích dẫn trong luận án đều trung thực, rõ ràng, có
nguồn gốc đầy đủ và chưa được ai công bố trong bất kì cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phạm Đức Cường


LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc tới PGS.TS Trần Khánh Thành người hướng dẫn khoa học tận tình và tâm huyết - người Thầy đáng kính đã
ln động viên, ủng hộ em trong q trình học tập và thực hiện luận án này.
Em xin trân trọng cảm ơn các nhà khoa học trong Hội đồng chấm luận án;
trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo của Khoa Văn học, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã quan tâm, tạo
điều kiện tốt nhất cho em trong q trình học tập và hồn thành luận án.
Tơi xin trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo, các đồng nghiệp, các
bạn sinh viên Trường Đại học Hải Phịng - nơi tơi đang cơng tác - đã động viên,
khích lệ, tạo điều kiện cho tơi hồn thành việc học tập.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn tới gia đình, bạn bè, người thân đã ln
quan tâm, động viên, ủng hộ để tơi học tập, nghiên cứu và hồn thành luận án.


TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phạm Đức Cường


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục

1

MỞ ĐẦU

4

Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu biểu tƣợng từ góc nhìn lý thuyết

10
10

1.1.1. Khái lƣợc về biểu tƣợng

10

1.1.2. Một số quan niệm về biểu tƣợng

13


1.1.3. Đặc trƣng của biểu tƣợng

27

1.1.4. Biểu tƣợng nghệ thuật trong thơ

29

1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

33

1.2.1. Lịch sử nghiên cứu biểu tƣợng trên thế giới qua các cơng

33

trình đƣợc biết đến ở Việt Nam
1.2.2. Lịch sử nghiên cứu biểu tƣợng, biểu tƣợng nghệ thuật ở

36

Việt Nam
Tiểu kết chƣơng 1

42

Chƣơng 2. NGUỒN GỐC SINH THÀNH CÁC BIỂU TƢỢNG

43


TRONG THƠ CA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
2.1. Kiến tạo biểu tƣợng từ mẫu gốc và mở rộng biên độ tƣợng trƣng

43

2.2. Thực tế thời đại - nguồn gốc đầu tiên của biểu tƣợng

48

2.3. Chủ nghĩa lãng mạn, Chủ nghĩa tƣợng trƣng, Chủ nghĩa siêu

51

thực và ảnh hƣởng tới thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
2.3.1. Chủ nghĩa lãng mạn

51

2.3.2. Chủ nghĩa tƣợng trƣng

56

2.3.3. Chủ nghĩa siêu thực

59

1



2.4. Từ thơ ca yêu nƣớc đến thơ ca cách mạng

62

2.4.1. Tiếp nối truyền thống thơ ca dân tộc

62

2.4.2. Thơ ca Cách mạng ra đời trong thực tiễn đấu tranh cách mạng

64

2.5. Quan điểm nghệ thuật của thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930-1945

66

2.5.1. Quan điểm nghệ thuật của thơ ca lãng mạn

66

2.5.2. Quan điểm nghệ thuật của thơ ca Cách mạng

69

Tiểu kết chƣơng 2

73

Chƣơng 3. BIỂU TƢỢNG NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU TRONG


75

THƠ MỚI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1932 - 1945
3.1. Biểu tƣợng về không gian - vật thể

75

3.1.1. Biểu tƣợng trăng

75

3.1.2. Biểu tƣợng vƣờn

80

3.1.3. Biểu tƣợng cánh bƣớm

84

3.2. Biểu tƣợng về thế giới tâm linh

89

3.2.1. Biểu tƣợng âm phủ - địa ngục

89

3.2.2. Biểu tƣợng hồn - linh hồn

94


3.2.3. Biểu tƣợng máu

100

3.2.4. Biểu tƣợng giấc mộng

104

3.3. Biểu tƣợng về sự vận động của thời gian

110

3.3.1. Biểu tƣợng mùa xuân

110

3.3.2. Biểu tƣợng mùa thu

116

Tiểu kết chƣơng 3

120

Chƣơng 4. BIỂU TƢỢNG NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU TRONG

122

THƠ CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945

4.1. Biểu tƣợng về lý tƣởng cách mạng

122

4.1.1. Biểu tƣợng mặt trời

122

4.1.2. Biểu tƣợng con đƣờng

125

2


4.1.3. Biểu tƣợng cờ - ngọn cờ

132

4.2. Biểu tƣợng về ý chí cách mạng

140

4.2.1. Biểu tƣợng con thuyền

140

4.2.2. Biểu tƣợng lửa

145


4.2.3. Biểu tƣợng máu

150

4.3. Biểu tƣợng về sự vận động của cách mạng

156

4.3.1. Biểu tƣợng bóng tối

156

4.3.2. Biểu tƣợng ánh sáng

162

Tiểu kết chƣơng 4

167

KẾT LUẬN

169

DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN

174

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

175

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Biểu tƣợng xuất hiện từ lâu trong đời sống văn hóa của các dân tộc
và nhân loại, là một trong những ngôn ngữ cơ bản của con ngƣời, tồn tại trong
hiện thực và cả trong những giấc mơ. Leskie Alvin White, nhà nhân học Hoa
Kỳ, cha đẻ của Thuyết Tiến hóa mới, đã đƣa ra nhận định một cách xác tín
rằng “đơn vị cơ bản” của văn hóa là biểu tƣợng và nó là hạt nhân của di
truyền xã hội. Và thực tế cho thấy, thơng qua những lý thuyết mang tính chất
tƣơng đối hệ thống cùng với kinh nghiệm cá nhân, chúng ta đang dần buộc
mình phải ghi nhận biểu tƣợng chính là đơn vị cơ bản của mọi hành vi ứng xử
và văn minh của nhân loại.
Nhà triết học Đức Ernst Cassier đã đƣa ra định nghĩa về con ngƣời nhƣ
một “động vật sản xuất ra các hình thái biểu tƣợng”, thậm chí ơng cịn đƣa ra
một đề xuất táo bạo và có căn cứ rằng “chúng ta nên định nghĩa con ngƣời
nhƣ là động vật biểu tƣợng”. Biểu tƣợng đƣợc con ngƣời sử dụng nhƣ một
phƣơng tiện thông tin và giao tiếp tƣ tƣởng tình cảm chứa đầy tính thẩm mĩ.
Khơng chỉ vậy, có thể coi biểu tƣợng là một dạng “đặc sản tinh thần” của văn
hóa mỗi dân tộc, mỗi thời đại, mỗi tập thể và mỗi cá nhân. Ở một góc độ nhất
định, biểu tƣợng chính là nét khác biệt, độc đáo khi so sánh giữa các nền văn
hóa trên thế giới với nhau.
1.2. Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu biểu tƣợng nói chung,
biểu tƣợng nghệ thuật nói riêng đã đƣợc quan tâm và đạt nhiều kết quả đáng
ghi nhận. Trong hƣớng nghiên cứu văn học từ văn hóa nói chung - một bộ

phận khơng thể tách rời khỏi văn hóa thì giải mã biểu tƣợng là một trong
những khâu quan trọng. Biểu tƣợng là loại mã văn hóa mà nếu muốn tìm hiểu
một nền văn học, chúng ta không thể bỏ qua. Hiểu đƣợc các ý nghĩa của biểu

