Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Ảnh hưởng của môi trường luật pháp Mỹ tới hoạt động kinh doanh của công ty xuất khẩu thuỷ sản II Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.82 KB, 53 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG LUẬT PHÁP MỸ TỚI HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA CÔNG TY XUẤT KHẨU THUỶ SẢN II
QUẢNG NINH
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Hường
Sinh viên : Đỗ Thị Thu Hồng
Lớp : Quản trị kinh doanh Quốc Tế
Khoá : 42
Hệ : Chính Quy
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
1
Hà Nội, năm 2003
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan, bài viết này hoàn thành là do em tự nghiên cứu và cùng
với sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Thị Hường, em không sao chép từ bất kỳ
một bài viết được sử dụng để bảo vệ trong một học vị nào.
Hơn nữa, tình huống, số liệu và kết quả nghiên cứu trong đề tài này là trung
thực; các thông tin trích dẫn trong đề án đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Sinh viên
Đỗ Thị Thu Hồng
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
2
MỤC LỤC
Nội dung Trang
LỜI NÓI ĐẦU …………………………………………………………..1
CHƯƠNG I: CÔNG TY XUẤT KHẨU THUỶ SẢN II QUẢNG NINH VÀ ẢNH
HƯỞNG CỦA MÔI TRƯƠNG LUẬT PHÁP MỸ……………….……...3


1.1. Mỹ – một thị trường thuỷ sản đầy tiềm năng………………..3
1.2. Thực trạng xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam………………4
1.3. Sơ lược về tình hình hoạt động của công ty………………….6
CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA MÔI TRƯỜNG LUẬT PHÁP MỸ ĐẾN HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY……………………………....10
2.1. Đối với Luật thuế và Hải quan………………………………11
2.2. Đối với Luật khắc phục những bất lợi………………………13
2.2.1. Luật thuế đối kháng………………………………………...14
2.2.2. Luật chống bán phá giá……………………………………..14
2.2.3. Các cuộc điều tra chống bán phá giá………………………..24
2.3. Quy định về trách nhiệm đối với sản phẩm………………...27
2.4. Đối với quyền tự vệ…………………………………………. .28
2.5. Đối với bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ……………………….. .28
CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP GIÚP CÔNG TY
KHẮC PHỤC NHỮNG KHÓ KHĂN………………………………….31
3.1. Bài học kinh nghiệm…………………………………………31
3.2. Giải pháp giúp công ty khắc phục khó khăn………………34
3.2.1. Giải pháp mang tầm vĩ mô……………………………………..34
3.2.2. Giải pháp cấp công ty…………………………………………..39
3.2.2.1. Nâng cao năng lực của công ty………………………39
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
3
3.2.2.2. Nghiên cứu và nắm vững hệ thống luật pháp Mỹ…….40
3.2.2.3. Tiến hành mua bảo hiểm cho sản phẩm………………41
3.2.2.4. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị và xúc tiến…………….42
3.2.2.5. Làm quen với các vụ kiện tụng………………………42
3.2.2.6. Lưu ý khi làm thủ tục xuất khẩu……………………..44
KẾT LUẬN……………………………………………………………..46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………….47


Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
4
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, thế giới đang đến Việt Nam và Việt Nam cũng bắt đầu đi ra thế giới.
Đây là xu hướng hoàn toàn phù hợp với quy luật của sự phát triển, là điều kiện tiên
quyết để Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Những năm gần
đây chúng ta đã chứng kiến sự “vươn vai” của hàng hoá Việt Nam vào thị trường
quốc tế, trong đó không thể không kể đến sự lớn mạnh của mặt hàng thuỷ sản. Đây
là mặt hàng có thế mạnh lớn bởi nước ta có vùng chủ quyền khai thác rộng lớn.
Hiện nay, Mỹ là thị trường lớn nhất tiêu thụ thuỷ sản Việt Nam. Mặc dù Mỹ là một
thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới với nhu cầu nhập khẩu lớn, đa
dạng và ổn định; và đặc biệt là chúng ta đã có những thuận lợi về xuất
khẩu sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ ký kết nhưng chúng ta
nhận thấy một thực tế khách quan là phần lớn các công ty Thuỷ sản của
nước ta muốn (hoặc đã) xuất khẩu vào thị trường Mỹ đã gặp rất nhiều
khó khăn.Và công ty thuỷ sản II Quảng Ninh không nằm ngoài tình
trạng này, ông Ngô Duy Thực – Giám đốc công ty cho biết: “Mỹ là một
thị trường rộng lớn và phức tạp nên có thể gây choáng ngợp cho các
nhà xuất khẩu Việt Nam”.
Vấn đề đặt ra là tại sao công ty thuỷ sản II Quảng Ninh đến nay mới
“bắt đầu” nhận thấy rằng vào thị trường Mỹ lắm lợi ích và cũng đầy
khó khăn thử thách? Bài viết “Ảnh hưởng của môi trường luật pháp Mỹ
tới hoạt động kinh doanh của công ty xuất khẩu thuỷ sản II Quảng
Ninh” sẽ phân tích những khó khăn về luật pháp Mỹ và đề xuất một số
giải pháp nhằm giúp công ty khắc phục những khó khăn ấy khi công ty
kinh doanh trên thị trường Mỹ.
Bài viết này bao gồm ba chương:
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
5
Chương I: Công ty xuất khẩu thuỷ sản II Quảng Ninhvà ảnh

hưởng của môi trường luật pháp Mỹ
h Chương II: Tác động của môi trường luật pháp Mỹ đến hoạt
động kinh doanh của công ty
đ Chương III: Bài học kinh nghiệm và giải pháp giúp công ty khắc
phục những khó khăn khi kinh doanh ở Mỹ
Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS Nguyễn Thị Hường – Chủ nhiệm Bộ môn
Kinh Doanh Quốc Tế đã giúp đỡ và tận tình hướng dẫn để em hoàn thành đề tài
này.
Mặc dù em đã rất nỗ lực nhưng do khuôn khổ thời gian hạn hẹp và trình độ còn
hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận những ý kiến nhận
xét và những đóng góp quý báu của thầy cô và các bạn.
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
6
CHƯƠNG I: CÔNG TY XUẤT KHẨU THUỶ SẢN II QUẢNG NINH VÀ
ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG LUẬT PHÁP MỸ
1.1.MỸ – MỘT THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN ĐẦY TIỀM NĂNG
Mỹ đang là một thị trường nhiều triển vọng mà Việt nam mới bắt đầu khai
thác. Thị trường này có sức mua rất lớn và giá cả tương đối ổn định, tuy nhiên trong
thời gian qua, hàng thuỷ sản Việt nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ vẫn còn rất
khiêm tốn so với nhu cầu nhập khẩu mặt hàng này của Mỹ.
Với GDP bình quân đầu người năm 2000 là 32000USD, mức tăng trưởng
trung bình của nền kinh tế là 4%/năm, Mỹ là một thị trường có sức tiêu dùng rất
cao, đặc biệt là hàng thuỷ sản. Trung bình mỗi năm người Mỹ tiêu dùng 4,9 pounds
thuỷ sản tương đương 8 kg, tăng 44,6% so với năm 19960 và 19,5% so với năm
19980. Trong tương lai, mức tiêu thụ thuỷ sản ngày càng tăng mạnh do xu hướng
ngày càng có nhiều người Mỹ chuyển sang sử dụng sản phẩm thuỷ sản cho bữa ăn
chính trong gia đình. Theo thống kê của Bộ thuỷ sản Mỹ, người Mỹ hiện sử dụng
xấp xỉ 20% tổng sản lượng thuỷ sản thế giới, trong số đó thì hơn một nửa là thuỷ
sản nhập khẩu. Tại Mỹ có nhiều cơ sở chế biến phải sử dụng nguyên liệu ngoại
nhập. Có khoảng 1000 cơ sở chế biến cả nước phụ thuộc hoàn toàn vào nguyên

