Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tải Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Tập làm văn cho học sinh lớp 5 - Sáng kiến kinh nghiệm bậc Tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.69 KB, 21 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM</b>



<b>"MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN TẬP LÀM VĂN</b>


<b>CHO HỌC SINH LỚP 5"</b>



<b>PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ</b>
<i><b> I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI</b></i>


Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn bản (nói và
viết). Nhờ vậy tiếng Việt không chỉ là hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần, từng
mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ sinh động trong quá trình giao tiếp, tư
duy, học tập. Nói cách khác, phân mơn Tập làm văn đã góp phần thực hiện hóa mục tiêu
quan trọng bậc nhất của việc dạy và học tiếng Việt là dạy học sinh sử dụng tiếng Việt
trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học…


Qua chuyên đề Tập làm văn lớp 5 và qua kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm ở
khối lớp 5, tôi nhận thấy việc việc dạy và học phân mơn này đang gặp nhiều khó khăn,
không chỉ đối với học sinh mà cả đối với giáo viên cũng cảm thấy băn khoăn ái ngại. Do
đó giáo viên cũng gặp nhiều khó khăn trong việc rèn năng lực viết văn cho học sinh,
không chỉ đối với những em học sinh yếu, kém hay trung bình mà kể cả các học sinh giỏi
cũng vậy.


Bồi dưỡng học học sinh giỏi là một công việc rất quan trọng được tiến hành đồng thời
với công tác dạy học sinh đại trà và phụ đạo học sinh yếu. Trong môn Tiếng việt, việc
dạy phân môn Tập làm văn là một việc làm khó, địi hỏi sự bài bản và cẩn thận ở hai phía
giáo viên và học sinh. Trong suốt thời gian dạy lớp bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 5, một
vấn đề có tính nổi cộm đó là việc các em học sinh thường “rất ngán” học môn Tập Làm
Văn. Tại sao vậy?


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

chăng chỉ là một vài câu nhận xét quá cụt ngủn: lạc đề, văn nghèo ý, không biết liên kết
câu, bài viết lan man...từ phía giáo viên mà thơi. Điều đó đã làm cho các em chán nản, lo


sợ, mất tự tin, ngại nói và cuối cùng là đạt kết quả không cao ở phân môn này.


Thế thì nguyên nhân do đâu ? Làm thế nào để khắc phục tình trạng này, giúp các em
lấy lại tự tin học tốt và đạt kết quả cao phân mơn Tập Làm Văn ? Đấy chính là lí do khiến
tôi trăn trở. Lúc này đây các em muốn đòi hỏi ở người thầy cái tâm, cái tài để truyền cho
các em niềm say mê, để động viên bồi dưỡng các em để trở thành học sinh có năng
khiếu, những nhân tài có tâm hồn văn học. Chính vì những lý do trên tơi chọn quyết
định nghiên cứu đề tài: "Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Tập làm văn cho học
sinh lớp 5".


<i><b>II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU</b></i>


Rèn cho học sinh có kĩ năng làm văn, viết văn hay về các thể loại văn trong chương
trình mơn Tập làm văn lớp 5.


<i><b>III. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.</b></i>


<i>2.1. Khách thể nghiên cứu</i>


Đó là vấn đề quản lý hoạt động chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy phân môn
Tập làm văn lớp 5 ở trường Tiểu học Văn Tiến .


<i>2.2. Đối tượng nghiên cứu</i>


Trong đề tài này tôi nhằm nâng cao chất dạy học phân môn Tập làm văn lớp 5 ở các
trường Tiểu học Văn Tiến


<i><b>IV.PHẠM VI NGHIÊN CỨU .</b></i>


- Do điều kiện và thời gian nên phạm vi nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm chỉ gói


gọn ở đối tượng giáo viên và học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Văn Tiến trong năm học
2012 – 2013


<i><b>V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:</b></i>


- Phương pháp đọc tài liệu; tổng hợp hệ thống kiến thức trong chương trình. Học hỏi
từ kinh nghiệm của đồng nghiệp trong giảng dạy tại trường, sinh hoạt cụm, trong các tạp
chí, sách báo có liên quan mà đặc biệt là kinh nghiệm day học của bản thân được thể hiện
trong từng tiết dạy, ngày dạy và từng năm dạy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Thực hành điều tra: Đối tượng học sinh lớp 5 năm học 2012- 2013 Trường Tiểu học
Văn Tiến.


<i><b>IV .ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU</b></i>


Việc áp dụng "Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Tập làm văn cho học sinh
lớp 5"ở trường Tiểu học Văn Tiến. Qua đó giúp giáo viên nâng cao chất lượng dạy học
phân môn Tập làm văn lớp lớp 5 ở Trường Tiểu học


<b>PHẦN II: NỘI DUNG</b>


<i><b>I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN</b></i>


<i> 1. Cơ sở lí luận.</i>


Tập làm văn là một phân mơn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng hợp các kiến
thức, kĩ năng từ Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,... để viết nên một bài
Tập làm văn.


Theo quan điểm tích hợp, các phân mơn được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và


các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt chẽ với nhau.
Như vậy, muốn dạy - học có hiệu quả Tập làm văn lớp 5 nhất thiết người giáo viên phải
dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Vì trong các bài đọc, trong câu
chuyện, trong các bài tập luyện từ - câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội
dung miêu tả rất rõ về cảnh vật, thiên nhiên, con người, đoạn đối thoại, thuyết trình tranh
luận...


Bài Tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng, góp nhặt của
người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như tâm hồn của
các tác giả nhỏ tuổi.


Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ năng nghe, nói,
đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy và trị phải soạn giảng và học tập tích cực, nghiêm
túc, hiệu quả, mới mong nâng cao một cách bền vững chất lượng môn Tiếng Việt ở lớp
cuối cấp Tiểu học.


 Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ
năng của Chương trình giáo dục phổ thơng cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng
của từng môn học (ban hành kèm theo quyết định số 16 của Bộ GD-ĐT) và phù hợp trình
độ của từng học sinh trong lớp mà “Hướng dẫn 896” của Bộ GD-ĐT đã đề ra.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i> a. Thực trạng học sinh:</i>


Năm nay (2012 – 2013), tôi được phân công phụ trách lớp 5A với 33 học sinh. Hầu hết
33 học sinh của lớp 5A tơi chủ nhiệm cịn rất hạn chế khi làm bài Tập làm văn.