4


tƣợng chính là hiểu đƣợc cơ bản hệ giá trị văn hóa của cả một dân tộc, một
thời đại sản sinh ra nó. Với khả năng “gợi cảm đến bất tận”, biểu tƣợng đƣợc
biết đến nhƣ một sinh thể có khả năng mở rộng, biến đổi hoặc tái sinh các lớp
nghĩa theo thời gian, hồn cảnh. Chính vì thế, việc nghiên cứu biểu tƣợng ở
một giai đoạn, một thời kì văn học hay một thời đại nào đó sẽ là nền tảng để
chúng ta thấu hiểu một cách sâu sắc và căn bản một tác giả, hay văn hóa của
một dân tộc. Khu biệt lại ở một phạm vi hẹp, biểu tƣợng ở trong thơ chính là
những hình ảnh cụ thể nhƣng giàu cảm xúc, tính “gợi cảm thẩm mĩ” và điều
quan trọng là nó có khả năng biến hóa linh hoạt cùng với khả năng chứa đựng
nhiều tầng, nhiều lớp ý nghĩa sâu xa mà “bề mặt ngôn từ” khơng thể hiện hết.
Xây dựng ít hay nhiều, thậm chí là cả một hệ thống biểu tƣợng trong sáng tác
của mình đƣợc coi là một phƣơng thức để nghệ sĩ phản ánh cuộc sống và thể
hiện cá tính, tài năng sáng tạo của mình trong thơ. Chính các biểu tƣợng làm
cho tác phẩm trở nên lung linh, huyền ảo, khơi gợi trí tƣởng tƣợng, tị mị
khám phá của ngƣời đọc. Việc xây dựng các biểu tƣợng phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó yếu tố nền tảng là quan niệm và thị hiếu thẩm mĩ của mỗi dân
tộc, mỗi thời đại trong những hoàn cảnh nhất định.
1.3. Thế giới biểu tƣợng trong văn học Việt Nam nói chung và thơ ca
Việt Nam nói riêng là một lĩnh vực vơ cùng rộng lớn, hấp dẫn, là mảnh đất
nghiên cứu màu mỡ mà trong nhiều năm qua chúng ta mới đang trong quá
trình tìm hiểu, khám phá. Biểu tƣợng nghệ thuật vừa mang tính phổ quát vừa
mang dấu ấn riêng của từng dân tộc, từng thời đại, từng tập thể và mỗi cá
nhân. Thơ ca lƣu giữ và làm sống lại những biểu tƣợng, những giá trị văn hóa

thơng qua các biểu tƣợng ngơn từ. Nó chun chở mã văn hóa qua tiến trình
văn học dân tộc và đi qua mỗi thời đại, nó lại đƣợc bổ sung những nội dung
mới, nét nghĩa mới, nhiều khi trở thành yếu tố thể hiện phong cách thời đại
hoặc phong cách cá nhân.

5


Thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930-1945 ra đời và tồn tại trong một thời
điểm đƣợc cho là cuộc hội tụ lần thứ nhất của nhiều chiều văn hóa, tƣ tƣởng
cũ mới, Đơng - Tây, cùng với sự hịa trộn của các ý thức hệ xã hội khác nhau.
Cần phải khẳng định rằng, thơ ca giai đoạn này chứa đựng và kết tinh nhiều
giá trị nội dung, tƣ tƣởng nghệ thuật đặc sắc, tiêu biểu và có nhiều đóng góp
quan trọng vào q trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Trong đó, có sự xuất
hiện của những biểu tƣợng, hệ biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu, mang giá trị
thẩm mĩ và giá trị tƣ tƣởng cao.
Chính vì thế, chúng tôi chọn Những biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu
trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 làm đề tài luận án với hy vọng
góp phần làm rõ đặc điểm tƣ duy nghệ thuật, thi pháp và thành tựu của các
khuynh hƣớng thơ Việt Nam trong giai đoạn này, dƣới góc độ tiếp cận biểu
tƣợng nghệ thuật.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi luận án, chúng tôi tập trung khảo sát, phân tích các biểu
tƣợng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930-1945 (cụ thể
là Phong trào Thơ mới 1932 - 1945 và thơ ca Cách mạng 1930 - 1945).
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tiếp cận các tác phẩm thơ ca tiêu biểu chứa đựng biểu tƣợng
hoặc hệ thống những biểu tƣợng nghệ thuật đƣợc sáng tác trong giai đoạn từ
năm 1930 đến năm 1945. Do khối lƣợng các tác phẩm khảo sát khá đồ sộ vì

chặng đƣờng thơ diễn ra trong một khoảng thời gian dài nên chúng tôi xin
đƣợc tiếp cận các tác phẩm tiêu biểu của một số tác giả tiêu biểu với phong
cách độc đáo, có tính đại diện, có tầm ảnh hƣởng lớn đến dòng chảy thơ ca
Việt Nam trong giai đoạn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
6