liệu ngoại nhập. Do đó, Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu thuỷ sản hấp dẫn đối với
tất cả các nước trên thế giới trong đó có Việt nam. Chỉ cần tăng lên 1% trong kim
ngạch nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ cũng đã mở ra cơ hội vàng cho Việt nam tăng
kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản lên gấp hai lần.
Chính vì vậy, ngay từ năm 1994, Việt nam đã bắt đẫu xuất khẩu thuỷ sản
vào thị trường Mỹ với kim ngạch khoảng 6 triệu USD. Và con số nay đã được tăng
lên nhanh chóng qua các năm, 1999 xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường này đạt
125,9 triệu USD, năm 2000 đạt 304,359 triệu USD, và đến năm 2001, đã tăng lên
500 triệu USD, biến thị trường Mỹ trở thành thị trường chiếm vị trí quan trọng
hàng đầu trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam, từ 11,6% thị phần năm 1998 đã
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
7
tăng lên 28,92% vào năm 2001 và khả năng thị phần xuất khẩu thuỷ sản của Việt
nam vào thị trường Mỹ còn tiếp tục tăng trong thời gian tới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó, trong thời gian vừa qua, Ngành thuỷ sản
Việt nam cũng gặp không ít khó khăn trong việc xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường
Mỹ. Đó là các nhà sản xuất cá nheo của Mỹ đang thực hiện các biện pháp để hạn
chế việc xuất khẩu các sản phẩm cá tra và cá basa của ta, như tuyên truyền cá của
Việt nam không đáp ứng được các yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm, nuôi
trồng trong điều kiện ô nhiễm. Đồng thời một số Nghị sỹ của Mỹ yêu cầu áp dụng
luật chống phá giá do giá cá của ta rẻ hơn cá catfish của Mỹ 1USD/kg và tốc độ
xuất khẩu vào Mỹ tăng nhanh. Và đặc biệt ngày 1/7/2000 họ còn đưa ra Quốc hội
Hoa kỳ dự luật HR 2439, gọi là ( Country of origin labelling Bill” ( nhãn mác của
nước xuất xứ). Dự luật HR2330 liên quan đến cá tra và cá basa của Việt Nam nhập
khẩu vào thị trường Mỹ.
1.2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM VÀO MỸ
TRONG NHỮNG NĂM QUA
Bắt đầu từ năm 1994, sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam, những lô
hàng thuỷ sản đầu tiên của Việt Nam đã có mặt trên thị trường Mỹ. Từ đó trở đi
cho đến tháng 7 năm 2000, mặc dù chưa ký Hiệp định thương mại Việt – Mỹ,

nhưng giá trị xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam vẫn tăng đều đặn và tăng đột
biến vào những năm 1995, 2000 và 2001, Mỹ đã vượt Nhật, trở thành nước nhập
khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam (xem bảng trang bên).
Trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, tôm đông chiếm tỷ lệ
cao nhất. Theo số liệu thông báo của Hải quan Mỹ thì năm 2001 Việt Nam chỉ
đứng thứ nhì sau Thái Lan với khối lượng trên 32.000 tấn và đạt giá trị là 417,8
triệu USD. Kế đến là mặt hàng cá tra, cá basa, đứng thứ ba là cá ngừ và thứ tư là
các “ sản phẩm khác” bao gồm cá philê đông, cua tươi, cá biển đông, cá nước ngọt
đông, cua đông… Cơ cấu giá trị xuất khẩu 4 loại thuỷ sản trên đây của Việt Nam
vào Mỹ năm 2002 tương ứng như sau: tôm 79,8%; cá tra, basa 4,5%; cá ngừ 4,1%;
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
8
và các sản phẩm khác 11,6%. Theo thống kê của Mỹ, sản phẩm thuỷ sản Việt Nam
xuất khẩu sang Mỹ đa dạng về chủng loại, có tới 135 loại sản phẩm khác nhau.
Bảng 1.1: Tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trườn Mỹ
(triệu USD)
S
T
T
Năm Kim
ngạch
xuất khẩu
Tốc độ tăng trưởng
Kim ngạch xuất
khẩu
Tỷ lệ (%)
1
2
3
4

