Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

luận văn thạc sĩ tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.42 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM QUỐC HUY

TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CƠNG VỤ TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM QUỐC HUY

TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CƠNG VỤ TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐINH THỊ MAI

HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan, đề tài luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất cứ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Quốc Huy


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ......................6
1.1. Những vấn đề lý luận về tội chống người thi hành công vụ.............................. 6
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội chống người thi hành
công vụ.................................................................................................................................................. 23
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG
VỤ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI......................................................................................... 32
2.1. Khái quát tình hình khởi tố, điều tra, xét xử tội chống người thi hành
công vụ tại Hà Nội.......................................................................................................................... 32
2.2. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về tội chống người thi
hành công vụ tại thành phố Hà Nội....................................................................................... 33
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội chống người thi hành công
vụ tại thành phố Hà Nội............................................................................................................... 45
2.4. Nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm................................................................ 56
Chương 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI
DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG ĐỐI

VỚI TỘI


CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI 60
3.1. Yêu cầu của việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
chống người thi hành công vụ.................................................................................................. 60
3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối
với tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn thành phố Hà Nội.................64
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 77


Chữ viết tắt
CSGT
CTTP
BLHS
BLTTHS
HĐTPTANDTC
NLTNHS
PLHS
QĐHP
QPPL
TAND
TANDTC
TNHS
THTT


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu bảng
Bảng 1

Bảng 2



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng, đất nước ta đã
có những bước phát triển vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong tất cả các
lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa, ngoại giao, an ninh - quốc phịng. Vị thế
và uy tín quốc tế của Việt Nam đang ngày càng được nâng cao, kinh tế tăng trưởng
nhanh chóng, an ninh - chính trị ổn định. Việt Nam đang nhanh chóng hội nhập kinh
tế thế giới, vững bước trên con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, tạo cơ sở vững chắc thực hiện thắng lợi cơng cuộc cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, cùng với thời cơ và thuận lợi, vẫn còn đó những
khó khăn, thách thức. Đó là mặt trái của cơ chế thị trường và tồn cầu hóa làm nảy
sinh các vấn đề xã hội tạo điều kiện gia tăng các loại tội phạm, trong đó có tội
chống người thi hành cơng vụ.
Thời gian qua, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật về chống người thi
hành công vụ diễn ra hết sức phức tạp, trên địa bàn nhiều địa phương, trong hoạt
động công vụ của nhiều ngành, nhất là các ngành bảo vệ pháp luật, y tế, báo
chí...với nhiều tính chất, mức độ, sử dụng nhiều loại cơng cụ phương tiện khác
nhau. Hành vi chống người thi hành công vụ diễn biến theo hướng manh động, coi
thường pháp luật; một số vụ có sự kích động của số đối tượng phản động, cơ hội
chính trị lợi dụng nhằm gây mất ổn định xã hội, chống chính quyền và các cơ quan
thực thi pháp luật, xâm hại trực tiếp sức khỏe và sinh mạng của người thi hành công
vụ, hủy hoại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân, ảnh hưởng đến tính nghiêm minh
của pháp luật và sự điều hành, quản lý của Nhà nước.
Hà Nội là thủ đơ, trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế hàng đầu của nước ta, với
dân số thực tế khoảng 10 triệu người, mật độ dân số, mật độ giao thông cao, GDP đầu
người đứng trong tốp đầu cả nước. Bên cạnh sự phát triển kinh tế, kéo theo một số tiêu
cực, tạo điều kiện thuận lợi cho các loại tội phạm có chiều hướng gia tăng, gây mất ổn
định xã hội, cản trở sự phát triển của đất nước, trong đó có tội chống người thi hành

cơng vụ đang diễn ra với quy mơ rộng trên tồn quốc, trong đó có địa bàn Hà Nội.


Những năm gần đây, diễn biến của2loại tội phạm này trên địa bàn Hà Nội hết
sức phức tạp với tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm, gây mất trật tự an tồn xã
hội, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước, trực tiếp xâm
hại đến tính mạng, sức khỏe của nhân viên cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tạo
nhiều dư luận trái chiều, là nguyên nhân, điều kiện cho các hành vi kích động,
chống phá của các đối tượng xấu, các thế lực thù địch, phản động. Pháp luật hình sự
hiện hành quy định về xử lý đối với tội phạm này đã khá chặt chẽ, tuy nhiên vẫn còn
tồn tại một số bất cập, hạn chế như hình phạt cịn nhẹ chưa đủ sức răn đe, quy định
về xử lý còn bỏ lọt tội phạm, văn bản hướng dẫn khơng cịn phù hợp… Bên cạnh
đó, mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự của thành phố Hà Nội, nhất là tồn
án nhân dân đã nêu cao vai trị, trách nhiệm của mình trong việc điều tra, truy tố, xét
xử tội chống người thi hành công vụ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, nhưng do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan, việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội này vẫn
cịn những hạn chế, thiếu sót nhất định, cần khắc phục.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu những vấn đề
lý luận, quy định của pháp luật thực định về tội này và thực tiễn áp dụng tại địa bàn Hà
Nội nhằm làm phong phú thêm những vấn đề lý luận, làm rơ những khó khăn, vướng
mắc trong thực tế áp dụng, những thiếu sót trong ban hành văn bản pháp luật, qua đó
kiến nghị những giải pháp đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa
đổi bổ sung năm 2017) về tội phạm này là một đòi hỏi cấp bách. Do đó, tác giả chọn đề
tài: “tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn thành phố Hà Nội” để nghiên cứu
làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội chống người thi hành công vụ được quy định tại Điều 330, chương XXII: Các
tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015