Nghiên cứu một cách hệ thống, tƣơng đối toàn diện những biểu tƣợng
nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945; phân tích,
đánh giá quan niệm thẩm mĩ, đặc điểm tƣ duy nghệ thuật của cả một thời đại
sáng tác nói chung, của các nhà thơ nói riêng; chỉ ra vai trị của hệ thống biểu
tƣợng nghệ thuật tiêu biểu trong việc góp phần làm nên phong cách độc đáo
của đội ngũ tác giả trong một chặng đƣờng sôi động, nhiều thành tựu của thơ
ca Việt Nam; từ đó, đánh giá tồn diện, sâu sắc tƣ duy nghệ thuật và đặc điểm
thi pháp của các khuynh hƣớng thơ ca trong giai đoạn này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan về lý thuyết biểu tƣợng và tình hình nghiên cứu biểu tƣợng
nghệ thuật trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
- Lý giải nguồn gốc sinh thành các biểu tƣợng và hệ biểu tƣợng tiêu
biểu trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
- Khảo sát, phân loại, phân tích, đánh giá hệ thống biểu tƣợng nghệ
thuật tiêu biểu trong Phong trào Thơ mới (1932 - 1945) và thơ ca Cách mạng
giai đoạn 1930 - 1945.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống
Trên cơ sở coi một tác phẩm hay toàn bộ sáng tác của một nhà thơ
trong giai đoạn 1930 - 1945 là một hệ thống bao gồm các khuynh hƣớng nghệ
thuật khác nhau, bị chi phối bởi quan niệm thẩm mỹ và đặc trƣng thi pháp,

việc sử dụng phƣơng pháp tiếp cận hệ thống sẽ giúp chúng ta đánh giá đƣợc
đầy đủ giá trị và ý nghĩa của các biểu tƣợng nghệ thuật trong giai đoạn này.
4.2. Phương pháp thống kê
Trong quá trình thực hiện luận án, để đi đến những kết luận có cơ sở
khoa học, chúng tơi tiến hành khảo sát, thống kê tần số xuất hiện của các biểu
tƣợng trong các bài thơ, tập thơ của các tác giả trong phạm vi nghiên cứu. Từ
đó, tiến hành phân loại, đánh giá, phân tích và giải mã giá trị thẩm mĩ các biểu
tƣợng nghệ thuật trong thơ.
7


4.3. Phương pháp so sánh
Biểu tƣợng không tồn tại biệt lập và đóng kín, ngƣợc lại, biểu tƣợng
ln có sự vận động và mở rộng nghĩa, do đó, cần phải tìm hiểu biểu tƣợng
trong mối quan hệ đa dạng và đa chiều. Nhất là, biểu tƣợng cần đƣợc so sánh,
đối chiếu giữa các tác giả, các giai đoạn, các trào lƣu, các lĩnh vực, các nền
văn học, các nền văn hóa; trong đó chú ý nhiều hơn đến sự giao thoa giữa văn
hóa phƣơng Tây và phƣơng Đơng.
4.4. Phương pháp lịch sử - xã hội
Với tƣ cách là một hiện tƣợng lịch sử, nên biểu tƣợng cũng nhƣ biểu
tƣợng nghệ thuật gắn liền với cơ chế ngôn ngữ, đặc điểm tâm lý, quan niệm
thẩm mĩ của dân tộc và thời đại. Đặt biểu tƣợng nghệ thuật trong hệ quy chiếu
là hoàn cảnh lịch sử, xã hội phát sinh biểu tƣợng là một cơng việc có thể đƣa
đến cách nhìn tồn diện và khoa học. Đồng thời, cũng thuận lợi hơn trong
việc so sánh, đối chiếu biểu tƣợng trong hệ quy chiếu lịch sử, xã hội.
4.5. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Biểu tƣợng là đối tƣợng quan tâm của nhiều ngành khoa học, nhất là
trong những năm gần đây. Do đó khi nghiên cứu biểu tƣợng nói chung và
biểu tƣợng nghệ thuật nói riêng cần có sự nghiên cứu, đối sánh, hỗ trợ thơng
tin từ các ngành khoa học có liên quan, tiêu biểu nhƣ Tâm lý học, Kí hiệu

học, Phân tâm học, Ngơn ngữ học, Văn hóa học, Xã hội học,….
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là cơng trình khoa học đầu tiên đặt ra và nghiên cứu một cách
hệ thống và tƣơng đối đầy đủ về hệ thống biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu
trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 (cụ thể bao gồm Thơ mới và thơ
Cách mạng). Qua đây, chúng ta sẽ có cái nhìn khách quan, tồn diện và thấu
đáo hơn về diện mạo, quá trình đổi mới và đặc điểm sáng tạo nghệ thuật của
thơ Việt Nam trong giai đoạn này; đồng thời, thấy đƣợc những đóng góp to
lớn của các nhà thơ trong nền thơ ca dân tộc.

8


Cơng trình này có thể là tài liệu nghiên cứu, giảng dạy, học tập phần
thơ ca lãng mạn, thơ ca cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 cho giảng
viên, sinh viên ở các trƣờng đại học; cho giáo viên, học sinh ở các trƣờng phổ
thông trung học. Đồng thời, cũng có thể là nguồn tham khảo hữu ích cho giới
nghiên cứu, lý luận và phê bình văn học hiện đại khi tìm hiểu, đánh giá, phân
tích về thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung Luận án
bao gồm 4 chƣơng:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Nguồn gốc sinh thành các biểu tƣợng trong thơ ca Việt
Nam giai đoạn 1930 - 1945.
Chương 3: Biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu trong Phong trào Thơ mới
Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945.
Chương 4: Biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Cách mạng Việt
Nam giai đoạn 1930 - 1945.


9


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu biểu tƣợng từ góc nhìn lý thuyết
1.1.1. Khái lược về biểu tượng
Biểu tƣợng (symbol) là ngôn ngữ cơ bản, với ý nghĩa vừa rộng lớn nhất
vừa cô đọng nhất của một nền văn hóa. Thậm chí, ở trong những phạm vi nhất
định, có thể coi nó là dấu hiệu nhận biết và phân biệt các nền văn hóa khác
nhau trên thế giới. Trên nhận thức nền tảng là biểu tƣợng có mặt xung quanh
chúng ta, phơi thai và hình thành ngay từ thuở hồng hoang lịch sử loài ngƣời,
mỗi một nền văn hóa trên thế giới này đều là sự tổng hòa của các hệ thống
biểu tƣợng. Biểu tƣợng song hành cùng quá trình hình thành và phát triển của
mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Jean Chevalier và Alain Gheerbrant, tác giả của
Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới đã nhận xét rằng: “Nói chúng ta sống
trong một thế giới biểu tƣợng thì vẫn cịn chƣa đủ, phải nói một thế giới biểu
tƣợng sống trong chúng ta” [12, XIV].
Thế giới biểu tƣợng đƣợc tạo nên bởi trí tƣởng tƣợng phong phú của
con ngƣời. Có thể hiểu đặc điểm chủ yếu, căn bản của biểu tƣợng là khi nó
xuất hiện lập tức tự động gợi ra một hoặc nhiều ý nghĩa, ý tƣởng nào đó lớn
hơn sự hiện hữu của nó, đƣợc giới hạn phạm vi trong cộng đồng văn hóa chấp
nhận sự tƣơng quan đó, trong điều kiện lịch sử, xã hội nhất định. Claude
Levy-Strauss coi mọi nền văn hóa “đều có thể xem nhƣ một tập hợp các hệ
thống biểu tƣợng trong đó xếp ở hàng đầu là ngơn ngữ, các quy tắc hôn nhân,
các quan hệ kinh tế, nghệ thuật khoa học, tơn giáo” [20, 106].
Với mục đích có thể đi từ nhận thức đến tƣ duy và truyền đạt cho nhau
bức tranh về thế giới ý niệm nằm trong bộ não, với khả năng biểu trƣng hóa
bằng sự liên tƣởng, tƣợng tƣợng phong phú, con ngƣời đã sáng tạo ra một thế