Các hạn chế của học sinh là:


- Bài viết của học sinh còn mắc nhiều lỗi chính tả.



- Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài cần miêu tả.


- Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng. Nhiều em
chưa biết dừng lại để nói kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật.


- Vốn từ ngữ của các em cịn nghèo nàn, khn sáo, quan sát sự vật còn hời hợt.
- Các em chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.


Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm văn trở thành
một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên tiểu học. Ý nghĩ cho rằng Tập làm văn
là một phân môn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã là nhận thức chung của
nhiều thầy cô giáo dạy lớp 4, lớp 5.


Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng Tập làm văn của học sinh khơng đạt
u cầu ? Qua q trình giảng dạy lớp 5, tôi nhận thấy học sinh học yếu Tập làm văn là
do nhiều nguyên nhân.


<i> b. Nguyên nhân của thực trạng</i>


Theo tôi có sáu nguyên nhân như sau:


1. Học sinh thường lười đọc sách báo hoặc tìm tịi sưu tầm những tài liệu phục vụ cho
kiến thức có liên quan đến môn học, thiếu sự quan sát tinh tế dẫn đến tình trạng nghèo
vốn từ, nghèo vốn sống để có thể đưa đề văn văn vào triển khai bài viết.


2. Thiếu sự quan tâm, hỗ trợ động viên của phụ huynh.


3. Học sinh hay quan tâm đến những sở thích khơng phục vụ cho mơn học như: đọc
sách, báo, truyện tranh nhảm nhí; chơi điện tử; xem phim ảnh không phù hợp với lứa tuổi
nên vốn văn học rất hạn chế.



4. Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

6. Nguyên nhân cuối cùng là trách nhiệm của người giáo viên. Phân mơn Tập làm văn
là một mơn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay người giáo viên (nhất là
giáo viên lớp 4, lớp 5) chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học
của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lịng u q Tiếng Việt, ham thích học
Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thơng viết
thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ.


c.Về phía giáo viên:


1. Giáo viên cịn lúng túng khi vận dụng phương pháp dạy Tập làm văn:


Lập dàn bài rập khuôn dẫn đến bài làm của học sinh giống nhau về ý tưởng, nội dung.
2. Chưa rèn cho học sinh có thói quen đọc và chọn lọc các bài văn mẫu, văn hay từ
đó rút ra ý hay; tai hại thay một số giáo viên còn cho học sinh học thuộc những bài văn
mẫu điều đó đã làm mất đi sự sáng tạo và óc tưởng tượng phong phú của học sinh.


3. Giáo viên chưa linh động sáng tạo khi tổ chức các giờ dạy trên lớp, hình như tổ
chức dạy học đơn điệu: giáo viên hỏi – học sinh trả lời, chỉ những em khá giỏi nổi trội
hơn mới có thể tham gia trả lời cịn những học sinh khác thì cảm thấy lo sợ nếu bị gọi đến
tên! Từ đó làm cho học sinh cảm thấy nhàm chán, mất hứng thú học tập.


4. Chưa xử lý kịp thời, chính xác các phát sinh dẫn đến tình trạng giáo viên đánh giá
chưa đúng ý kiến của học sinh.


5. Trên đây là một số những tồn tại mà tôi thường thấy ở nhiều GV khi day Tập làm
văn. Thế thì làm thế nào để khắc phục hiện trạng trên? Cá nhân tơi sau nhiều lần thí
nghiệm tại lớp mình và góp ý cùng một số đồng nghiệp ở một số lớp khác đã thấy rất khả


thi.


* Sau đây là một số biện pháp giải quyết.
<i><b>II.CÁC GIẢI PHÁP</b></i>


<i>1. Đối với Giáo viên:</i>


* Người Giáo viên có vai trị rất quan trọng và ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với học sinh
vì họ là những người chủ đạo tổ chức việc học của học sinh, chính vì thế bản thân người
Giáo viên cần phải:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

các em có một nhãn quan biện chứng để học tốt khơng chỉ phân mơn tập làm văn mà cịn
cả các mơn học khác thậm chí cả cách làm việc và suy nghĩ.


3. Luôn học hỏi đồng nghiệp và tự học để nâng cáo trình độ bản thân và nâng cao
tay nghề.


4. Phải đầu tư thật kĩ bài dạy trước khi lên lớp.


5. Phải hết sức nhạy bén và ứng xử kịp thời các tình huống phát sinh khi giảng dạy
bằng cách chú ý lắng nghe ý kiến của học sinh tìm ra ưu khuyết điểm chính của học sinh
để nhận xét tổ chức sửa chữa, góp ý đánh giá.


6. Giáo viên cũng cần rèn cho học sinh kĩ năng nhận xét bài bạn để từ đó nhận biết
được những chỗ hay hoặc chưa hay khi làm bài của mình. Ví dụ: chỉ cần chỉ rõ bài bạn
hay là vì bạn biết dùng từ ngữ liên kết câu, bạn biết sử dụng các hình ảnh so sánh, nhân
hóa..., bạn biết lồng cảm xúc của mình vào bài viết và điều quan trọng là giáo viên cần
phải giúp học sinh chỉ rõ ra những từ ngữ, câu hay cho lớp tham khảo. Điều này vừa động
viên được những em làm bài hay, vừa khơi dậy cho học sinh những ý tưởng, sáng tạo
mới, học sinh cảm thấy có thêm nguồn động lựcđể thi đua học tập, để bài của mình được


cơ và các bạn đọc trước lớp như vậy. Bên cạnh đó những hạn chế trong bài của học sinh,
giáo viên cũng cần tế nhị khi nhận xét. Tuyệt đối không dùng những câu đại loại; ý nghèo
nàn quá, bài đủ ý, bài yếu hoặc em khơng có chuẩn bị bài sao ?...Điều đó sẽ làm cho các
em như bị dội gáo nước lạnh vào mặt. Người giáo viên cần thận trọng, trước tiên cần tìm
cho bằng được những ưu điểm trong bài làm của bé dù nó chỉ là nhỏ nhoi để tuyên
dương trước lớp rồi từ từ cho các em chỉnh sửa, bổ sung cho câu văn hay hơn, hoàn chỉnh
hơn.