(sửa đổi bổ sung năm 2017). Đã có khá nhiều các cơng trình, bài viết nghiên cứu về tội
phạm này như: Luật văn Thạc sỹ: “Tội chống người thi hành công vụ, thực trạng,
nguyên nhân và giải pháp” của tác giả Hoàng Yến - Đại học Hà Nội năm 1996; Luận
văn Thạc sĩ: “Dấu hiệu chống người thi hành cơng vụ trong Luật hình sự


Việt Nam” của tác giả Nguyễn Anh Thu -3Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
năm 2012; Luận văn Thạc sĩ: “Tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh - Tình hình, ngun nhân và giải pháp phịng ngừa” của
tác giả Trương Cơng Thành, Học viện Khoa học xã hội năm 2014; Luận văn Thạc
sĩ: “Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Bùi Sơn Hà, Học viện Khoa học xã hội năm
2017; Luận văn Thạc sĩ: “Tội chống người thi hành cơng vụ trong Luật hình sự Việt
Nam và đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này” của tác giả Vũ Văn Kiệm, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2006...Như vậy, mặc dù có nhiều cơng trình
khoa học đề cập đến tội chống người thi hành công vụ ở các cấp độ khác nhau. Song
mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của các cơng trình đó cho thấy, chưa một
cơng trình nào nghiên cứu về tội này trên địa bàn Hà Nội trong 5 năm trở lại đây,
nhất là thời gian này, địa bàn Hà Nội xảy ra nhiều vụ việc nghiêm trọng do hành vi
chống người thi hành công vụ gây ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu quy định của pháp
luật hình sự về tội chống người thi hành cơng vụ từ thực tiễn thành phố Hà Nội, trên
cơ sở đó, đánh giá và đề xuất một số giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định
của pháp luật hình sự, hoàn thiện các quy định pháp luật về tội chống người thi hành
công vụ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ nghiên
cứu sau:

Thứ nhất, phân tích, luận giải làm rơ những vấn đề lý luận về tội chống người
thi hành công vụ, phân biệt tội phạm này với tội phạm khác có liên quan;
Thứ hai, bình luận, đánh giá các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
tội chống người thi hành công vụ, chỉ ra những bất cập, những khó khăn, vướng
mắc trong thực tiễn định tội danh và áp dụng hình phạt đối với tội này;


Thứ ba, khảo sát, đánh giá thực tiễn 4áp dụng các quy định của pháp luật hình
sự về tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn thành phố Hà Nội, chỉ ra những
kết quả đạt được, những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân;
Thứ tư, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, đảm bảo áp dụng đúng
các quy định của BLHS năm 2015 về tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn
thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm: Các quy định của pháp luật
hình sự về tội chống người thi hành công vụ và thực tiễn định tội danh, áp dụng
hình phạt đối với tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu trong phạm vi lý luận

chuyên ngành Luật hình sự về: “Tội chống người thi hành cơng vụ” theo luật hình
sự Việt Nam; thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội chống
người thi hành công vụ tại thành phố Hà Nội.
- Về không gian nghiên cứu: luận văn nghiên cứu tội chống người thi hành

công vụ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Về thời gian nghiên cứu: luận văn nghiên cứu tội chống người thi hành công

vụ trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2015 – 2019.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận: Luận văn thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống quan điểm của Đảng và
Nhà nước về áp dụng pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng đồng bộ, kết hợp các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh: được sử dụng chủ yếu trong

Chương 1 của luận văn nhằm khái quát các vấn đề lý luận về tội chống người thi
hành cơng vụ. Làm rơ, phân tích và đưa ra những khái niệm liên quan.


- Phương pháp lịch sử: cũng được5sử dụng chủ yếu trong Chương 1 để tổng

hợp, so sánh các quy định về tội chống người thi hành công vụ trong các BLHS
năm 1985, 1999, 2015.
- Phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu điển hình: được sử dụng

chủ yếu trong Chương 2 của luận văn với mục đích thống kê số liệu xét xử, các vụ
án chống người thi hành công vụ điển hình trên địa bàn thành phố Hà Nội để minh
họa, từ đó đánh giá được thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp quy nạp: được sử dụng tại Chương 3 của luận văn nhằm luận

giải, đề xuất những giải pháp mang tính khả thi trong hồn thiện pháp luật, đảm bảo
áp dụng đúng các quy định của BLHS năm 2015 về tội chống người thi hành công
vụ trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rơ và phong phú thêm những vấn đề


lý luận chuyên ngành (luật hình sự) về một tội phạm cụ thể.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu luận văn có thể tham khảo trong thực

