Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Thực tập giáo trình chuyên môn nước lợ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.69 KB, 26 trang )

PHẦN I: GIỚI THIỆU
Hiện nay trên thế giới, nghề nuôi tôm là một trong những nghề nuôi phát triển
nhất. Các quốc gia đứng đầu về sản lượng tôm nuôi gồm Trung Quốc, Thái Lan,
Indonesia, Việt Nam,…, nghề nuôi tôm đem lại lợi nhuận cao, góp phần nâng cao đời
sống cho người dân, phát triển kinh tế, giải quyết việc làm,….,hạn chế sự khai thác quá
mức tài nguyên sinh vật biển.
Ở Việt Nam, tiềm năng nuôi tôm là rất lớn. Nước ta có 3260 km bờ biển, 12 đầm
phá và các eo vịnh, 112 cửa sông gạch, hàng ngàn đảo lớn nhỏ ven biển là những nơi
rất thuận lợi cho việc nuôi trồng các loại thủy sản lợ mặn. Hiện nay, nuôi Tôm Sú ở
Đồng Bằng Sông Cửu Long dẫn đầu về sản lượng tôm nuôi . Theo thống kê của bộ
thủy sản, năm 1990, ở Việt Nam có 187.000 ha mặt nước nuôi tôm, sản lượng đạt được
31.000 tấn. đến năm 1995, diện tích mặt nước nuôi tôm đã tăng lên 260.000 ha và đạt
sản lượng 52000 tấn…Con giống tự nhiên đã không còn đáp ứng đủ nhu cầu của người
nuôi nữa và hàng loạt các trại sản xuất giống được thành lập. Theo thống kê hàng năm
các trại trong nước cung cấp khoảng 15-17 tỷ PL
15
, riêng ở Đồng Bằng Sông Cửu Long
có 1546 trại, sản xuất khoảng 8,5 tỷ tôm giống. Dự kiến đến năm 2010 nhu cầu của
người nuôi là 25 tỷ PL. . Mặt khác do việc nuôi tôm ven biển phát triển một cách ào ạt
không có quy hoạch, nuôi với mật độ cao, con giống kém chất lượng… đã dẫn đến tình
trạng ô nhiễm nguồn nước, dịch bệnh xảy ra trên diện rộng làm cho tôm chết ở nhiều
nơi (TRÀ VINH, BẠC LIÊU, CÀ MAU…) gây thiệt hại kinh tế nặng nề. Bên cạnh đó,
sự xuất hiện của tôm Thẻ Chân Trắng là đối tượng nuôi mới vốn ít bệnh, thời gian nuôi
ngắn, giá thành rẻ hơn làm cho nghề nuôi tôm sú đứng trước nguy cơ sụp đổ. Do đó,
việc sản xuất ra con giống sạch bệnh, chất lượng cao và đáp ứng đủ nhu cầu người nuôi
là một yêu cầu cấp bách và cần thiết.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, trường Đại Học Cần Thơ đã tiến hành chuyển
giao kỹ thuật sản xuất giống Tôm Càng Xanh và Tôm Sú cho nhiều địa phương và tổ
chức “thực tập giáo trình chuyên môn nước lợ” cho sinh viên của trường nhằm trang
bị những kiến thức cơ bản và kỹ năng thực tiễn về quy trình sản xuất giống tôm. Đồng
thời kết hợp với các chuyến tham quan thực tế các địa phương lân cận thành phố cần