7. Người giáo viên cần thay đổi nhiều hình thức học tập để tạo cơ hội cho nhiều học
sinh cùng được tham gia trình bày ý kiến của mình.


VD: Tổ chức học nhóm 4 để các em được nói cho nhau nghe ý kiến của mình ( vì có
những em rất ngại nói trước lớp và ngại nói cho giáo viên nghe, trái lại khi cùng tham gia
vói các bạn mình thì các em rất tích cực ). Trong lúc này giáo viên cần đến tận nơi, từng
bàn để lắng nghe và gợi ý, định hướng cho các em xây dựng bài...Được tham gia phát
biểu, dần dần những em nhút nhát sẽ cảm thấy mạnh dạn và tự tin hơn khi đứng nói trước
lớp. Bên cạnh đó phương tiện trực quan, các hình thức tổ chức trị chơi, thi đua... cũng
khơng kém phần lơi cuốn HS học tập tích cực hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

9. Nên tập cho các em có thói quen học tập các ý hay trong bài văn mẫu, đoạn hay,
bài làm hay của bạn, từ sách báo tham khảo và được tạo thói quen ghi chép lại trong sổ
tay văn học của mình.


<i>2. Đối với học sinh: </i>


- Hết sức chú ý nghe giảng, có sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp.


- Cụ thể hoá những ý nghĩ chung của bạn thành ý riêng của mình bằng cách tự lập
một hệ thống dàn bài riêng của mình phù hợp với yêu cầu của đề.



- Mạnh dạn, tự tin phát biểu ý kiến để các bạn xây dựng cho mình.


- Tập cho mình có thói quen đọc sách báo hàng ngày để cập nhật thông tin bổ sung
cho bài làm của mình thêm sâu sắc hơn. Tuyệt đối tránh máy móc rập khuôn theo bài
mẫu.


3. Làm thế nào để viết được một bài văn hay?
1.Thế nào là một bài văn hay?


Một bài văn hay phải đạt được 3 yêu cầu: Nội dung, hình thức và cách trình bày.
a) Nội dung:


- Ý tưởng phải ăn khớp với đề bài.
- Ý tưởng phải đúng, mới và đặc biệt.


- Ý tưởng phải súc tích ( chứa nhiều ý trong một hình thức diễn đạt ngắn gọn).
- Ý tưởng phải xếp đặt có thứ tự và mạch lạc.


- Ý tưởng cuối cùng (ở phần kết bài) phải khái quát được các ý đã nêu ra.
b) Hình thức:


- Viết đúng từ vựng (sử dụng đúng từ ngữ).


- Viết đúng nội dung (đặt câu đúng ngữ pháp, có đủ CN, VN).
- Viết đúng dấu câu (sử dụng đúng các dấu câu đã được học).
c) Trình bày:


Chữ viết phải rõ ràng, ngay ngắn, đẹp; viết hoa đúng chỗ, các đoạn văn được phân bố
hợp lí (khơng nên q dài hoặc q ngắn).



2. Làm thế nào để viết được một bài văn hay?


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

a)Về cách dùng từ:


- Phải dùng từ cho chính xác, lựa chọn từ ngữ nào hay nhất để làm cho câu văn có hồn.
VD: Tả bơng hoa:


Nụ hoa chúm chím nở như như hớp từng giọt sương.




Những cánh hoa nhỏ xíu đung đưa trong làn gió sớm.




- Muốn dùng từ đượchay, các em phải ln ln có sự liên tưởng các sự vật với nhau, so
sánh hiện tượng, sự vật này với hiện tượng, sự vật khác để chọn lựa được những từ ngữ
có hình ảnh và gợi cảm. Các em nên sử dụng nhiều từ láy (từ tượng thanh, tượng hình) và
từ ghép.


b) Về cách đặt câu:


- Khi viết câu, cần linh hoạt, không nhất thiết cứ phải viết theo một cơng thức đơn điệu
mà có thể thay đổi cách diễn đạt (dùng biện pháp đảo ngữ).


VD1: Trước mắt em là thảm lúa xanh bao la.


Có thể đổi lại là:Thảm lúa xanh như mở rộng dần ra trước mắt em.
VD2: Hai bên đường vàng rực hoa cúc.



Đổi lại là: Vàng rực hai bên đường là những thảm hoa cúc.


- Muốn viết được câu hay,còn phải sử dụng cách so sánh, nhân hố.
VD: + Nhìn từ xa, cánh đồng như một thảm lúa xanh khổng lồ...
+ Những bông hoa ngả nghiêng cười đùa hớn hở...


* Một yêu cầu cuối cùng khi viết văn đối với học sinh giỏi là phải hết sức tránh sự cẩu
thả về chữ viết, về cách trình bày, tránh các sai sót về chính tả. Muốn thế, trong khi viết,
chúng ta phải hết sức chú ý suy nghĩ và vận dụng cho đúng, trình bày cho sáng sủa. Đặc
biệt, khi viết xong bài, phải dành thời gian đọc lại để sửa lại những sai sót (nếu có thể).
4. Các giải pháp cụ thể:


a. Dạy Tập làm văn qua giờ Luyện từ & câu.


- Các em ít tham gia phát biểu trong giờ học Tập làm văn là do không biết thể hiện ý
tưởng của mình bằng những câu như thế nào bởi lẽ vốn từ của các em quá ít.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

mắt cho HS, giúp em nhận thấy vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người, dạy các em
biết yêu quý và trân trọng tình cảm đó.