5
6
7
8
9
10
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003 (ước tính)
5,78
19,498
33,988
39,83
80,20
129,50
298,22
523,60
631,20
767,54
-
13,71
14,49
5,85

40,37
49,30
68,72
228,85
107,60
136,34
-
237,2
74,3
17,2
101,3
61,5
130,2
75,6
20,5
21,6
(Nguồn: Bộ thuỷ sản và tính toán của tác giả)
Theo đánh giá của người tiêu dùng Mỹ thì các loại sản phẩm thuỷ sản của ta là
có chất lượng tốt, mùi vị thơm ngon vì nuôi chủ yếu theo kiểu quảng canh và quảng
canh cải tiến nên nên vị tôm ngọt tự nhiên, ngon hơn tôm nuôi công nghiệp của
Thái Lan và Indonesia nên thường bán được giá cao hơn. Thí dụ, năm 2000, mặc
dù Việt Nam chỉ xuất 15.000 tấn tôm nhưng giá trị rất cao – 224 triệu USD. Trong
khi đó Ấn Độ xuất những 26.000 tấn mà chỉ thu được có 223 triệu USD. Tính ra 1
kg
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
9
tôm của Việt Nam bán được 14,934 USD, của Mehico là 13,961 USD, của Thái
Lan là 11,895 USD và của ấn Độ là 8,076 USD.
1.3. SƠ LƯỢC VỀ CÔNG TY XUẤT KHẨU THUỶ SẢN II QUẢNG NINH
Xí nghiệp xuất khẩu thuỷ sản II Quảng Ninh được thành lập từ năm 1988, hoạt

động kinh doanh trong lĩnh vực chế biến xuất khẩu thuỷ sản.
Năm 1992, Xí nghiệp được nâng cấp thành Công ty. Bình mới rượu cũ,
những khó khăn tích tụ. Năm 1996 – 1997, Công ty gặp những khó khăn rất lớn
tưởng như khó có thể vượt qua do thiếu cán bộ quản lý, vốn ít, thiết bị lạc hậu, nhà
xưởng, kho tàng chật chội, sản phẩm sản xuất ra không đáp ứng được những đòi
hỏi ngày càng cao của thị trường thế giới. Và 300 công nhân không đủ việc làm, có
nhiều người đã bỏ sang các doanh nghiệp khác.
Đây cũng chính là thời điểm thách thức đối với mỗi thành viên của Công ty.
Ban lãnh đạo Công ty cùng với cán bộ công nhân viên tâm huyết đã chung sức tháo
gỡ khó khăn, mạnh dạn đầu tư mở rộng nhà xưởng, đổi mới thiết bị để sản xuất
những sản phẩm tinh chế có giá trị gia tăng, mở rộng ngành nghề kinh doanh với
phương châm đa phương bạn hàng, đa dạng sản phẩm, tích cực tìm thị trường đầu
ra cho xuất khẩu.
Những cố gắng ấy dã có kết quả xứng đáng. Năm 1998, giá trị kim ngạch xuất
khẩu đạt 7,5 triệu USD, gấp hơn hai lần năm 1997. Những năm 1997 – 1998 là thời
điểm đột phá, tạo đà phát triển cho doanh nghiệp những năm về sau.Và đây là năm
đầu tiên công ty bắt đầu thâm nhập vào thị trường Mỹ. Có thể kể ra những nhân tố
sau đây đã thúc đẩy công ty thâm nhập vào thị trường Mỹ:
+ Đường lối của đảng và chính phủ thông thoáng tạo mọi cơ hội thuận lợi
nhất cho các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh,
đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường thế giới. Đặc biệt đáng chú ý là chính phủ đã
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
10
thông qua cơ chế điều hành xuất nhập khẩu của Việt nam giai đoạn 2001 – 2005.
Với cơ chế mới này mọi doanh nghiệp đều có thể tham gia vào hoạt động xuất nhập
khẩu, tiến tới xoá bỏ những rào cản pháp lý, thủ tục gây trở ngại cho hoạt động
xuất khẩu. Khả năng tiếp cận với thị trường Quốc tế trong đó có thị trường Mỹ của
các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản sẽ nhiều hơn, thuận lợi hơn.
+ Nhà nước dành nhiều sự quan tâm cho ngành thuỷ sản: Với những chương
trình hỗ trợ đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng của Ngành thuỷ sản; chương trình đánh