tiễn ban hành văn bản và áp dụng các quy định của BLHS năm 2015 về tội phạm
này đảm bảo đúng pháp luật. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập,
nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành luật hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu 3 chương
như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về tội chống
người thi hành công vụ.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội
chống người thi hành công vụ tại thành phố Hà Nội
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định
hình phạt đúng đối với tội chống người thi hành công vụ tại thành phố Hà Nội.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
1.1. Những vấn đề lý luận về tội chống người thi hành công vụ
1.1.1. Khái niệm tội chống người thi hành công vụ.
Công vụ là thuật ngữ được xem xét đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau. Do đó,
cơng vụ được hiểu theo các phạm vi rộng hẹp khác nhau. Theo cách hiểu chung nhất,
công vụ là các việc công. Các việc này được thực hiện vì lợi ích chung, lợi ích cộng
đồng, lợi ích xã hội, lợi ích của nhà nước. Trong khi đó, ở một phạm vi hẹp hơn, công
vụ chỉ giới hạn trong các hoạt động của nhà nước. Đây cũng chính là cách quan niệm
về cơng vụ của nhiều nước trên thế giới. Theo cách hiểu này, công vụ gắn liền với con
người làm việc cho Nhà nước và những công việc của Nhà nước do những con người
đó thực hiện. Chính vì vậy, ở nhiều nước hai khái niệm công vụ và công chức luôn gắn

liền chặt chẽ với nhau. Hẹp hơn nữa, một số nước coi công vụ chỉ giới hạn trong phạm
vi hoạt động của các cơ quan hành pháp mà khơng tính đến các hoạt động lập pháp và
tư pháp (xét xử và công tố) trong bộ máy nhà nước.

Theo Bách khoa tồn thư mở - Wikipedia thì cơng vụ là một hoạt động do cán
bộ, công chức nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật và được
pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội. Đây là khái niệm
giới hạn về phạm vi chủ thể của công vụ nhưng lại mở rộng về phạm vi trong lĩnh
vực công vụ là “thực hiện theo quy định của pháp luật”.
Công vụ theo từ điển Oxford, được hiểu là toàn bộ các cơ quan của Chính phủ
khơng kể lực lượng qn đội hoặc cơng vụ sử dụng để chỉ một nhóm người làm việc
trong các cơ quan nhà nước (dân sự).
Nghị quyết số 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 của Hội Đồng Thẩm
phán TAND tối cao quy định: “Công vụ là một công việc mà cơ quan Nhà nước
hoặc tổ chức xã hội giao cho một người thực hiện” (Mục 1, Chương 2). Quy định
này được hiểu theo nghĩa rộng, khơng có việc giới hạn phạm vi trong lĩnh vực công
vụ và không giới hạn về phạm vi chủ thể của công vụ.


Từ điển Pratique du Francais năm 71987 cho rằng “công vụ là công việc của
công chức” nhằm nhấn mạnh chủ thể của hoạt động công vụ, nhưng chưa đề cập
đến chức năng, nhiệm vụ và đặc thù của hoạt động công vụ.
Luật Công vụ của Liên bang Nga coi công vụ “là hoạt động có tính chun
nghiệp nhằm đảm bảo thực thi thẩm quyền của các cơ quan nhà nước.”[5]. Khái
niệm này nhấn mạnh tính chuyên nghiệp của hoạt động cơng vụ.
Giáo trình Cơng vụ, cơng chức do Nxb. Giáo dục, Hà Nội xuất bản năm 1997
cho rằng, “Công vụ là một loại lao động mang tính quyền lực và pháp lý được thực
thi bởi đội ngũ công chức nhằm thực hiện các chính sách của nhà nước trong q
trình quản lý toàn diện các mặt của đời sống xã hội”, nhấn mạnh tính chất của hoạt
động cơng vụ là “tính quyền lực”, “tính pháp lý” và đặc tính của hoạt động công vụ

“là một loại lao động”.
Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định, “hoạt động công vụ của cán bộ,
công chức là thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định
của Luật này và các quy định khác có liên quan” (Điều 2). Quy định này đã chỉ ra
những đặc điểm quan trọng của công vụ và giới hạn phạm vi chủ thể của hoạt động
công vụ. Công vụ là hoạt động được tiến hành trên cơ sở pháp luật để thực hiện
cơng việc do Nhà nước giao. Do đó, tính tn theo pháp luật là đặc điểm quan trọng
nhất của “công vụ”. Định nghĩa này cũng giới hạn phạm vi đối tượng là cán bộ,
công chức.
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ban hành năm 2017 không quy
định trực tiếp về cơng vụ nhưng lại có nội dung xác định người thi hành công vụ,
như sau: “Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng
hoặc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ, cơng chức và pháp luật có
liên quan vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý
hành chính, tố tụng hoặc thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành
chính, tố tụng hoặc thi hành án” (Khoản 2, Điều 3). Quy định này đã giới hạn phạm
vi lĩnh vực của công vụ là trong quản lý hành chính, tố tụng và trong thi hành án.


Căn cứ vào các cách tiếp cận khác 8nhau về cơng vụ, “cơng vụ” có thể được
hiểu “cơng vụ là một loại hoạt động mang tính quyền lực - pháp lý được thực

thi bởi đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước hoặc những người khác khi được
nhà nước trao quyền nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
trong q trình quản lý tồn diện các mặt hoạt động của đời sống xã hội.
Công vụ là phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân, gắn với quyền lực nhà
nước”. Tuy nhiên trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, do đặc thù về thể chế chính trị
nên cơng vụ cịn bao gồm cả hoạt động thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của cán bộ,
công chức làm việc trong các cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội.