- Ở chương trình SGK mới này không cung cấp sẵn vốn từ mới cho các em mà thông qua
hệ thống bài tập học sinh phải cùng suy luận và cùng nhau tìm tịi, bổ sung và làm giàu
vống từ cho mình. Sau đó GV có thể cung cấp thêm tư liệu cho HS ( tư liệu cung cấp cần
thực tế và gần gũi nằm trong sự hiểu biết của các em ). Sau đó GV cũng cần giúp các em
HS làm rõ một số từ cần thiết, đó là nhiệm vụ sống cịn trong sự phát triển ngôn ngữ của
trẻ. Việc dạy nghĩa từ được tiến hành trên tất cả các giờ học, bất cứ ở đâu cũng cung cấp
từ ngữ thì ở đó có dạy nghĩa của từ địi hỏi GV phải nắm rõ nghĩa của từ và giải thích cho
phù hợp với ngữ cảnh, với nội dung bài học với hoàn cảnh thực tế với đối tượng học sinh.
Tuy nhiên việc giải nghĩa hết tất cả các từ là không thể và khơng cần thiết, GV phải có sự
chọn lọc từ để giải nghĩa. Những từ được chọn lọc phải là những từ trung tâm có vai trị


quan trọng trong hoạt động nói của HS trên một đề tài đã xác định, phải để cho các em
giải nghĩa lấy ( kích thích tư duy HS làm cho HS lúc nào cũng cảm thấy mới lạ – Tạo
hứng thú cho HS trong học tập ) cũng cần lưu ý rằng: từ nào GV nắm rõ nghĩa thì hãy
giải thích cịn nếu từ nào chưa rõ nghĩa thì khơng nên giải thích vì giải thích qua loa, sơ
sài sẽ làm cho HS chán nản vì khơng đáp ứng nhu cầu tị mị của trẻ thậm chí làm cho trẻ
hiểu sai lệch nghĩa của từ và khi vận dụng vào bài viết của mình sẽ không hiệu quả, làm
sai lệch ý muốn diễn đạt.


* GV có thể áp dụng một số phương pháp giải nghĩa của từ sau đây:
- Giải nghĩa bằng trực quan: đưa ra các vật thật, hình ảnh, sơ đồ...


- Giải nghĩa thông qua ngữ cảnh: GV cần được giải nghĩa vào câu hồn chỉnh để làm
rõ nghĩa từ đó.


- Giải nghĩa bằng cách đối chiếu: GV so sánh nghĩa từ cần được làm rõ nghĩa với từ
khác.


VD: giải nghĩa từ “ ao” bằng cách so sánh với nghĩa từ “hồ” -> ao nhỏ hơn hồ.
- Giải nghĩa từ bằng cách tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa:


VD : Gần nghĩa với “lười biếng” là “biếng nhác”
Trái nghĩa với thông minh là “đần độn”


- Giải nghĩa từ bằng cách phân tích từ thành các từ tố ( tiếng )


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

VD : Quê hương là nơi sinh mình ra và lớn lên.
b. Dạy tập làm văn qua giờ tập đọc:


Trong giờ tập đọc, GV phải làm cho HS hiểu nghĩa một số từ cần thiết trong bài. Hiểu
được nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa “văn chương” của từ ngữ, điều này sẽ có ích cho HS


khi vân dụng từ. GV có thể kết hợp với những bài tập điền từ thích hợp.


VD : chọn từ “náo nức” hay từ “rộn ràng” điền vào chỗ trống cho thích hợp:
Chúng em...chào đón ngày khai trường.


Trong phần tìm hiểu bài, GV gợi ý khuyến khích HS trả lời câu hỏi theo ý mình, hạn chế
dần cách trả lời rập khuôn câu văn trong SGK. Nhất là đối với những bài học dạng thơ,
nên cho HS sinh diễn đạt thành lời văn hoàn chỉnh ( nếu đề khơng u cầu tìm câu thơ ).
Điều này tạo điều kiện cho HS vận dụng tối đa vốn từ sẵn có của mình, đồng thời giúp
GV nắm được lượng từ có được ở mỗi HS để từ đó có biện pháp thích hợp cung cấp từ
mới cho các em.


c. Dạy Tập Làm Văn qua giờ Chính tả


Để viết đúng chính tả HS phải nắm được nghĩa của từ.


VD : Học sinh phải phân biệt được nghĩa của từ “lượng” và “lượn”
- Lượn : bay lượn, lượn lờ...


- Lượng : trọng lượng, khối lượng, chất lượng...


Giáo viên nên vận dụng những bài tập để mở rộng vốn từ cho HS. Ví dụ bài tập ghép từ.
VD : Tìm từ ghép với “ mến” : mến yêu, mến thương, thân mến...


Trong những giờ dạy Chính Tả so sánh là lúc GV khai thác và cung cấp thêm nguồn từ
mới cho HS. Đối với dạng bài này, HS càng phải nắm rõ nghĩa của từ để phân biệt các từ
phát âm sai của địa phương so với chuẩn.


VD : Tuỳ từng địa phương các em thường phát âm thiếu chính xác các cặp từ có âm đầu
là l/n ; ch/tr; d/gi/r...



d. Dạy tập làm văn qua giờ kể chuyện:


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

VD : Trong truyện “ Lời hứa của sâu róm” ( truyện đọc lớp 3 ), các em cần hiểu
nghĩa của các từ : sâu róm, kén, sửng sốt. GV có thể giải thích nghĩa của từ “ sửng sốt”
bằng cách đưa ra một câu trong đó có từ “ sửng sốt”.


- Tôi vô cùng sửng sốt về kết quả học tập của cậu ấy.


Từ VD này, HS sẽ dễ hiểu hơn nghĩa của từ “sửng sốt”: hết sức ngạc nhiên, lấy làm lạ...
e. Sử dụng từ ngữ trong miêu tả:


Sau khi học sinh đã có một vốn từ nhất định, giáo viên giúp học sinh các cách sử
dụng vốn từ trong miêu tả như: sử dụng từ láy, sử dụng tính từ tuyệt đối (đỏ mọng, đặc
sệt, trong suốt...), sử dụng các biện pháp nghệ thuật (so sánh, nhân hố, ẩn dụ...).


Ví dụ 1: Cho các từ “ríu rít, líu lo, liếp chiếp, rộn ràng, tấp nập, là là, từ từ...”