bắt xa bờ; chương trình đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ để phát triển
ngành thuỷ sản; với sự hỗ trợ toàn diện của Nhà nước, Trung tâm kiểm tra chất
lượng và vệ sinh thuỷ sản ra đời, trở thành cơ quan có thẩm quyền về kiểm soát vệ
sinh an toàn thực phẩm của ngành, hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường.
Mới đây chương trình chuyển đổi một số vùng trồng lúa sang phối hợp nuôi trồng
thuỷ sản đã mở ra khả năng to lớn cho sự phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam.
+ Nhà nước đã ký gần 80 hiệp định thương mại giữa Việt Nam và các nước
trong đó hiệp định thương mại Việt- Mỹ đã được thông qua vào tháng 12/2001 mở
ra khả năng to lớn cho thuỷ sản Việt Nam nói riêng và cho các hàng hoá xuất khẩu
nói chung có điều kiện thuận lợi xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
+ Sự ra đời hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt nam 12/6/1998 là
một mốc son tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ngành thuỷ sản năm bắt
thông tin, nâng cao khả năng tiếp thị, trao đổi kinh nghiệm hỗ trợ lẫn nhau trong
phát triển xuất khẩu trong đó có xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
+ Cùng với sự phát triển của ngành đã hình thành một lớp doanh nhân mới
am hiểu về thị trường, kinh nghiệm quản lý kinh doanh được tích luỹ, họ đã xây
dựng được các mối quan hệ thương mại tốt với các đối tác của Mỹ, đây là tiền đề
để duy trì và phát triển thị trường.
+ Chất lượng sản phẩm của công ty được quản lý theo tiêu chuẩn HACCP từ
năm 1999 và là một trong hai doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đầu tiên của miền
Bắc được Cộng đồng châu Âu cấp giấy phép xuất khẩu trực tiếp vào 15 nước thành
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
11
viên EU. Đây là thuận lợi đầu tiên giúp cho công ty xuất khẩu hàng thuỷ sản vào
thị trường Mỹ.
Tuy vậy, khi thâm nhập vào thị trường Mỹ công ty cũng đã gặp phải những
khó khăn như:
* Những nhân tố khách quan:
+ Thị trường Mỹ quá rộng và lớn, hệ thống luật pháp của Mỹ rất phức tạp.
Trong khi đó công ty mới tiếp cận thị trường này, sự hiểu biết về nó và kinh