Có thể thấy đặc điểm của cơng vụ là tính đúng pháp luật và được giới hạn trong
phạm vi nhất định bao gồm giới hạn về phạm vi chủ thể của công vụ và giới hạn về
phạm vi lĩnh vực của cơng vụ. Theo đó, cơng vụ phải là hoạt động quản lý nhà nước và
phải thực hiện theo đúng pháp luật, tức là những hoạt động được thực hiện dựa trên quy
định của pháp luật bao gồm pháp luật nội dung và pháp luật hình thức. Phạm
vi lĩnh vực của hoạt động công vụ được giới hạn trong ba lĩnh vực quản lý hành chính,

tố tụng và thi hành án. Chủ thể của công vụ là người thuộc các cơ quan Nhà nước hoặc
được cơ quan Nhà nước giao quyền thực hiện những nhiệm vụ cụ thể. Với cách hiểu
như vừa nêu ở trên về công vụ thì đặc điểm quan trọng nhất của cơng vụ là

tính đúng pháp luật. Muốn được coi là cơng vụ thì hoạt động phải đúng pháp luật,
đúng quy trình, thủ tục theo quy định của pháp luật và người thực hiện được giao
thẩm quyền theo đúng pháp luật. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật được coi là một
trong các nguyên tắc của hoạt động công vụ. Hoạt động không đúng pháp luật là
hoạt động “làm trái công vụ”. Trong trường hợp người thi hành cơng vụ có hoạt
động làm trái cơng vụ thì hành vi khơng được xem là hành vi thực hiện công vụ và
dẫn đến thực hiện cũng không được coi là người thi hành công vụ. Việc xác định
chính xác thế nào là hoạt động “cơng vụ” có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
dấu hiệu “người thi hành công vụ”
- Về khái niệm “người thi hành cơng vụ”, cũng có nhiều giải thích khác nhau.


+ Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 919/11/1986 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1985 nêu rơ: “Người
thi hành công vụ là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước hoặc tổ
chức xã hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và cũng có thể là những công
dân được huy động làm nhiệm vụ (như: Tuần tra, canh gác, bảo vệ...) theo kế hoạch
của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của nhà nước và xã hội.” Từ quy
định trên, người thi hành công vụ là những người có chức vụ và quyền hạn trong

các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội mà các cơ quan này thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình hoặc những cơng dân được huy động làm nhiệm vụ theo kế
hoạch của các cơ quan có thẩm quyền.
+ Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước năm 2017 quy định: “Người thi

hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một
vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng, thi
hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện
nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án
(Khoản 2, Điều 3). Theo đó, người thi hành cơng vụ là người được bầu cử, phê
chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước, hoặc
người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ hoặc nhiệm
vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án.
+ Nghị định 208/2013/NĐ-CP ngày 17/12/2013 của Chính phủ quy định về
các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý những hành vi chống người thi hành
công vụ xác định người thi hành công vụ “...là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ
quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân được cơ quan, tổ chức hoặc
cá nhân có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp
luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của Nhà nước, nhân dân và xã
hội” (Khoản 1, Điều 3). Quy định này quy định cụ thể hơn về người thi hành công
vụ và quy định rơ: người thi hành công vụ được pháp luật bảo vệ.
Những khái niệm trên đã làm rơ về chủ thể và phạm vi thực hiện nhiệm vụ của
người thi hành công vụ: (1) Về chủ thể: Người thi hành công vụ phải là cán


bộ, công chức, viên chức của cơ quan 10 nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội hoặc cũng có thể
là một cơng dân bất kỳ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền huy động, yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ. (2) Về phạm vi thực hiện nhiệm vụ: Chỉ có thể coi là thi hành
công vụ khi công việc mà họ làm là thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của các cơ

quan nhà nước, các tổ chức nhằm phục vụ lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội.
Người đang thi hành công vụ phải là người thi hành một cơng vụ hợp pháp, mọi thủ
tục, trình tự thi hành phải bảo đảm đúng pháp luật.
Tuy nhiên, để làm rơ khái niệm, cần phải xét cả ở khía cạnh thời gian thực
hiện nhiệm vụ vì hoạt động cơng vụ, cũng như mọi hoạt động khác, chỉ diễn ra
trong thời gian nhất định. Như vậy, theo ý kiến cá nhân, khái niệm về người thi
hành công vụ như sau: “Người thi hành cơng vụ là người có chức vụ, quyền hạn
trong cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình và cũng có thể là những công dân được huy động làm nhiệm vụ (như: Tuần
tra, canh gác, bảo vệ...) theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền từ khi bắt đầu
thực hiện nhiệm vụ và chưa kết thúc nhiệm vụ đó, phục vụ lợi ích chung của nhà
nước và xã hội.”
Từ những khái niệm trên có thể rút ra một số đặc điểm của người thi hành
công vụ như sau:
- Thứ nhất: Người thi hành công vụ là người được giao nhiệm vụ để thực hiện

công vụ nhất định, tư cách pháp lý là điều kiện để cá nhân trở thành người thi hành
công vụ và quyền hạn là cơ sở, điều kiện để thực hiện cơng vụ nhất
định. Trong đó, quyền hạn được hiểu là quyền lực pháp lý của Nhà nước trong một
phạm vi nhất định được trao cho các tổ chức, cá nhân để thực thi cơng vụ. Nói cách
khác, đó là quyền đã được xác định về nội dung, mức độ và phải gắn liền với công
việc được giao. Quyền hạn này có thể phát sinh từ vị trí cơng tác thường xun của
người thi hành cơng vụ và trên cơ sở phù hợp với công vụ cụ thể được giao thực
hiện. Nếu công vụ được giao cho người thi hành công vụ mà không kèm theo các
quyền hạn thì sẽ có một số cơng vụ khơng được thực hiện