Hãy chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau: “Tiếng chim... báo
hiệu một ngày mới bắt đầu. Ông mặt trời... nhơ lên sau luỹ tre xanh. Khói bếp nhà ai...
bay trong gió. Đàn gà con... gọi nhau,...theo chân mẹ. Đường làng đã... người qua lại.”
Ví dụ 2: Hãy chọn từ ngữ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống để được các câu văn
có hình ảnh so sánh phù hợp nhất (tiếng chuông, chùm sao, thuỷ tinh, dải lụa, giọng bà
tiên).


- Hoa xoan nở từng chùm trông giống như... ( những chùm sao )
- Nắng cứ như...xối xuống mặt đất. ( thuỷ tinh )


- Giọng bà trầm ấm ngân nga như... ( tiếng chng )



Ở ví dụ 1 và ví dụ 2, cho số từ nhiều hơn số chỗ trống cần điền, buộc HS phải suy nghĩ kĩ
hơn khi chọn từ.


g. Vận dụng các phương pháp theo hướng chủ động khi dạy Tập Làm văn:


- Sử dụng mạng ý nghĩa trong viết đoạn: Học sinh sẽ tìm ý dưới dạng sơ đồ hình
trịn. Mạng ý nghĩa thường dùng trong giai đoạn trước khi viết văn. Những từ ngữ học
sinh tìm được thường tập trung ở phần thân bài nên đây là một lợi điểm cho việc phát
triển ý từ thành đoạn văn hồn chỉnh.


Ví dụ:


Lá rập rình lay động
Cao lớn


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

- Sử dụng sơ đồ khung trong viết đoạn : Thường được dùng trong miêu tả cây cối (tả bộ
phận hay tả từng giai đoạn phát triển). Sơ đồ khung sẽ giúp cho học sinh dễ nhận ra cấu
trúc của mỗi kiểu bài.


- Dùng thẻ từ phối hợp với tranh ảnh : Thường được sử dụng khi học sinh lựa chọn
những chủ đề chưa tận mắt thấy hay chưa từng được quan sát.


- Trong bài “ Cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật” thay vì trả lời đơn thuần các câu hỏi:
+ Tìm các phần mở bài, kết bài. Mỗi phần ấy nói điều gì?


+ Phần thân bài tả cái cối theo trình tự nào?


Giáo viên sẽ dùng những thẻ từ cho HS ghi vào đó những từ chỉ đặc điểm của từng





phần trước khi nêu ý nghĩa của các phần đó.


- Giáo viên có thể kết hợp sơ đồ khung để xác định bài văn miêu tả đồ vật.


- Chúng ta thường đặt câu hỏi “Vì sao lại có những bài văn giống nhau?”ở đây
chúng ta không bàn đến vấn đề GV bắt học sinh học thuộc mà chúng ta sẽ phân tích theo
hai sơ đồ dưới đây :


+ GV nêu từ Gợi ý đặt câu mẫu Sản phẩm của học sinh đa phần sẽ giống nhau. <sub></sub> <sub></sub>
+ Học sinh tìm từ Đặt nhiều câu khác nhau Sẽ có nhiều đoạn văn khác nhau. <sub></sub> <sub></sub>


- So sánh hai cách làm trên, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy việc làm mẫu của giáo
viên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu nhầm đó là mẫu hay nhất. Tuy nhiên, khơng vì thế mà
giáo viên khơng làm mẫu, do đó phải yêu cầu và nhắc nhở học sinh khi tả chọn mẫu câu,
đề tài khác giáo viên.


- Giáo viên cần tập cho học sinh thói quen lập dàn ý trước khi viết bài và cần phải
viết nháp trước, sau đó chỉnh sửa trước khi viết bài hồn chỉnh. Trên thực tế, vì sợ thiếu
giờ nên chính giáo viên khơng yêu cầu học sinh làm nháp. Điều này dễ làm mất khả năng
tư duy và khả năng nhớ của trẻ. Trong q trình làm bài nháp, giáo viên cần ln nhắc
học sinh trú trọng ý tưởng mới nảy sinh không quá tập trung vào lỗi chính tả, ngữ pháp ở
giai đoạn này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

- Việc tổ chức các phong trào hỗ trợ cho việc viết văn như dành một góc học tập để
các em có thể trưng bày những sản phẩm của mình (những bài văn hay) để cả lớp cùng
tham khảo.


- Rèn cho học sinh kỹ năng nói trong Tập làm văn rất quan trọng. Giáo viên cần
khuyến khích HS “tự do nói”, nghĩ được điều gì thoải mái diễn đạt ra điều ấy, điều này


giúp HS mạnh dạn phát biểu đưa ra ý kiến của mình. Thường thì các em mang nặng tâm
lý đứng lên lỡ nói sai sẽ bị thầy cơ mắng hoặc các bạn chê cười. Để giải tỏa gánh nặng
tâm lý này, tôi thường để các em tự do đưa ra ý kiến của mình dù cho ý kiến đó chưa sát
với yêu cầu của câu hỏi đặt ra. Đừng bao giờ phủ nhận sạch trơn những suy nghĩ của các
em mà nên động viên để các em tự tin hơn khi phát biểu.


Việc thực hiện “Sổ tay văn học” hay tạo “Thư viện nhỏ cho lớp” là rất cần và thiết
thực. Nó cịn giúp các em hạn chế việc mắc lỗi chính tả khi làm bài. Có nhiều giáo viên
đặt ra câu hỏi tại sao có những em khi viết chính tả khơng hề mắc lỗi nào nhưng khi viết
bài văn lại sai nhiều lỗi như thế ? Nguyên nhân chính là do khi viết bài văn các em không
được nghe cô giáo phát âm từng tiếng như khi viết chính tả mà bản thân các em phải vận
dụng tư duy để diễn đạt lại thành ý. Do đó, đa số các em thường viết theo những ngôn
ngữ phát âm giao tiếp hằng ngày, hoặc cũng có khi do viết vội, viết câu dài gặp những từ
khó thì lười đánh vần, từ đó viết sai chính tả. Nếu được chuẩn bị bài trước ở nhà (các em
có thời gian kiểm tra chính tả, khơng bị khống chế thời gian làm bài) HS sẽ tự tin hơn và
đỡ sai chính tả hơn khi làm bài.