10


giới biểu tƣợng, thậm chí là một “rừng biểu tƣợng”. Có thể hiểu cách khác là
thế giới ý niệm là cái có trƣớc và đƣợc hiện thực hóa thành thế giới biểu
tƣợng. Khi đó, có thể thấy biểu tƣợng chính là vật mang tính chất trung gian,
thay thế, cầu nối giữa thế giới ý niệm và thế giới vật chất bằng cách đƣa cái
vơ hình, bất khả tri trở thành cái hữu hình, khả tri. Cấu trúc của một biểu
tƣợng bao gồm cả ba cái: cái thực (thực tại), cái tƣởng tƣợng (ý niệm), cái
tƣợng trƣng (biểu tƣợng).
Iuri Mikhailovich Lotman, nhà kí hiệu học văn hóa Nga khi phân tích,
đánh giá các yếu tố trong hệ thống kí hiệu đã thừa nhận biểu tƣợng là một
trong những từ có nhiều nghĩa nhất. Các tác giả cuốn Từ điển biểu tượng văn
hóa thế giới đã khẳng định chắc chắn rằng: “Khơng cách gì định nghĩa đƣợc
một biểu tƣợng. Tự bản chất của nó, nó phá vỡ các khn khổ định sẵn và tập
hợp các thái cực lại trong một khái niệm. Nó giống nhƣ một mũi tên bay mà
khơng bay, đứng im mà biến ảo, hiển nhiên mà lại không sao nắm bắt đƣợc”
[12, XIV]. Cịn theo cách nói của Georges Gurvitch, nhà xã hội học ngƣời
Nga thì quả thật là quá khó cho chúng ta để có thể hiểu hết các tầng lớp ý
nghĩa của biểu tƣợng, nó vừa sáng rõ lại vừa ẩn đi, trốn tránh khi chúng ta cố
tình tìm hiểu nó.
Biểu tƣợng, theo cách hiểu khởi ngun, là một vật (có thể là kim loại,
mảnh gỗ, vật trang trí) đƣợc cắt làm đơi, sau đó đƣợc giao cho các bên có liên
quan giữ lấy. Sau này, chính vật này sẽ làm dấu hiệu để họ nhận biết lại
những thông tin đã trao đổi, giao ƣớc, thề hẹn với nhau. Ở ngƣời Hy Lạp thời
cổ đại, biểu tƣợng còn là những dấu hiệu để cha mẹ nhận ra khi con cái bị lƣu
lạc… Một đặc điểm khái quát nhất là mọi biểu tƣợng đều chứa đựng dấu hiệu
bị đập vỡ; ý nghĩa của biểu tƣợng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ vừa là nối
kết những phần của nó đã bị vỡ ra. Lịch sử của biểu tƣợng xác nhận rằng mọi
vật đều có thể mang giá trị biểu tƣợng, dù là vật tự nhiên (đá, kim loại, cây


11


cối, hoa, quả, thú ni,…) hay là trừu tƣợng (hình hình học, con số, nhịp điệu,
ý tƣởng,..).
Pierre Emmanuel đƣa ra luận giải rằng, ta có thể hiểu “mọi vật” ở đây
không chỉ là những sinh thể, vật thực hiện hữu mà cịn có thể hiểu đó là một
khuynh hƣớng, một giấc mơ, một ám ảnh nhận thức, một hệ ý thức,… Biểu
tƣợng “hình thành một vế rõ ràng có thể nắm bắt đƣợc, gắn liền với vế khác,
không nắm bắt đƣợc” [12, XXIV]. Cịn theo Sigmund Freud, ngƣời đặt nền
móng cho thuyết Phân tâm học thì “biểu tƣợng diễn đạt một cách gián tiếp,
bóng gió và ít nhiều khó nhận ra, niềm ham muốn hay các xung đột” [12,
XXIV]. Ông cho rằng biểu tƣợng chính mà mối liên kết chặt chẽ giữa một
hành vi, một tƣ tƣởng với những ý nghĩa tiềm ẩn mà chúng gợi ra. Sẽ có ít
nhất là hai phần ý nghĩa (nghĩa là có thể nhiều hơn, khơng có căn cứ để giới
hạn) đƣợc gợi ra, thế chỗ phần đã hiện hữu. Khi đó, chúng ta có mối quan hệ
đƣợc gọi là biểu tƣợng. Sigmund Freud cũng nhƣ nhiều nhà phân tâm học
khác, coi cái đƣợc biểu trƣng bao giờ cũng là vơ thức. Có thể nói đến nhận
định của Sándor Ferenczi, một cộng sự thân cận của S. Freud khi cho rằng
không phải mọi so sánh đều đƣợc coi là biểu tƣợng mà chỉ xuất hiện biểu
tƣợng khi trong so sánh, vế thứ nhất bị dồn nén vào vơ thức.
Cịn đối với Carl Gustav Jung, một học trị xuất sắc của S. Freud, thì
cho rằng biểu tƣợng không thể hiểu là những dấu hiệu đơn giản, mà cũng
không phải là một phúng dụ đơn thuần, nó đƣợc dùng để thể hiện cái bản chất
của sự vật trong trạng thái mơ hồ, nghi ngờ hoặc là một dạng của tâm linh
(bao gồm của ý thức và vô thức). Theo quan điểm của ông, cũng nhƣ Georges
Gurvitch, biểu tƣợng là thứ rất khó nắm bắt, vì bản thân nó khơng cắt nghĩa
và tất cả ý nghĩa gợi ra từ nó đều rất mơ hồ, mà khơng thể diễn đạt thỏa đáng
trong khuôn khổ nào cả. Không theo quan điểm của S. Freud khi đã coi biểu