và ngược lại khi có nhiều quyền hạn11 mà quá ít cơng vụ phải thực hiện thì có thể
xảy ra những trường hợp lạm quyền.
- Thứ hai: Người thi hành công vụ phải đang thực hiện một nhiệm vụ cụ


thể, nhất định. Một người được xác định là người thi hành cơng vụ khơng chỉ vì
người đó có thẩm quyền trong việc thực hiện cơng vụ mà cịn phải đang làm nhiệm
vụ được giao. Nội dung này chỉ khẳng định một người có thể là người thi hành
cơng vụ vì họ có vị trí cơng tác, có thẩm quyền tiến hành công vụ. Như vậy, người
thi hành công vụ luôn gắn liền với công vụ cụ thể, việc đặt ra yêu cầu cần xác định
sự tồn tại của một công vụ thực tế và cơng vụ đó đang thực hiện một cách đúng
pháp luật bởi một chủ thể theo đúng thẩm quyền được giao.
- Thứ ba: Việc thực hiện công vụ của cá nhân phải theo đúng quy định của

pháp luật. Đặc điểm này xuất phát từ bản chất của công vụ. Người thi hành công vụ
theo đúng nghĩa phải là người thực hiện hoạt động đúng pháp luật cả về nội dung,
hình thức và thẩm quyền.
- Về chống người thi hành công vụ: Hành vi chống người thi hành cơng vụ

là hành vi xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, làm
giảm hiệu lực quản lý của các cơ quan, tổ chức đó và có thể xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của chính những người thi hành công
vụ.
+ Qua nghiên cứu những quy định tại Điều 330 BLHS năm 2015, ta có thể

đưa ra khái niệm về chống người thi hành công là “hành vi dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện
công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật” (K1, Đ330)
Nhìn chung, quy định về tội chống người thi hành công vụ của BLHS năm
2015 không có thay đổi so với BLHS năm 1999. Điều 330 BLHS năm 2015 chỉ cụ
thể hóa tình tiết định khung tăng nặng hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2
Điều 257 BLHS năm 1999. Theo đó, “gây hậu quả nghiêm trọng” được cụ thể hóa
là “gây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng trở lên”.
+ Để làm rơ hơn về hành vi chống người thi hành công vụ, tại Khoản 2, Điều

3 Nghị định số 208/2013/NĐ-CP của Chính phủ giải thích như sau:


Hành vi chống người thi hành12 công vụ là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực hoặc không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu của người thi hành cơng vụ hoặc
có hành vi khắc nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ được giao
hoặc ép buộc người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ được giao.
Người đang thi hành công vụ là người đã bắt đầu thực hiện nhiệm vụ và chưa
kết thúc, nếu chưa bắt đầu hoặc đã kết thúc nhiệm vụ mà bị xâm phạm thì khơng
thuộc trường hợp chống người thi hành công vụ, mà tùy trường hợp cụ thể để xác
định một tội phạm khác có tình tiết vì lý do cơng vụ của nạn nhân.
Trên thực tế có rất nhiều đối tượng khi bị lực lượng thi hành cơng vụ xử lý vì
những sai phạm sẽ khơng có những hành động hoặc thái độ phản kháng ngay lúc
ấy, mà lại có những hành vi xâm hại đến người công vụ, sau giờ làm việc của họ,
hoặc là khi họ trở về với cuộc sống thường ngày. Những hành vi đó cần phải xử lý
nghiêm minh, bởi suy cho cùng đó là sự gián tiếp thể hiện thái độ phản kháng, tư
thù đối với người thi hành công vụ. Nếu người thi hành công vụ làm trái pháp luật
mà bị cản trở, xâm phạm thì người cản trở, xâm phạm không phải chịu tội chống
người thi hành công vụ.
Từ những nội dung được phân tích nêu trên, có thể định nghĩa tội chống người
thi hành công vụ như sau:
Tội chống người thi hành công vụ là hành vi cố ý cản trở, gây khó khăn cho
người thi hành cơng vụ trong khi người đó đang thực hiện nhiệm vụ thuộc lĩnh vực
quản lý nhà nước về hành chính, tố tụng và thi hành án.
* Từ những phân tích trên, có thể thấy tội chống người thi hành cơng vụ có

một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, tội chống người thi hành công vụ xâm phạm hoạt động quản lý nhà
nước trong lĩnh vực hành chính, tố tụng và thi hành án, xâm phạm hoạt động bình
thường của cơ quan Nhà nước, làm giảm hiệu quả quản lý của các cơ quan này.

Quan hệ xã hội bị tội chống người thi hành công vụ xâm hại là quan hệ liên quan
trực tiếp đến các hoạt động “công vụ”, là hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý hành
chính, tố tụng và thi hành án. tội chống người thi hành công vụ xâm hại đến các