* Để hỗ trợ cho HS, chúng ta cũng cần cung cấp thêm cho các em một số từ (theo
dạng chủ đề đang học) để các em tham khảo.


VD1: Đối với dạng văn tả người


- Tả vóc dáng : cao, lùn, gầy, mảnh mai, bụ bẫm, lụ khụ, yểu điệu …


- Tả khuôn mặt, diện mạo : bầu bỉnh, rám nắng, xanh xao, trái xoan, hốc hác, đần
độn, ủ rủ, cau có …


- Tả làn da : nhăn nheo, xanh như tàu lá chuối, trắng trẻo, chai cứng, mốc thếch, da
bánh mật…



- Tả mắt : đen huyền, đen láy, bồ câu, ti hí, mắt ốc bươu…
- ...


VD2: Đối với dạng tả cây


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

- ...


Ngoài ra GV cần đặt mua giúp học sinh báo Nhi đồng chăm học và Văn học tuổi thơ cho
học sinh để các em khơng những có thêm những kiến thức bài học, kiến thức xã hội bổ
ích mà cịn tạo khả năng giao tiếp khi các em tham gia viết bài.


* Nói tóm lại, muốn giúp cho học sinh có được vốn từ tích cực, bền vững phải
luyện cho các em vận dụng từ ngữ vào những dạng bài tuân theo nguyên tắc xác định và
phải vận dụng thường xuyên trong cuộc sống.


5. Phương pháp chung khi làm bài Tập làm văn:


Khi làm một bài Tập làm văn, chúng ta cần hướng cho học sinh làm bài theo 4 bước
sau:


1.Đọc kĩ đề bài:


Đọc kĩ đề bài để nắm vững ý nghĩa từng từ, từng câu và tự trả lời 4 câu hỏi sau:
- Đề bài thuộc thể loại văn nào?


- Đề bài địi hỏi ta giải quyết những vấn đề gì?
- Phạm vi bài làm đến đâu?


- Trọng tâm đề bài ở chỗ nào?
2.Tìm ý - Lập dàn bài:



*Sau khi nắm chắc đề bài (ở bước 1), các em không được vội vàng viết ngay bài làm, vì
như thế ý tưởng sẽ lộn xộn, khó sắp xếp. Cần lập một dàn bài chi tiết gồm 3 phần: Mở
mài, thân bài, kết bài.


*Để lập dàn bài cho một bài văn, các em cần đi theo các bước sau:


- Bước 1: Chuẩn bị một tờ giấy nháp trắng để nhập toàn bộ nội dung của dàn ý trên cùng
một mặt giấy để tiện theo dõi (không nên ghi dàn ý vào 2 mặt của tờ giấy vì như thế sẽ
khó quan sát được tồn bộ các ý chính cần có của bài văn).


- Bước2: Ghi sẵn 3 phần lớn của bài văn: 1.MB / 2.TB / 3.KB (Viết phần 1 xong để cách
khoảng 2-3 dòng rồi mới ghi phần 2; phần 3 ghi xuống cuối tờ nháp, chỉ cần 2-3 dòng là
đủ. Các khoảng trắng để ta nhập các ý cần phải có ở mỗi phần vào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Tuỳ theo thể loại và ý chính của đề, ta tìm ý có liên quan đến đề bài. Tìm những ý chính
(sẽ nói rõ ở phần chính) và những ý phụ (sẽ nói sơ qua ở phần phụ). Viết nhanh ra giấy
nháp những ý đã tìm hoặc đã suy nghĩ được trong đầu óc.


Ta có thể ví dàn bài của một bài văn giống như một cái sườn nhà. Có dựng được sườn rồi
mới thì mới có thể lợp mái, đóng vách, ráp cửa, tô quét,...


Trong dàn bài, ta sắp xếp các ý cho có thứ tự, điều gì đáng nói trước, điều gì nên để sau.
Tránh những ý nhắc đi nhắc lại. Phần mở bài có những ý gì? Thân bài có mấy đoạn? đoạn
nào trọng tâm?(Trong những ý lớn có những ý nhỏ nào?). Phần kết bài nên có những ý
gì? Ghi nhanh xong dàn bài, đọc lại để sửa hoặc thêm những ý cần thiết, bỏ những ý thừa.
3.Viết thành một bài văn hoàn chỉnh:


Đây là bước quan trọng nhất và cũng là khâu khó nhất.Trên cơ sở dàn bài vừa lập, em
viết thành một bài văn hoàn chỉnh gồm 3 phần (MB,TB, KB), 3 phần này nối tiếp nhau


tạo nên một văn bản thống nhất từ đầu đến cuối để giải quyết vấn đề nêu ra ở đề bài. Khi
viết, phải viết từng câu, nghĩ 2-3 câu liền rồi mới viết để các câu đứng cạnh nhau không
bị khập khiễng về cách diễn đạt ý. Khi đặt lời văn để diễn đạt các ý (đã trình bày ở dàn
bài chi tiết), các em lưu ý cách diễn đạt có hình ảnh, gợi cảm và sinh động bằng cách sử
dụng các biện pháp tu từ, các từ ngữ gợi tả, gợi cảm, các từ tượng thanh, tượng hình,...Ý
hay là nhờ ở lời văn rõ ràng, mạch lạc. Vì vậy, chúng ta cần đặt câu đúng ngữ pháp, tránh
viét câu quá dài, tạo nên những câu văncó nhiều ý, ý luẩn quẩn, lộn xộn hoặc không rõ
ràng. Đặc biệt, trong khi trình bày, cần đặt các dấu câu đúng chỗ, thể hiện đúng nội dung
đang trình bày. Sử dụng dấu câu hợp lí, đúng chỗ cũng là một yếu tố quan trọng giúp cho
bài văn của chúng ta trở nên rõ ràng, rành mạch, quyết định tới 40% thành công của một
bài văn. Khi trình bày lưu ý khơng viết tắt, không viết chữ số, trừ những số về đo lường
và ngày, tháng, năm.


4.Đọc lại bài làm:


Sau khi viết xong, cần đọc lướt lại bài văn để sửa các lỗi (nếu có thể viết thêm các nét
được) về chính tả, dấu câu,...