tƣợng là một dạng “ngụy trang” cho cái gì đó khác, mà C. Jung cho rằng, biểu

12


tƣợng là một sản phẩm của tự nhiên. Sự chuyển vƣợt từ cái đã biết sang cái
chƣa biết, cái hiển hiện sang cái chƣa biểu lộ chính là giá trị của biểu tƣợng.
Và nếu nhƣ đến một lúc nào đó, cái phần giấu kín, chƣa biểu lộ của biểu
tƣợng mà hết đi, nghĩa là biểu tƣợng sẽ “chết” (chữ dùng của Jung) và chỉ còn
mang ý nghĩa lịch sử. Biểu tƣợng chỉ sống khi nó tràn đầy ý nghĩa và cịn phải
có nhiệm vụ khơi gợi nên sự sống khác, giàu ý nghĩa hơn chính bản thân nó.
R.de. Becker đã nghiên cứu và ví biểu tƣợng với một khối tinh thể phục
nguyên lại theo cách khác nhau nguồn sáng tùy theo từng mặt tinh thể tiếp
nhận ánh sáng. Ông coi biểu tƣợng nhƣ là một thể sống, một con ngƣời đang
trong dạng chuyển động và biến đổi không ngừng. Khi chúng ta nắm bắt biểu
tƣợng nhƣ là đối tƣợng suy ngẫm, thì cũng tức là ta đang nhìn ngắm chính cái
quỹ đạo ta sắp lần theo, ta nắm bắt cái hƣớng vận động đang lôi kéo con
ngƣời ta đi tới.
Micera Eliade coi biểu tƣợng là một phạm trù siêu nghiệm của sự cao
siêu, của cái siêu phàm, cái vô tận, cần phải đƣợc tiếp nhận bằng cả trí tuệ lẫn
tâm hồn. Còn Lausberg đã định nghĩa về biểu tƣợng là: “Phép chuyển nghĩa,
theo đó ngƣời ta thay thế bằng tên của một đồ vật, tên của một ký hiệu mà
việc sử dụng đã chọn lựa để gọi tên” [16, 453].
Và nếu phải đi đến việc khép lại một cách cơ bản vấn đề biểu tƣợng,
chúng tôi nghĩ cần nhắc tới quan điểm của Tzvetan Todorov, nhà phê bình
học ngƣời Bulgaria, khi nói đến trạng thái “ngƣng kết” của biểu tƣợng - nghĩa
là trong biểu tƣợng có một, và chỉ cần một cái biểu đạt nhƣng đã giúp chúng
ta nhận thức ra nhiều cái đƣợc biểu đạt, và thực tế là nó dồi dào hơn nhiều so
với cái biểu đạt.
1.1.2. Một số quan niệm về biểu tượng

Trong nghiên cứu nghệ thuật hiện đại đã có nhiều hƣớng tiếp cận khác
nhau về vấn đề biểu tƣợng nhƣ: Tâm lý học, Phân tâm học, Ngôn ngữ học,

13


Văn hóa học, Kí hiệu học, Tơn giáo học… Mỗi hƣớng tiếp cận đều có những
cơ sở lý thuyết nền tảng và đạt đƣợc những kết quả nhất định khi nghiên cứu
biểu tƣợng. Tuy nhiên thực tế cho thấy hƣớng tiếp cận Văn hóa học và Kí
hiệu học trong nghiên cứu nghệ thuật là đƣợc chú ý và quan tâm hơn cả. Bên
cạnh việc phác thảo vài nét về các hƣớng tiếp cận chủ yếu, theo hƣớng triển
khai của luận án, chúng tơi sẽ phân tích kĩ hơn về sự tiếp cận biểu tƣợng dƣới
góc nhìn văn học.
1.1.2.1. Biểu tượng dưới góc nhìn kí hiệu học
Từ những năm đầu của thế kỷ XX, Charles Peirce và Ferdinand de
Saussure đã đặt cơ sở cho kí hiệu học nhƣ là khoa học về kí hiệu và các chức
năng quan trọng của nó trong đời sống xã hội. Ngành nghiên cứu mối quan hệ
giữa vật là biểu tƣợng với giá trị mà biểu tƣợng bao hàm cũng nhƣ đời sống
của các kí hiệu đƣợc F. De Saussure gọi là Kí hiệu học (Semiology).
Charler Sanders Peirce, triết gia ngƣời Hoa Kỳ đã cho rằng chúng ta chỉ
có thể nghiên cứu hoạt động tinh thần của con ngƣời thông qua những “khách
thể đối ứng” bên ngồi. Xuất phát từ việc những khách thể này có tính chất
thay thế, đại diện cho hoạt động tƣ duy của con ngƣời nên nó mang tính chất
kí hiệu.
Cịn theo cách luận giải của Ronanl Barthes, nhà kí hiệu học ngƣời Pháp,
thì “thế giới biểu tƣợng” đồng nhất với khái niệm “thế giới siêu kí hiệu”. Biểu
tƣợng là những kí hiệu với hai mặt biểu hiện: cái biểu đạt (CBĐ) là hình thức
hàm nghĩa và cái đƣợc biểu đạt (CĐBĐ) là nội dung hàm nghĩa. Tuy nhiên, cần
hiểu là cái biểu đạt lại là một “kí hiệu biểu thị”, nên chúng ta có nhận thức “hệ
thống trong hệ thống” (hay còn gọi là “hệ thống kép” - đƣợc gọi với cái tên là

“siêu hệ thống”). Đây chính là hệ thống biểu tƣợng. Nhƣ vậy, cấu trúc cơ bản
của hệ thống biểu tƣợng gồm có: phần “hiển ngơn” và phần “mật ngôn” (tạo
nên hệ thống “ý nghĩa của ý nghĩa”). Thế giới biểu tƣợng vì thế có thể đƣợc coi
là thế giới của ý nghĩa.