quan hệ xã hội trên thông qua việc tác 13 động trực tiếp đến người đang thi hành
công vụ.
Thứ hai, chủ thể của tội chống người thi hành công vụ phải đủ điều kiện về
NLTNHS (đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của luật và khơng thuộc trường hợp
trong tình trạng mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển do mắc bệnh).
Thứ ba, hành vi phạm tội của tội này là hành vi cố ý có khả năng cản trở, gây
khó khăn cho người thi hành cơng vụ trong khi người đó đang thực hiện cơng vụ
của họ. Trong đó, “cản trở người thi hành cơng vụ” có thể hiểu là: Làm họ không
thực hiện được công vụ hoặc làm họ thực hiện hành vi trái với công vụ. Việc cản
trở này có thể được thực hiện bằng các thủ đoạn như dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ
lực hoặc thủ đoạn khác có khả năng cản trở, gây khó khăn cho người thi hành cơng
vụ. Trong đó: Dùng vũ lực được hiểu là có sự tác động vào cơ thể của người thi
hành cơng vụ (có hoặc không sử dụng công cụ, phương tiện) như đấm, đá, trói hoặc
đánh bằng gậy, chém bằng dao...; đe dọa dùng vũ lực được hiểu là sự tác động bằng
cử chỉ, lời nói có tính răng đe, uy hiếp tinh thần để làm cho người thi hành công vụ
lo sợ vũ lực sẽ xảy ra...; hoặc thủ đoạn khác được hiểu là các thủ đoạn tuy không
phải là dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực nhưng vẫn có thể uy hiếp được tinh
thần người thi hành công vụ như đe dọa sẽ công bố những tin tức, tài liệu bất lợi
cho người thi hành công vụ hoặc cho người thân thích của họ, đe dọa hủy hoại tài
sản, cởi bỏ quần áo trước người đang thi hành công vụ; tự gây thương tích hoặc giả
gây thương tích để vu khống bị người thi hành công vụ hành hung...Người phạm tội
chống người thi hành công vụ mặc dù hiểu và nhận thức được hành vi cản trở việc
thực hiện công vụ của người thi hành cơng vụ của mình là trái pháp luật nhưng vẫn
thực hiện và tìm mọi cách để người đang thi hành cơng vụ khơng thể hồn thành
công vụ mà họ được giao.

Từ các đặc điểm chung trên đây, nhà làm luật có thể xây dựng cấu thành tội
của tội chống người thi hành công vụ theo các mơ hình khác nhau với thời điểm
hồn thành của tội phạm khác nhau. Trong đó, có thể xây dựng hành vi là thủ đoạn
dùng vũ lực, thủ đoạn đe dọa dùng vũ lực và thủ đoạn khác và dấu hiệu


mục đích phạm tội là “Cản trở người14 thi hành công vụ thực hiện công vụ”
(không thực hiện được công vụ hoặc thực hiện hành vi trái công vụ).
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành cơng vụ. BLHS
năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 quy định về tội chống
người thi hành công vụ cụ thể như sau:
Điều 330. Tội chống người thi hành công vụ
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản

trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện
hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù
từ 06 tháng đến 03 năm...”. Từ quy đinh trên, có thể thấy dấu hiệu pháp lý của tội
chống người thi hành công vụ là:
1.1.2.1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được LHS bảo vệ và bị
các hành vi phạm tội xâm hại. Tội chống người thi hành công vụ xâm phạm đến
việc thực hiện nhiệm vụ của những người đang thi hành cơng vụ và từ đó xâm
phạm đến hoạt động của Nhà nước về quản lý hành chính khi thi hành nhiệm vụ
công.
Đối tượng tác động của tội phạm này là người thi hành công vụ, thông qua
việc xâm phạm đến người thi hành công vụ mà xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm
vụ công. Trong thực tế, những người làm việc tại các cơ quan, đơn vị như: Cơng an,
kiểm sát, Tịa án, đơn vị tự vệ, kiểm lâm.... là những người có nguy cơ bị thực hiện
hành vi chống người thi hành công vụ nhiều hơn.

Người đang thi hành công vụ phải là người thi hành một cơng vụ hợp pháp,
mọi thủ tục, trình tự thi hành phải bảo đảm đúng pháp luật. Nếu người thi hành công
vụ lại là người làm trái pháp luật mà bị xâm phạm thì hành vi của người có hành vi
xâm phạm không phải là hành vi chống người thi hành công vụ.
1.1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Đối với tội chống người thi hành cơng vụ thì mặt khách quan của tội phạm là
những gì được thể hiện ra bên ngoài của tội phạm, bao gồm: Hành vi nguy hiểm
cho xã hội, hành vi nguyên hiểm phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và


hậu quả cũng như các biểu hiện bên15 ngoài khác (công cụ, phương tiện, địa điểm,
thời gian, ...). Dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm được mô tả trong cấu
thành là dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội. Do đó, tội phạm này hồn thành từ
thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ. Theo
Điều 330 BLHS năm 2015, hành vi tội chống người thi hành công vụ được mô tả là
các dạng hành vi khách quan sau đây:
+ Thứ nhất, hành vi sử dụng vũ lực, vũ khí đe dọa, cản trở người thi hành

công vụ thực hiện nhiệm vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật
mà họ không mong muốn.
Dùng vũ lực là hành vi dùng sức mạnh của người thực hiện hành vi tấn công,
hành hung, cản trở người thi hành công vụ thực hiện một công việc được cho là
công vụ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái với quy định pháp luật. Hành vi
dùng vũ lực là hành vi (hành động) mà người phạm tội đã thực hiện và trực tiếp tác
động vào cơ thể của người thi hành công vụ như bằng tay, chân để đấm, đá, trói
hoặc cũng có thể thơng qua cơng cụ, phương tiện để thực hiện hành
vi phạm tội như dùng dao, dùng gậy...