*Lưu ý :


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

- Để làm một bài văn đúng trình tự, đầy đủ nội dung, hay về ý tứ lời văn, đẹp về hình ảnh
sống động, dùng từ viết câu chính xác, rõ ràng... địi hỏi học sinh phải có vốn kiến thức
về từ ngữ, kiến thức về câu, về cách xây dựng văn bản.


- Khi học sinh đã được cung cấp những từ ngữ miêu tả rồi, giáo viên cần tổ chức, hướng
dẫn cho các em lập dàn ý, lựa chọn sắp xếp ý để miêu tả. Mục đích xây dựng dàn ý là
giúp học sinh xác định được đúng yêu cầu của từng phần: mở bài, thân bài, kết bài, xác
định thể loại và đối tượng miêu tả để tránh tình trạng học sinh viết tràn lan, lạc đề và
miêu tả không trọng tâm.



- Hoạt động tiếp theo sau khi lập dàn ý là hoàn thiện dàn ý. Đây là bước quan trọng, cần
thiết để có được một bài tập làm văn viết tốt nhất. Khi làm bài vào vở, học sinh cần chú ý
cách trình bày, chữ viết, lỗi chính tả. Đó là những yếu tố giúp học sinh thành cơng trong
quá trình học Tập làm văn. Cuối cùng, khi đã làm bài xong học sinh cần kiểm tra lại bài
viết của mình trước khi nộp bài.


6. Giáo viên chấm bài và trả bài viết


Chương trình Tập làm văn lớp 5 có 3 tiết trả bài tả cảnh, 3 tiết trả bài tả người, 4 tiết trả
bài kể chuyện, đồ vật, cây cối, con vật. Ta nhận thấy rằng có chấm bài chu đáo thì mới có
tiết trả bài đạt hiệu quả.


a. Chấm bài:


Khi chấm bài Tập làm văn cho học sinh, mỗi bài tôi đọc qua một lượt để có cái nhìn
chung về bố cục, về diễn đạt của học sinh, xem thử học sinh đã làm bài đúng thể loại, nội
dung và trọng tâm bài viết chưa. Tôi ghi ra sổ chấm bài những chỗ hay, chưa hay hoặc sai
những lỗi gì...của từng HS.


Khi chấm điểm xong cho cả lớp, tôi đánh giá chung kết quả bài làm của học sinh và rút ra
những tiến bộ cần phát huy, và những thiếu sót cần sửa chữa bổ sung để chuẩn bị cho tiết
trả bài sắp tới…..


b. Trả bài viết:


Nội dung, phương pháp lên lớp một tiết trả bài Tập làm văn viết lớp 5, có 3 hoạt động
chính:


1. Nghe thầy (cơ) nhận xét chung về kết quả bài làm của lớp.
2. Chữa bài.



</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Để tiết trả bài viết đạt hiệu quả, giáo viên cần lấy thông tin từ bài viết của học sinh (đã
chấm và ghi ở sổ chấm bài) và thực hiện các hoạt động trả bài một cách bài bản, có linh
hoạt tuỳ theo tình hình chất lượng Tập làm văn của lớp.


 Hoạt động 1: Nhận xét chung về bài làm của lớp gồm các bước sau:


o Bước 1: Đánh giá việc nắm vững các yêu cầu của đề bài (ghi đề, học sinh đọc đề
bài, xác định 3 yêu cầu: thể loại, nội dung và trọng tâm). Đánh giá tình hình làm bài của
lớp về mặt nhận thức đề (số bài đã đạt 3 yêu cầu của đề, số bài chưa đạt hoặc đạt chưa đủ
3 yêu cầu. Biểu dương cá nhân, cả lớp...).


o Bước 2: Đánh giá về nội dung bài viết (cho học sinh nêu dàn ý chung của kiểu bài
tả cảnh,( tả người )… Đọc một vài đoạn văn đã chọn sẵn cho học sinh nghe và nhận xét,
cuối cùng giáo viên đánh giá chung về nội dung đoạn văn đó.


 Hoạt động 2: Chữa bài:


Nội dung và cách thức thực hiện sửa chữa lỗi diễn đạt:


 Việc sửa chữa lỗi diễn đạt dựa trên cơ sở bài làm của cả lớp mà trong quá trình
chấm bài, GV đã ghi ra các câu có vấn đề về ngữ pháp, các lỗi chính tả … Đến lúc này
GV tổ chức, hướng dẫn cho HS nhận xét, sửa chữa. Định hướng như vậy sẽ giúp cho việc
sửa chữa lỗi sát hợp và kịp thời uốn nắn kĩ năng diễn đạt cho lớp. Tuy nhiên, sửa như vậy
sẽ dẫn đến tình trạng nhàm chán trong HS vì tiết trả bài nào cũng sửa chữa những lỗi đó.
 Riêng tơi, ngay từ đầu năm học đã lên kế hoạch sửa lỗi diễn đạt cho lớp, mỗi tiết trả
bài viết tập trung sửa chữa cho một hoặc hai loại lỗi nào đó một cách bền vững, tức là cần
có trọng tâm sửa lỗi cho từng tiết.


* Hoạt động 2 này tiến hành theo 3 bước :


o Bước 1: Tham gia chữa lỗi chung cho cả lớp:
Ví dụ:


Tiết trả bài viết số 1(tả cảnh, tuần 5) : Trọng tâm sửa lỗi là luyện từ -câu và thực trạng
viết câu.


o Bước 2: Học sinh đọc lại bài làm của mình, chú ý những chỗ mực đỏ ghi lời khen,
chê của cơ giáo. ( Ví dụ : câu hay, đoạn hay, hoặc lỗi dùng từ, lỗi viết câu, lỗi chính tả…)
o Bước 3: Học sinh tự chữa bài vào vở tập làm văn.


 Hoạt động 3:


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<i><b>III. KẾT QUẢ</b></i>


Trong năm học vừa qua, khi vận dụng những phương pháp trên vào giảng dạy cho
HS, tôi nhận thấy rất khả quan khi dạy phân mơn này. Thành tích học tập của các em cao
hơn, chất lượng hơn và học sinh học tập cũng tích cực hơn.