14


Chính C. Jung, trƣớc khi đi vào phân tích bản chất của giấc mơ, cũng
đã nhấn mạnh lại về sự khác biệt giữa một kí hiệu và một biểu tƣợng. Ơng
cho rằng “Kí hiệu khơng bao giờ nói hết những ý nghĩa của ý niệm ghi lại
bằng kí hiệu ấy cịn biểu tƣợng thì gợi đến một nội dung to lớn hơn ý nghĩa
hiển nhiên và trực tiếp của biểu tƣợng” [47, 67]. Jung đã thật sự cho rằng biểu
tƣợng là một cái gì vừa có yếu tố tất nhiên, vừa có yếu tố ngẫu nhiên.
Theo Từ điển bách khoa Laroussse (Pháp) thì một trong các ý nghĩa
của kí hiệu là “Đơn vị ngôn ngữ học đƣợc tạo thành bởi sự kết hợp giữa cái
biểu đạt và cái đƣợc biểu đạt”. Từ điển bách khoa Microsoft Encarta
Encyclopedia (Hoa Kỳ) thì định nghĩa về kí hiệu là “Một dấu hiệu, một biểu
trƣng hay một biểu tƣợng đƣợc dùng để biểu thị một sự vật hay để phân biệt
cái sự vật mà ký hiệu đó đƣợc gán cho nó” [18, 102].
Từ góc độ phân tích của các nhà kí hiệu học, chúng ta có thể khái quát
và đƣa ra sơ đồ tạo nghĩa của biểu tƣợng nhƣ sau:
Ký hiệu học biểu thị (Ký hiệu biểu thị)

A

Hình thức biểu thị

Nội dung biểu thị


(Cái biểu đạt)

(Cái đƣợc biểu đạt)

Sự vật, hiện tƣợng

Quan niệm, khái niệm

Hình ảnh biểu thị

Ý nghĩa biểu đạt

Hình thức sự hàm nghĩa
B

(Ký hiệu biểu thị - Hiển ngôn)
(Cái biểu đạt)

Nội dung sự hàm nghĩa
(Ký hiệu ẩn dụ Mật ngôn)
(Cái đƣợc biểu đạt)

Ký hiệu học hàm nghĩa (Ký hiệu hàm nghĩa)
S

Biểu tƣợng (Symbol)

Dựa trên sơ đồ này, chúng ta có thể thấy biểu tƣợng là hình tƣợng đƣợc
hiểu ở góc độ kí hiệu, nhƣng khơng phải hoặc khơng thể là một kí hiệu đơn
nghĩa mà phải là một kí hiệu hàm nghĩa. Phạm trù biểu tƣợng nhằm chỉ đến

15


cái phần mà hình tƣợng (kí hiệu hiển ngơn) vƣợt lên chính nó để diễn đạt
những ý nghĩa trừu tƣợng khác (kí hiệu mật ngơn). Mặc dù có sự tƣơng tác
với hình tƣợng, song có thể khẳng định là khơng phải hình tƣợng nào cũng
đồng nhất với biểu tƣợng và khơng phải hình tƣợng nào cũng có thể trở thành
biểu tƣợng. Có thể phân định một cách đơn giản nhất, hình tƣợng là một “kí
hiệu thơng thƣờng”, trong khi biểu tƣợng là một “siêu kí hiệu”. Hình tƣợng và
sự đa nghĩa là hai cực gắn bó chặt chẽ, khơng thể tách rời nhau của một biểu
tƣợng. Bởi lẽ, tách khỏi hình tƣợng thì ý nghĩa sẽ mất tính biểu hiện, mà tách
khỏi ý nghĩa thì hình tƣợng sẽ bị phân rã thành hình tƣợng thơng thƣờng (hình
ảnh - image) và khơng cịn là biểu tƣợng nữa. Do vậy, hình tƣợng muốn trở
thành biểu tƣợng thì khơng thể dừng lại ở tính đơn nghĩa, mà phải trở thành
đa nghĩa. Nếu khơng, nó cũng chỉ là một hình tƣợng nghèo nàn về nội dung
biểu hiện cũng nhƣ khơng có giá trị thẩm mĩ đặc sắc, không thể gây ấn tƣợng
với chủ thể tiếp nhận, và thậm chí là sẽ mai một theo thời gian một cách
nhanh chóng, vào một thời điểm phù hợp.
Nếu dùng tƣ duy logic và nỗ lực của lý trí, chắc chắn chúng ta khơng thể
hiểu đƣợc nghĩa của các biểu tƣợng. Giải mã đƣợc biểu tƣợng đòi hỏi nhiều kĩ
năng, trong đó cần nhất là sự liên tƣởng và kinh nghiệm sống của chủ thể tiếp
nhận biểu tƣợng. Đó có thể coi là sự khác biệt lớn nhất và căn bản nhất giữa
hình tƣợng và biểu tƣợng. Vì hình tƣợng chỉ có tính chất đơn nghĩa, đại diện
cho một đối tƣợng cụ thể, duy nhất, không thể thay thế bằng cái khác. Ví dụ
nhƣ: hình tƣợng “Bác Hồ” trong thơ kháng chiến chống Mỹ, đƣợc cụ thể hóa
bằng chính hình ảnh của Bác Hồ, khơng thể thay thế. Cịn biểu tƣợng thì mang
tính đa nghĩa, nó bao hàm nhiều hơn cái nghĩa mà ngƣời ta đã gán cho nó từ
ban đầu (ít nhất là từ hai nghĩa trở lên). Ví dụ nhƣ biểu tƣợng “Mặt trời” trong
thơ Tố Hữu, gợi lên trong chúng ta về lãnh tụ anh minh, về mặt trời chân lý, về
cách mạng sáng soi, về tƣơng lai tƣơi sáng của dân tộc. Biểu tƣợng có tính chất