Hành vi dùng vũ lực đối với người thi hành cơng vụ có thể làm cho người thi
hành cơng vụ bị thương, bị tổn hại đến sức khỏe, nhưng khơng địi hỏi phải gây ra

thương tích đáng kể (có tỷ lệ tổn thương cơ thể). Nếu hành vi dùng vũ lực đã gây ra
làm cho người thi hành công vụ chết, thì tùy trường hợp cụ thể, hành vi này cấu
thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo
Điều 134 BLHS năm 2015 hoặc tội giết người theo Điều 123 BLHS năm 2015 có
tình tiết định khung hình phạt năng nặng “đối với người đang thi hành cơng vụ
hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân”. Như vậy, người có hành vi dùng vũ lực đối
với người thi hành cơng vụ có thể bị truy cứu TNHS về các tội danh khác nhau tùy
thuộc vào hậu quả mà hành vi này gây ra cho người thi hành công vụ.
+ Thứ hai, hành vi đe dọa dùng vũ lực, vũ khí cản trở người thi hành cơng vụ

thực hiện cơng vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật mà họ
không mong muốn.


Đe dọa dùng vũ lực là hành vi uy 16 hiếp, làm tổn thương tinh thần người thi
hành công vụ, làm cho họ lo sợ, không dám thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nhiệm vụ được giao. Hành vi đe dọa dùng vũ lực chống lại người thi hành công vụ
là việc dùng cử chỉ, lời nói có tính răng đe, uy hiếp tinh thần nhằm mục đích làm
cho người thi hành công vụ sợ hãi phải chấm dứt việc thi hành công vụ... Sự đe dọa
phải xảy ra trên thực tế và có cơ sở để người bị đe dọa tin rằng lời đe dọa đó sẽ
được thực hiện nếu người thi hành công vụ tiếp tục thực hiện cơng vụ của mình
hoặc khơng thực hiện các hành vi trái pháp luật theo yêu cầu của người phạm tội.
+ Thứ ba, hành vi dùng thủ đoạn để cản trở, ngăn cản người thi hành công vụ

thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật mà họ
không mong muốn.
Trên thực tế, các dạng hành vi chống người thi hành công vụ hết sức phức tạp
với nhiều thủ đoạn khác nhau. Do đó, trong giới hạn phạm vi một điều luật không
thể liệt kê được đầy đủ tất cả các hành vi. Hành vi dùng thủ đoạn khác để
cản trở người thi hành cơng vụ có thể là hành vi đe dọa sẽ công bố những tin tức,

tài liệu bất lợi cho người thi hành cơng vụ hoặc cho người thân thích của họ, đe dọa
gây thương tích cho người thân thích, hủy hoại tài sản; vu cáo bị người thi hành
công vụ đánh đập, cởi bỏ quần áo trước người đang thi hành cơng vụ; tự gây
thương tích hoặc giả gây thương tích để vu khống bị người thi hành cơng vụ hành
hung...
1.1.2.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Chủ quan của tội phạm là bao gồm: Về lỗi của thực hiện hành vi, mục đích và
động cơ phạm tội của họ. Lỗi được phản ánh trong các cấu thành tội phạm. Như
vậy, xác định đúng mặc chủ quan của tội phạm có ý nghĩa quyết định trong việc xác
định TNHS của một người. Mục đích và động cơ tuy là dấu hiệu của mặt chủ quan
nhưng không phải là dấu hiệu luôn có ý nghĩa quyết định đối với tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
Như vậy, về mặt chủ quan, tội chống người thi hành công vụ đòi hỏi hai dấu
hiệu là lỗi cố ý trực tiếp và mục đích cản trở việc thi hành cơng vụ.


Về lỗi của người phạm tội chống 17 người thi hành công vụ: Trong mặt chủ
quan của tội phạm, lỗi có yếu tố quan trọng nhất trong việc xác định tội phạm và
TNHS. Người phạm tội nhận thức được đầy đủ hành vi khơng đúng pháp luật của
mình là chống hoặc cản trở việc thực hiện công vụ của chống người thi hành công
vụ và mong muốn thực hiện hành vi phạm tội này nhằm làm cho người đang thi
hành cơng vụ khơng thể hồn thành cơng vụ được giao. Khi người phạm tội khơng
biết hoặc có nghi ngờ về tính hợp pháp của người đang thi hành cơng vụ thì tùy
theo hậu quả để lại đối với từng trường hợp cụ thể mà xác định người đó có sai hay
không. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều trường hợp người phạm tội nhận thức rơ ràng
là người mà họ trực tiếp tác động là người thi hành công vụ nhưng vẫn cố tình thể
hiện là mình khơng biết để nhằm thực hiện hành vi trái pháp luật của mình.
Về mục đích phạm tội: Mục đích của người thực hiện hành vi chống người thi
hành công vụ là nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ hoặc khiến
họ thực hiện một hành vi trái pháp luật nào đó. Chính vì vậy, người phạm tội hướng

hành vi phạm tội của mình vào chống người thi hành cơng vụ. Mục đích cụ thể có
thể là để khơng phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản khi bị cưỡng chế, giải thoát kẻ
phạm tội đang bị dẫn giải, tạm giữ; hoặc để chính sách, quyết định nào đó của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền khơng được thực hiện.
Trong trường hợp, người thực hiện hành vi chống lại người đang thi hành cơng
vụ có mục đích khác thì họ có thể không bị truy cứu TNHS về tội chống người thi
hành công vụ mà bị truy cứu TNHS về tội khác. Ví dụ: Trường hợp người thực hiện
hành vi chống lại nhân viên nhà nước, cán bộ chính quyền đang thi hành cơng vụ
nhưng nhằm mục đích chống lại chính quyền nhân dân thì có thể bị truy cứu TNHS
về Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113 BLHS năm 2015)
hoặc Tội phá rối an ninh Điều 118 BLHS năm 2015). Như vậy đối với tội chống
người thi hành cơng vụ, dấu hiệu mục đích thuộc mặt chủ quan của tội phạm là dấu
hiệu bắt buộc để phân biệt tội này với một số tội khác.
1.1.2.4. Chủ thể của tội phạm