thơ để nâng cao hiểu biết, nắm bắt được tình hình nuôi và sản xuất giống của vùng. Từ
đó mà có định hướng nghề phù hợp.
Qua chuyến thực tập vừa qua được sự chỉ dẫn tận tình của quý thầy cô đã giúp em
hoàn thành chuyến đi thực tập và làm chuyên đề này. Do đây là lần đầu tiên tiếp cận
với thực tiễn sản xuất giống, kinh nghiệm còn hạn chế nên không tránh khỏi những sai
sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến, bổ sung của quý thầy cô và các bạn để báo cáo
này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
PHẦN II : LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
A. TÔM SÚ :
a. Hình thái, phân loại, phân bố :
Tôm sú được định loại như sau ;
Ngành : Arthropoda
Ngành phụ : Crustacea
Lớp : Malacostraca
Bộ : Decapoda
Họ chung : penaeidea
Giống : Penaeus
Loài : Monodon
Tên loài : Penaeus monodon
1.Phân bố:
• Phạm vi phân bố của tôm sú khá rộng, từ Ấn Độ Dương qua
hướng Nhật Bản, Đài Loan, Phía Đông Tahiti, Phía Nam Châu Úc
và phía Tây Châu Phi (Racek – 1955, Holthuis và Rosa – 1965,
Motoh – 1981, 1985).
• Nhìn chung tôm sú phân bố từ kinh độ 30E đến 155E từ vĩ độ
35N tới 35S xung quanh các nước vùng xích đạo, đặc biệt là
Indonesia, Malaisia, Philippines và Việt Nam.
• Tôm bột, tôm giống và tôm gần trưởng thành có tập tính sống gần
bờ biển và rừng gập mặn ven bờ. Khi tôm trưởng thành di chuyển

xa bờ vì chúng thích sống vùng nước sâu hơn.
2. Cấu tạo:
Nhìn từ bên ngoài, tôm gồm các bộ phận sau:
• Chủy: dạng như lưỡi kiếm, cứng, có răng cưa. Với tôm sú, phía trên
chủy có 7-8 răng và dưới chủy có 3 răng.
• Mũi khứu giác và râu: cơ quan nhận biết và giữ thăng bằng cho tôm
• 3 cặp chân hàm: lấy thức ăn và bơi lội
• 5 cặp chân ngực: lấy thức ăn và bò
• Cặp chân bụng: bơi
• Đuôi: có 1 cặp chân đuôi để tôm có thể nhảy xa, điều chỉnh bơi lên
cao hay xuống thấp.
• Bộ phận sinh dục (nằm dưới bụng)
HÌNH: HÌNH DẠNG BÊN NGOÀI CỦA TÔM SÚ
• Khi tôm trưởng thành phân biệt rõ đực cái, thông qua cơ quan sinh dục
phụ bên ngoài:
• Con đực: cơ quan sinh dục chính của con đực nằm ở phía trong
phần đầu ngực, bên ngoài có cơ quan giao phối phụ nằm ở nhánh
ngoài đôi chân ngực thứ 2, lỗ sinh dục đực mở ra hốc háng đôi
chân ngực thứ 5. Tinh trùng thuộc dạng chứa trong túi.
• Con cái: Buồng trứng nằm dọc theo mặt lưng phía trên, hai ống
dẫn trứng mở ra ở khớp háng đôi chân ngực thứ 3. Bộ phận chứa
túi tinh gồm 2 tấm phồng lên ở đôi chân ngực thứ 4 và thứ 5 dưới
bụng tôm
3. Chu ký sống của tôm sú:
Các giai đoạn phát triển của ấu trùng tôm sú bao gồm: Nauplius,
Zoae và Mysis
• Nauplius gồm 6 giai đoạn, các Nauplius bơi từng đoạn ngắn rồi
nghĩ. Ấu trùng có tập tính trôi nổi hướng quang dinh dưỡng bằng
noãn hoàng.
Zoae gồm 3 giai đoạn, các Zoae bơi liên tục gần mặt nước ăn thực vật