16


khả biến, không ngừng đƣợc trau dồi và bổ sung thêm chiều sâu của ý nghĩa
(thông qua thực tế cuộc sống, quá trình tiếp nhận, quan niệm thẩm mĩ của từng
thời đại và quan trọng là thông qua tƣ duy, quan điểm thẩm mĩ của tập thể và
từng cá nhân tác giả sáng tác). Nếu chúng ta ép buộc giải thích biểu tƣợng bằng
lối đơn nghĩa, nghĩa là biểu tƣợng sẽ biến mất.
Trong khi đó, nhà nghiên cứu Hồng Trinh trong cơng trình Từ kí hiệu
học đến thi pháp học (1997) chuyển dịch thuật ngữ symbole là biểu trƣng.
Theo cách kiến giải của ơng thì biểu trƣng có phạm vi tồn tại rất rộng lớn, đa
dạng trong mọi nền văn hóa trên thế giới cũng nhƣ nền văn hóa của dân tộc
Việt Nam. Ơng cho rằng các kí hiệu (trừ những chỉ hiệu hay dấu hiệu của
thiên nhiên) thì đều có thể đƣợc coi là những biểu trƣng. Ngơn ngữ, với tƣ
cách là một hệ thống những tín hiệu (kí hiệu) đồng thời cũng là những biểu
trƣng. Tác giả Hoàng Trinh nhận định rằng “mỗi sự vật ký hiệu và biểu trƣng
đều có hai tƣ cách và do đó có hai cơ chế, hai ý nghĩa, hai tác dụng” và “biểu
trƣng đƣợc hiểu là một loại kí hiệu mang tính chất hình thể từ ngữ cũng nhƣ
ẩn dụ, hốn dụ, phúng dụ” [16, 455].
1.1.2.2. Biểu tượng dưới góc nhìn tâm lí học
Các soạn giả trong cuốn Từ điển tiếng Việt (2011) đã nêu lên ba nét
nghĩa của biểu tƣợng. Nét nghĩa đầu tiên là hình ảnh tượng trưng; nét nghĩa
thứ hai là hình thức nhận thức cao hơn cảm giác cho ta hình ảnh của sự vật
cịn lại trong đâu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan đã chấm dứt;
và nét nghĩa thứ ba là kí hiệu bằng hình ảnh đồ họa trên máy tính [87, 66-67].
Hai nét nghĩa đầu tiên có liên quan đến biểu tƣợng trong văn học sẽ đƣợc sử
dụng để phân tích trong luận án.
Ở nét nghĩa thứ nhất, chúng ta có thể hiểu biểu tƣợng là một hình ảnh
tƣợng trƣng, từ một sự vật cụ thể, hình ảnh cụ thể gợi ra một khái niệm trừu

tƣợng nào đó khác nó. Ở nét nghĩa thứ hai, chính khởi nguồn từ lý luận nhận

17


thức của tâm lý học Marxist, khi đã chỉ ra rằng, biểu tƣợng là hình thức cao
nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính trực quan (nhƣng mới dừng ở cấp độ
thấp). Có hai hình thức tƣ duy, đó là tƣ duy khái niệm và tƣ duy hình tƣợng.
Tƣ duy khái niệm phản ánh việc con ngƣời cảm nhận thế giới thực tại và dùng
khái niệm để suy nghĩ, hoạt động, phán đốn trong thế giới vơ hình, bất khả
tri. Cịn trong tƣ duy hình tƣợng thì biểu tƣợng ở một cấp độ cao hơn hẳn, đó
là biểu tƣợng của tƣởng tƣợng. Nhƣ vậy, biểu tƣợng dƣới góc nhìn của tâm lý
học là hình ảnh mới đƣợc xây dựng từ những biểu tƣợng của trí nhớ, nó là
biểu tƣợng của biểu tƣợng (biểu tƣợng kép).
Từ luận điểm trên có thể hiểu biểu tƣợng chính là khâu liên kết các giai
đoạn nhận thức của con ngƣời (từ cảm giác trực quan tới tƣ duy trừu tƣợng).
Biểu tƣợng, cùng các cấp độ nhận thức ban đầu là cảm giác và tri giác đã tạo
ra những tiền đề cơ sở cho giai đoạn nhận thức lý tính - một q trình biện
chứng, tích cực, sáng tạo, từ trực quan sinh động đến tƣ duy trừu tƣợng rồi từ
tƣ duy trừu tƣợng đến thực tiễn. Biểu tƣợng giúp chúng ta nhận thức rõ hơn,
sâu sắc hơn bản chất của sự vật, hiện tƣợng và những vấn đề thuộc về quy
luật phát triển của sự vật.
Nhƣ trên đã phân tích, S. Freud đã dùng thuật ngữ symbole (biểu
tƣợng) để chỉ các sản phẩm của vô thức cá nhân “diễn đạt một cách gián tiếp,
bóng gió và ít nhiều khó nhận ra niềm ham muốn hay các xung đột” [12,
XXIV]. Tuy nhiên, do S. Freud thƣờng nhấn mạnh tính chất bản năng, vơ
thức nên đã lƣợc bỏ chiều tác động ngƣợc lại của ý thức và khái niệm
symbole theo cách dùng của ông gần nghĩa với symtome (triệu chứng) hơn là
symbole (biểu tƣợng).
Trên bình diện tâm lí học, ta có thể phân thành hai loại biểu tƣợng, đó

là biểu tƣợng trực quan và biểu tƣợng phi trực quan. Cả hai khái niệm này đều
là biểu tƣợng nằm ở cấp độ nhận thức. Muốn trở thành biểu tƣợng thực sự của

18


văn chƣơng nghệ thuật thì biểu tƣợng từ nhận thức này phải đƣợc chuyển hóa,
phải đƣợc sáng tạo thành cái biểu đạt mới, phải chuyển hóa từ trực quan sang
phi trực quan. Và cần lƣu ý rằng sự chuyển hóa khơng phải nhƣ hình ảnh bất
kì, ngẫu nhiên đƣợc lƣu giữ trong trí óc mà là sự chuyển hóa tổng hợp tất cả
những hình ảnh thu nhận đƣợc, biến cái ngẫu nhiên, cái cá biệt thành cái bản
chất, cái tất yếu của đối tƣợng, để tạo thành tính chất phi trực quan, phi vật
thể. Có nhƣ thế mới biểu tƣợng mới trở thành biểu tƣợng của văn hóa, biểu
tƣợng của văn học nghệ thuật. Dƣới góc độ tâm lý học, khi muốn tiếp cận
biểu tƣợng và giải thích, xem xét ý nghĩa của nó, chúng ta bắt buộc phải “xét
xem biểu tƣợng liên hệ đến một kinh nghiệm hoàn toàn cá nhân hay ngƣời ta
tạo ra nó nhân một giấc mơ, nhân một trƣờng hợp đặc biệt có vận dụng cái
hiểu biết của một ý thức tập thể” [47, 139].
Lucien Lévy-Bruhl, nhà triết học, nhà xã hội học xuất sắc ngƣời Pháp,
trong cơng trình Kinh nghiệm thần bí và các biểu tượng ở người nguyên thủy
(1938) đã nhận định về góc độ nhận thức của biểu tƣợng: “Bản chất của
những biểu tƣợng là một trong những điểm, trong đó nét khác biệt đó lộ rõ.
Biểu tƣợng, đối với chúng ta, bao giờ cũng kéo theo một ý nghĩ về một mối
quan hệ mà đầu óc nắm bắt đƣợc giữa biểu tƣợng và cái gì đó mà nó tƣợng
trƣng hoặc gợi ra, rằng mối quan hệ đó đƣợc xác lập một cách khách quan và
có thể quan sát thấy, hoặc là nó là mối quan hệ đƣợc áp đặt và dựa vào một
quy ƣớc” [5, 223]. Ví nhƣ khi nói đến biểu tƣợng của cái chết, tang tóc, ở
phƣơng Tây thƣờng là màu đen, ở phƣơng Đông thƣờng là màu trắng. Hay ở
một số dân tộc lấy con sƣ tử, con đại bàng làm biểu tƣợng cho sức mạnh của
mình - khơng phải là sự võ đốn mà là những biểu tƣợng có tính tự nhiên.