Chủ thể của tội phạm là một con 18 người cụ thể có đủ NLTNHS và đạt độ
tuổi theo luật định đã thực hiện hành vi phạm tội. Về tuổi chịu TNHS: LHS của các
nước đều quy định tuổi chịu TNHS, nhưng không phải nước nào cũng quy định
giống nhau, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước. Ở Việt Nam, căn cứ vào
thực tiễn đấu tranh, phòng chống tội phạm trong nước và trên cơ sở tham khảo kinh
nghiệm của các nước khác, Nhà nước ta đã xác định tại Điều 12 BLHS năm 2015,
tuổi chịu TNHS. Đối chiếu quy định này với quy định tại Điều 330 BLHS năm
2015 có thể xác định chủ thể của tội chống người thi hành công vụ phải là người từ
đủ 16 tuổi trở lên.
Theo BLHS năm 1999, tuổi chịu TNHS được quy định có điểm khác so với
quy định của BLHS năm 2015. Tuy nhiên, theo cả hai BLHS, tuổi chịu TNHS đối
với hành vi chống người thi hành công vụ đều phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Về NLTNHS thể hiện ở năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi
theo các đòi hỏi của xã hội. BLHS năm 2015 không quy định trực tiếp thế nào là

người có NLTNHS mà chỉ quy định thông qua tuổi chịu TNHS (Điều 12 BLHS
năm 2015) và tình trạng khơng có NLTNHS (Điều 21 BLHS năm 2015). Theo đó,
người có NLTNHS là người đã đạt độ tuổi chịu TNHS và khơng thuộc trường hợp
khơng có NLTNHS.
Điều 21 BLHS năm 2015 quy định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì khơng phải chịu trách nhiệm
hình sự.”
Như vậy, BLHS năm 2015 ghi nhận chủ thể của tội chống người thi hành công
vụ là người đủ 16 tuổi trở lên thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ và
không thuộc trường hợp được quy định tại Điều 21, tức là không bị mắc bệnh tâm
thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của
mình.
Như vậy, bất kỳ ai thỏa mãn điều kiện về năng lực TNHS theo luật định, đều
có thể trở thành chủ thể của tội chống người thi hành công vụ.


1.1.3. Phân biệt tội chống người thi19hành công vụ với một số tội khác.
- Phân biệt tội chống người thi hành cơng vụ với một số tội khác có dấu hiệu
“chống người thi hành công vụ”.
“Chống người thi hành công vụ” không chỉ là dấu hiệu định tội của tội chống
người thi hành cơng vụ mà cịn có thể là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng
của nhiều tội khác và cá biệt cịn có thể là dấu hiệu định tội của tội khác. Do vậy,
cần phải làm rơ để phân biệt giữa tội chống người thi hành công vụ với những tội
này. Tuy nhiên, trong phạm vi của luận văn, tác giả chỉ có thể để cập việc phân biệt
giữa tội chống người thi hành công vụ với một số tội. Việc phân biệt này nhằm mục
đích xác định khi nào thì hành vi chống người thi hành công vụ cấu thành tội chống
người thi hành công vụ và khi nào hành vi này cấu thành tội khác mà trong đó có
dấu hiệu chống người thi hành cơng vụ.
- Phân biệt tội chống người thi hành công vụ với tội giết người có tình tiết

định khung hình phạt tăng nặng “Giết người thi hành cơng vụ hoặc vì lý do công vụ
của nạn nhân”.
Giết người đang thi hành cơng vụ hoặc vì lý do cơng vụ của nạn nhân là trường
hợp phạm tội được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015. Giết người
đang thi hành cơng vụ hoặc vì lý do cơng vụ của nạn nhân là hai trường hợp phạm tội
giết người với hai tình tiết định khung hình phạt tăng nặng khác nhau. Đó là tình tiết
nạn nhân là người đang thi hành cơng vụ và tình tiết “vì lý do cơng vụ của nạn nhân”.
Theo đó, trường hợp giết người mà nạn nhân là người đang thi hành công vụ được hiểu
là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người đang thi hành công vụ để cản trở họ thi
hành cơng vụ; cịn trường hợp giết người vì lý do công vụ của nạn nhân được hiểu là
hành vi cố ý tước đoạt mạng người có trách nhiệm thi hành cơng vụ khi người đó chưa
hoặc đã thi hành công vụ để cản trở hoặc trả thù họ.

Như vậy, trường hợp tội giết người đang thi hành công vụ (giết người mà nạn
nhân là người đang thi hành công vụ, ý thứ nhất điểm d khoản 1 Điều 123 BLHS
năm 2015) có điểm giống với tội chống người đang thi hành công vụ (khoản 1 Điều
330 BLHS năm 2015). Đó là: (1) Đều có đối tượng tác động là người đang thi hành


×