phiêu sinh.
• Mysis gồm 3 giai đoạn:
 giai đoạn Mysis 1 có cơ thể kéo dài, chân ngực phát triển,
telson xuất hiện chưa có chân bụng.
 Mysis 2 có mần chân bụng nhưng chưa phân đốt.
 Mysis 3 có chân bụng phát triển dài gấp đôi so với giai
đoạn Mysis 2, chân bụng có 2 đốt.
• Ấu trùng Mysis dần dần chuyển sang ăn động vật phiêu sinh, bởi
ngữa và giật về phía sau.
HÌNH: VÒNG ĐỜI CỦA TỐM SÚ
* Sự phát triển của hậu ấu trùng:
• Sau giai đoạn Mysis 3 ấu trùng chuyển sang giai đoạn hậu ấu trùng
(tôm bột – Postlarvae) và có hình dạng tương tự như tôm trưởng
thành. Postlarvae đầu tiên có chiều dài khoảng 4,5mm các chân bụng
có nhiều lông tơ.
• Postlarvae giai đoạn đầu một số còn tập tính bơi trong cột nước phần
lớn bắt đầu sống đáy. Từ Post 6 tôm chủ yếu sống đáy.
HÌNH: CÁC GIAI ĐOẠN ẤU TRÙNG TÔM SÚ
* Sau giai đoạn Postlarvae chuyển thành giai đoạn tiền trưởng thành và cuối
cùng là giai đoạn trưởng thành.
4. Đặc điểm sinh sản:
• Tuổi thành thục của tôm cái và tôm đực từ tháng 8 trở đi.
• Hormone điều khiển sự thành thục sinh dục được sản xuất bởi tế bào
thần kinh trong cơ quan X của cuống mắt, vận chuyển tới tuyến giáp
sinap đưa vào kho dự trữ và khi cần thì tiết ra.
• Sự thành thục sinh dục của tôm sú thông qua tác động của tuyến nội
tiết khi cắt mắt tức là thúc đẩy chu kỳ lột xác, đem lại sự thành thục
mau chóng hơn.
• Số lượng trứng đẻ của tôm cái nhiều hay ít phụ thuộc vào chất lượng
buồng trứng và trọng lượng cá thể.Trọng lượng lớn cho trứng nhiều

hơn.
• Khi con cái thành thục ngoài tự nhiên có trọng lượng tự 100 – 300
gam cho 300000 – 12000000 trứng. Tôm cái đẻ trứng vào ban đêm
(thường từ 22 giờ đến 2 giờ). Trứng sau khi đẻ 14 – 15 giờ ở nhiệt độ
27 – 28
0
C sẽ trở thành ấu trùng. Tôm sú đẻ quanh năm nhưng tập
trung vào hai thời kỳ chính tháng 3 – 4 và tháng 7 – 10.
5. Tập tính ăn:
• Tôm sú là loài ăn tạp, thích các động vật sống và di chuyển chậm hơn
là xác thối rửa hay mảnh vụn hữu cơ, đặc biệt ưa ăn giáp xác, thực vật
dưới nước, mảnh vụn hữu cơ, giun nhiều tơ, loại hai mảnh vỏ, côn
trùng.
• Tôm sú ngoài tự nhiên ăn 85% là giáp xác, cua nhỏ, động vật nhuyễn
thể hai mảnh vỏ còn lại 15% là cá, giun nhiều tơ, thủy sinh vật, mảnh
vụn hữu cơ, cát bùn.
6. Tăng trưởng:
• Trong quá trình tăng trưởng, khi trọng lượng và kích thước tăng lên
mức độ nhất định, tôm phải lột bỏ lớp vỏ cũ để lớn lên.
• Sự lột xác thường xảy ra vào ban đêm. Sự lột xác đi đôi với việc tăng
thể trọng, cũng có trường hợp lột xác nhưng không tăng thể trọng.
• Khi quan sát tôm nuôi trong bể, hiện tượng lột xác xảy ra như sau
 Lớp biểu bì giữa khớp đầu ngực và phần bụng nứt ra, các phần
phụ của đầu ngực rút ra trước, theo sau là phần bụng và các phần
phụ phía sau, rút ra khỏi lớp vỏ cứng, với động tác uốn cong
mình toàn cơ thể
 . Lớp vỏ mới mềm sẽ cứng lại sau 1-2 giờ với tôm nhỏ, 1-2 ngày
đối với tôm lớn.
• Tôm sau khi mới lột xác, vỏ còn mềm nên rất nhạy cảm với môi trường
sống thay đổi đột ngột.