Cũng cần phải nói đến tƣởng tƣợng với tƣ cách là một quá trình tâm lý,
một giai đoạn nhận thức lý tính phản ánh những cái chƣa từng có trong kinh
nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới dựa trên cơ sở

19


những hình ảnh, những biểu tƣợng đã có. Tƣởng tƣợng đƣợc coi là một khả
năng, một cách thức để chúng ta nhận thức thế giới. Đây là một trong những
yếu tố then chốt liên quan đến quá trình sáng tạo nghệ thuật của các nhà văn
mà chúng tơi sẽ trình bày ở những phần sau.
1.1.2.3. Biểu tượng dưới góc nhìn phân tâm học
Biểu tƣợng đƣợc coi là vấn đề cốt lõi, trung tâm của lý thuyết Phân tâm
học, thậm chí có thể coi là ngơn ngữ chính của Phân tâm học, đƣợc khởi
xƣớng từ Sigmund Freud và phát triển gần nhƣ hoàn hảo đến Carl Gustav
Jung. Từ việc lý giải về những giấc mơ, những xung đột giới tính, những ham
muốn, mẫu gốc, bản ngã,… đều đƣợc phân tâm học lý giải từ ngơn ngữ biểu
tƣợng và q trình biểu tƣợng hóa. Việc lý giải các biểu tƣợng, các hệ kí hiệu
trong phân tâm học ln gắn liền với việc lý giải các giấc mơ của con ngƣời.
Theo đó, giấc mơ khơng phải ngẫu nhiên mà có, mà giấc mơ chính là q
trình liên lạc với tƣ tƣởng và những vấn đề mà ta ý thức đƣợc.
Sigmund Freud là ngƣời đầu tiên chỉ ra sự hình thành biểu tƣợng liên
quan đến hoạt động của tiềm thức. Ông nhiều lần đồng nhất việc khám phá
các hình ảnh trong giấc mơ với việc khảo luận các biểu tƣợng và cho rằng
chiêm bao diễn đạt bằng biểu tƣợng. Qua nghiên cứu hàng loạt giấc mơ, ông
khẳng định rằng, cái quan trọng nhất, cái đáng đƣợc xem xét nhất, đó là vấn
đề về biểu tƣợng - hệ kí hiệu của giấc mơ. Năm 1900, Sigmund Freud cho
phát hành cuốn sách Die traumdeutung (Giải thích giấc mơ), tác phẩm đƣợc
coi là đặt nền tảng cho Phân tâm học, đƣợc Hermann Beland đánh giá là “làm
rung chuyển nền văn hóa của chúng ta và làm thay đổi bức tranh của chúng ta

về con ngƣời” [30, 277]. Biểu tƣợng (trong phân tâm học của S. Freud) là sự
thay thế của cái biểu đạt này bằng cái biểu đạt khác mà ở đó cái biểu đạt ln
vắng mặt, cái biểu đạt xuất hiện nhƣ cái kí hiệu ám chỉ. Sự vắng mặt của cái
biểu đạt có thể liên quan đến cơ chế kiểm duyệt của văn hóa, xã hội, đến cơ

20


chế tâm lí đặc thù của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, nhƣ S. Freud đã từng tuyên bố,
thì “Phần lớn những biểu tƣợng trong giấc mơ là biểu tƣợng tính dục” [93,
82]. Theo cách hiểu của Anthony Storr trong công trình Dẫn luận về Freud
(1989), biểu tƣợng đƣợc S. Freud xem là chủ yếu phục vụ chức năng che giấu
hoặc khiến cho những khía cạnh cơ thể học của tính dục trở nên dễ chấp nhận
hơn. Nói một cách khác, “các biểu tƣợng Freud” là những đối tƣợng xuất hiện
trong giấc mơ tƣợng trƣng cho bộ phận sinh dục.
Trong khi đó, Carl Gustav Jung nói về kinh nghiệm của mình về những
giấc mơ nhƣ sau: “Giấc mơ là một hiện tƣợng bình thƣờng của con ngƣời,
biểu tƣợng xuất hiện trong giấc mơ rất đa dạng và đặc sắc dƣới dạng các giả
cảnh; qua nhiều năm chiêm nghiệm, tôi đi đến kết luận rằng, giấc mơ chính là
nguồn gốc để ta tìm hiểu biểu tƣợng… Giấc mơ là lĩnh vực thăm dò dễ dàng
nhất và thƣờng thƣờng ngƣời nào muốn nghiên cứu khả năng tạo biểu tƣợng
của con ngƣời cũng dễ dàng đến nhất” [47, 25]. Vì vậy, theo C. Jung, muốn
tìm hiểu biểu tƣợng thì giấc mơ là tài liệu chính yếu nhất, vì giấc mơ là tiếng
nói đặc thù của tiềm thức, vơ thức; thăm dị tiềm thức chính là thăm dò giấc
mơ. Giải mã đƣợc giá trị biểu đạt của biểu tƣợng trong giấc mơ chính là giải
mã đƣợc những uẩn khúc, ám ảnh trong tƣ duy con ngƣời. Tuy nhiên, C. Jung
cũng đồng thời cho rằng biểu tƣợng khơng chỉ xuất hiện trong những giấc mơ
mà cịn xuất hiện trong mọi hình thái biểu hiện tâm linh. Khi đó, chúng ta có
thể nhận thấy những suy nghĩ, cảm xúc, hành động và thậm chí là những tình
huống mang tính biểu tƣợng. Ở góc độ này, ơng cho rằng cấu tạo của biểu

tƣợng chính là từ những đồ vật vô tri hợp tác với tiềm thức.
Khi nghiên cứu về nhận thức, tâm lý trong thế giới tâm linh của con
ngƣời, Mabel Beggs - ngƣời đồng sáng lập Hiệp hội Ánh Sáng (Foundation of
Light) ở Ithaca, New York vào năm 1974 - đã đƣa ra khái niệm “những giấc
mơ biểu tƣợng”. Trong giấc mơ đó, chúng ta đang cố gắng giao tiếp, liên lạc

21


×