Bảng thống kê dưới đây đã chứng minh được điều đó:


Thời gian Tổng


số HS Giỏi (9 – 10) Khá (7 – 8 ) TB (5 – 6) Dưới TB (1-4)
Đầu năm 33 2 7 19 5


Giữa HKI 33 3 9 18 3
Cuối HKI 33 7 16 10 0
Giữa KHII 33 15 16 2 0
Cuối HKII 33 20 13 0 0



Như vậy, cho đến thời điểm này các em đã biết cách trình bày bài văn hợp lí về bố
cục, diễn đạt ý trọn vẹn, câu văn giàu hình ảnh. Một số các em yếu cũng đã diễn đạt khá
tốt ý của mình. Tuy cịn một số bài viết cịn mang tính liệt kê nhưng bước đầu các em đã
biết vận dụng các biện pháp tu từ đã được học để vận dụng vào bài viết của mình làm cho
câu văn trở nên sinh động hơn.


Diễn biến chất lượng phân môn Tập làm văn sau khi áp dụng đề tài này thật đáng
phấn khởi, đây là kết quả của một quá trình phấn đấu của thầy giáo và học sinh lớp 5A
trường Tiểu học Văn Tiến. Chất lượng phân môn Tập làm văn đi lên rõ rệt đã góp phần
quan trọng vào việc nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt của lớp và của tổ chuyên môn.
Tôi hy vọng với một chút kinh nghiệm nhỏ bé này sẽ phần nào giúp cho đồng nghiệp gỡ
rối trong công tác giảng dạy, bồi dưỡng HSG của mình (nhất là với phân mơn Tập Làm
Văn).


<b>PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ</b>
<i><b>I. KẾT LUẬN</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

giáo viên cần định hướng một cách cụ thể, rõ ràng và khoa học thì việc chuẩn bị của học
sinh mới có kết quả tốt.


- Trong việc tổ chức cho học sinh hoạt động học tập, giáo viên thường xuyên
kiểm tra, phát hiện ra những chỗ “hổng” kiến thức của học sinh để kịp thời giúp các em
bổ sung cho đầy đủ. Nhất là phải thường xuyên cho học sinh ôn luyện, củng cố những
kiến thức đã học một cách linh hoạt, lồng ghép vào các hoạt động tìm hiểu kiến thức mới
nhằm khắc phục tận gốc những sai sót của học sinh.


- Ln tạo bầu khơng khí vui tươi, tự nhiên, thoải mái, kích thích học sinh
hứng thú hoạt động học tập để phát huy khả năng diễn đạt trong văn nói cũng như trong
văn viết.



- Hình thức dạy học phải đa dạng, phong phú tạo cho học sinh môi trường
học tập tích cực, chủ động và sáng tạo. Học sinh có điều kiện được bộc lộ những khả
năng sẵn có, tích luỹ và phát triển vốn từ ngữ, rèn luyện kĩ năng lựa chọn, sử dụng từ phù
hợp, giàu hình ảnh để có những câu văn hay, đoạn văn hay và bài văn hay.


- Cần khuyến khích học sinh tham khảo những bài văn hay để học cách diễn
đạt, cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh sinh động…thật nghiêm khắc đối với học sinh chép
văn mẫu. Bởi chép văn mẫu, các em sẽ không phải suy nghĩ, không phải động não. Do
đó, các em khơng phát triển được khả năng tư duy, óc sáng tạo. dần dần học sinh có thói
quen ỷ lại và lười biếng. Tuy nhiên, giáo viên cần phải giúp học sinh có những kĩ năng
thành thạo trong việc hình thành một dàn bài chi tiết từ dàn bài chung và từ dàn bài chi
tiết để viết ra một bài văn hồn chỉnh bằng chính khả năng của mình. Giáo viên cũng cần
lưu ý chỉ chấm bài, sửa bài đối với những bài văn thực chất của học sinh, không chấm
những bài văn chép từ văn mẫu. Có như vậy mới giúp các em rèn luyện khả năng tự học,
tự bồi dưỡng cho mình.


Chúng ta có thể dạy tốt – học tốt mơn Tập làm văn khi có sự phối hợp đồng bộ giữa
thầy và trò với những yêu cầu cần đạt đã nêu trên. Cũng cần lưu ý rằng, dạy các em viết
văn khơng có nghĩa là dạy các em trở thành nhà văn mà là dạy sao để các em có thể viết
được những điều mình nghĩ đến và những điều mình muốn nói một cách mạch lạc, gãy
gọn, hay nói cách khác là rèn cho HS kỹ năng xâu kết những ý nghĩ thành một đoạn văn
chặt chẽ thể hiện rõ ý mình muốn diễn đạt, đây là một cơng việc khá khó khăn, tuy nhiên
Bác Hồ đã từng nói:


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

* Sau cùng, tôi xin kết thúc bài viết của mình bằng một câu nói của giáo sư Roach
Van Allen để thay cho lời kết :


“Em có thể viết được những gì em nghĩ
Em có thể viết được những gì em nói



Em có thể đọc được những gì em viết và em có thể đọc được những gì người khác viết
cho em.”


II.KIẾN NGHỊ


- Lãnh đạo nhà trường liên kết, phối hợp với các trường bạn tạo sự giao lưu học hỏi
giữa các giáo viên, trong cụm.


- Nhà trường thường xuyên sưu tầm tài liệu, sách tham khảo để tạo điều kiện cho GV
bồi dưỡng đội tuyển (Đặt mua Toán tuổi thơ, Văn tuổi thơ và Nhi đồng chăm học...)


- Nhà trường tạo điều kiện hơn nữa để tơi hồn thành nhiệm vụ tốt hơn.


- Thường tổ chức các chuyên đề về môn Tập làm văn nói riêng và các mơn khác nói
chung để các đồng nghiệp có thể học hỏi lẫn nhau nhiều hơn.


Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân tơi được rút ra trong q trình dạy
Tập làm văn ở lớp 5. Rất mong sự góp ý chân thành của các bạn đồng nghiệp.




</div>

<!--links-->

×