• Trong quá trình nuôi tôm, thông qua hiện tượng này, có thể điều chỉnh
môi trường nuôi kịp thời.
• Hormone hạn chế sự lột xác lột xác (MIH, molt - inhibiting hormone)
được tiết ra do các tế bào trong cơ quan của cuống mắt, truyền theo sợi
trục tuyến xoang, chúng tích luỹ lại và chuyển vào trong máu, nhằm
kiểm tra chặt chẽ sự lột xác.
• Các yếu tố bên ngoài như ánh sáng, nhiệt độ, độ mặn, điều này có ảnh
hưởng tới tôm đang lột xác.
B. TÔM CÀNG XANH
ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA TÔM CÀNG XANH.
1. Vị trí phân loại:
Ngành: Arthropoda.
Lớp: Crustacea
Lớp phụ: Malacostraca
Bộ: Decapoda
Họ: Palaemonidae.
Giống: Macrobrachium.
Loài: Macrobrachium rosenbergii.
1. Đặc điểm về hình thái
Dựa vào hình dạng và màu sắc để phân biệt giữa tôm càng và các nhóm tôm khác:
• TCX có cơ thể thon dài, đối xứng hai bên.
• Con trưởng thành thường có màu xanh dễ nhận, đôi khi có màu nâu nhạt.
Cấu tạo cơ thể gồm :Phần đầu ngực phiá trước và phần bụng phía sau.
 Phần đầu ngực lớn, có dạng hơi giống hình trụ, gồm phần đầu với 5 đốt gần
nhau, mang 5 đôi phụ bộ và phần ngực với 8 đốt liền nhau mang 8 đôi phụ bộ.
Phần đầu ngực được bao dưới tấm vỏ dày gọi là giáp đầu ngực.
 Phần bụng gồm có 6 đốt có thể cử động và một đốt đuôi. Mỗi đốt mang một
đôi phụ bộ gọi là chân bơi. Mỗi đốt bụng có tấm vỏ bao. Tấm vỏ phía trước
xếp chồng lên tấm vỏ phía sau. Tuy nhiên tấm vỏ của đốt bụng thứ hai phủ lên
cả hai tấm vỏ trước và sau nó. Các đốt bụng hơi tròn trên mặt lưng và dẹp hai

bên. Cơ thể có dạng hơi cong như hình dấu phẩy, to ở phần đầu và thon nhỏ về
phái sau.
• Ở tôm nhỏ có màu trong sáng. Trên giáp đầu ngực có những sọc xanh đen dọc
hai bên.
• Tôm trưởng thành có những vệt màu xanh hơi sậm ngang lưng xen kẽ với màu
trắng trong của cơ thể.
• Tôm có chủy dài vượt vảy râu, uống cong lên từ đoạn giữa chủy, gốc chủy ở
nơi hốc mắt nhô cao lên thành mào
HÌNH: HÌNH DẠNG NGOÀI CỦA TÔM CÀNG XANH
• Chủy có 11-16 răng trên chủy (2-3 răng sau hốc mắt) và 10-15 răng dưới chủy.
• Các phụ bộ có hình dạng, kích cỡ và chức năng khác nhau với hai đôi râu có
chức năng xúc giác, một đôi hàm lớn, hai đôi hàm nhỏ và ba đôi chân hàm có
chức năng giữ và nghiền mồi, năm đôi chân ngực có chức năng để bò, năm đôi
chân ngực để bơi và một đôi chân đuôi có chức năng như bánh lái. Hai đôi chân
ngực đầu tiên của tôm chuyển hoá thành hai đôi càng, đôi càng thứ hai to dùng
để bắt mồi và tự vệ.
• Đặc điểm về kích cỡ, màu sắc, hình dạng và các gai trên đôi càng sẽ thay đổi
theo từng giai đoạn thành thục của tôm, nhất là ở tôm đực.
• Quá trình thay đổi được thể hiện qua các giai đoạn như: tôm nhỏ, tôm càng
cam nhạt, tôm càng cam đậm, tôm càng cam đậm chuyển tiếp càng xanh, tôm
càng xanh nhạt, tôm càng xanh đậm và tôm già.
2. Sự phân bố:
• Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy TCX phân bố ở tất cả các thủy vực nước
ngọt (đầm, hồ, ao, sông) và các thủy vực nước lợ của nhiều vùng trên thế giới
(Nguyễn Việt Thắng, 2003).
• Môi trường sống của tôm càng xanh đa dạng trong thủy vực nước trong cũng
như nước đục (FAO, 1985), phân bố chủ yếu ở Đông Nam Á và một khu vực
khá hẹp của Đông Bắc Á, giới hạn từ Ấn Độ đến phía Đông của nước Úc và
đảo Solomon (Arrigon, 1994) như: Thái Lan (De Man, 1879; Lanchester, 1879;
Rabanal và Soesaton, 1985), Ấn Độ (Hurbest, 1792; Rabanal và Soesaton, 198),

Miến Điện (Handerson, 1893), Singapore, Nhật Bản (Vonmartens 1868), Hồng
Kông (Thomson,1937), Philippine, (Castro De Elera, 1895), Indonesia (De
Man,1879), Australia (J.roux 1933) và Việt Nam (Rabanal và Soesaton, 1985)
và khu vực Tây Nam Thái Bình Dương, chủ yếu ở các khu vực từ Châu Úc đến
New Guinea (Nguyễn Việt Thắng, 2003)
• Ở Việt Nam TCX phân bố tự nhiên từ Nha Trang trở vào đến Đồng Bằng Nam
Bộ và tập trung chủ yếu ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Ở các thuỷ vưc có độ
mặn 18ppt đôi khi cả 25ppt vẫn thấy tôm xuất hiện
3. Vòng đời và tập tính sống
• Theo Ling S.W và Omerica A.B (1962); Nguyễn Thanh Phương (2003), vòng
đời TCX được chia thành 4 giai đoạn: trứng, ấu trùng, hậu ấu trùng và tôm
trưởng thành.
 Khi tôm đã trưởng thành, chúng thường sống ở vùng nước ngọt như:
sông, rạch, ao hồ…. Cũng chính nơi này sẽ xảy ra quá trình thành thục,
phát dục và giao vĩ đẻ trứng. Nhưng khi ôm trứng chúng có xu thế bơi
ra vùng nước lợ từ 6-18o/oo, ở đó ấu trùng được nở ra và sống trôi nổi
theo kiểu phù du. Sau 11 lần lột xác với 12 giai đoạn biến thái, ấu trùng
(Nauplii) biến thành hậu ấu trùng (Post larvae) lúc này tôm con di cư về
vùng nước ngọt, sống và lớn lên ở đây.
 Ấu trùng có tính hướng quang mạnh, vận động trôi nổi trong nước.
 Sang thời kỳ hậu ấu trùng và giai đoạn trưởng thành, tôm có tập tính
sống ở đáy, bám vào cây cỏ; giá thể…
 Tôm trưởng thành ít hoạt động và thường ẩn náu vào ban ngày và tích
cực hoạt động vào ban đêm.
 Tôm càng xanh có tập tính ăn thịt lẫn nhau, điều này thể hiện rõ trong
nuôi ở mật độ cao hoặc khi bị thiếu thức ăn (Ismael và New, 2000). Vì
vậy, việc dùng giá thể tăng chổ ẩn nấp, hạn chế hiện tượng này để nâng
cao tỷ lệ sống của tôm đã được đề xuất trong nuôi thương phẩm (Ling,
HÌNH: DI CƯ SINH SẢN CỦA TÔM CÀNG XANH

×