nghiệm tiếp cận với thị trường chưa nhiều.
+ Thị trường Mỹ ở quá xa Việt Nam, chi phí vận tải và bảo hiểm lớn, điều
này làm cho chi phí kinh doanh hàng hoá từ Việt Nam đưa sang Mỹ tăng lên. Hơn
nữa thời gian vận chuyển dài làm cho hàng thuỷ sản tươi sống bị giảm về chất
lượng, tỷ lệ hao hụt tăng, đây cũng là nhân tố khách quan làm giảm tính cạnh tranh
của hàng thuỷ sản Việt Nam trên thị trường Mỹ so với hàng hoá từ các nước châu
Mỹ la tinh có điều kiện khí hậu tương tự ta đưa vào Mỹ.
+Tính cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất cao, thị trường Mỹ nhập khẩu hàng
thuỷ sản từ rất nhiều nước khác nhau trong đó có những nước có lợi thế tương tự
như Việt Nam đều coi thị trường Mỹ là thị trường chiến lược trong hoạt động xuất
khẩu, cho nên chính phủ và các doanh nghiệp của các nước này đều quan tâm đề
xuất các giải pháp hỗ trợ và thâm nhập dành thị phần trên thị trường Mỹ. Đây cũng
được xem là khó khăn khách quan tác động đến khả năng thúc đấy xuất khẩu thuỷ
sản của công ty vào thị trường này.
* Những nhân tố chủ quan
+ Năng lực chế biến thuỷ sản đông lạnh hiện tại được đánh giá là dư thừa so
với nguồn nguyên liệu hiện có . Đây là một trong các nguyên nhân dẫn đến việc
tranh mua nguyên liệu gay gắt giữa các doanh nghệp, giá nguyên liệu ngày một bị
đẩy lên cao, thêm vào đó , các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản phát triển nhanh hơn
tốc độ đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản đã làm giảm tính cạnh tranh về giá của sản
phẩm.
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
12
+ Cơ sở vật chất phục vụ cho đánh bắt, bảo quả và chế biến thuỷ sản đã được
cải thiện đáng kể nhưng tỷ lệ các cơ sở bảo quản, chế biến thuỷ sản mới đạt ở mức
trung bình và yếu còn chiếm tỷ trọng cao, đây là nhân tố tac động đến chất lượng
và vệ sinh an toàn của hàng thuỷ sản xuất khẩu.
+ Tỷ lệ hàng thuỷ sản xuất khẩu dưới dạng thô ít qua chế biến còn cao đây
cũng là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng gia tăng kim ngạch xuất khẩu, ảnh tới
việc tạo dựng sản phẩm thuỷ sản độc đáo riêng có của Việt Nam trên thị trường Mỹ

và cũng ít khai thác được lợi thế do giảm thuế suất thuế nhập khẩu mà hiệp định
thương mại Việt -Mỹ mang lại.
+ Một nhân tố nữa ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ
là tình trạng thiếu vốn kinh doanh ở tất cả các khâu: đánh bắt, nuôi trồng, chế biến,
thương mại. Công ty phải tự bươn trải vay vốn với lãi suất cao ảnh hưởng tới giá
thành thuỷ sản xuất khẩu.
Trong năm qua, mặc dù có nhiều khó khăn do các quy định kiểm tra của Mỹ, do
tình hình nguyên liệu không ổn định nhưng công ty xuất khẩu thuỷ sản II Quảng
Ninh vẫn hoàn thành kế hoạch nhà nước; giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 16 triệu
USD, tăng 17% so với năm 2001; sản xuất 7.685 tấn thành phẩm xuất khẩu sang
nhiều thị trường như Nhật Bản, Eu, Mỹ, Trung Quốc, Hồng Kông… Trong đó Mỹ
là thị trường nhập khẩu lớn nhất của công ty. Tuy vậy, khi kinh doanh trên thị
trường Mỹ, công ty đánh giá các cơ hội và thách thức luôn đi cùng nhau. Điều quan
trọng là phải biết khắc phục những khó khăn thử thách và phải biết nắm lấy những
cơ hội để vượt qua và phát triển.


Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
13
CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA MÔI TRƯỜNG LUẬT PHÁP MỸ ĐẾN
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY
Hiệp định thương mại Việt – Mỹ thông qua đã mở rộng cánh cửa cho công ty
đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ, một thị trường mà dung lượng hàng hóa và
khả năng tiêu thụ rất lớn. Tuy vậy, Mỹ là một thị trường còn khá mới mẻ đối với
công ty nên khả năng rủi ro xảy đến với công ty khi xuất khẩu sang Mỹ cũng lớn
hơn so với thị trường khác. Thách thức lớn đang đặt ra đối với công ty là hệ thống
luật pháp vô cùng phức tạp của Mỹ. Những quy định ngặt nghèo của Mỹ về hàng
hoá nhập khẩu là những trở ngại lớn đối với công ty và nếu không có sự nỗ lực cao,
công ty sẽ không dễ đàng vượt qua rào cản này.
Những khó khăn đối với công ty không phải do hệ thống pháp luật của Mỹ còn

có nhiều thiếu sót, thiếu đồng bộ, mà do hệ thống đó quá phức tạp. Ông Ngô Duy
Thực – Giám đốc công ty cho rằng: “ xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ phải xuyên qua
một rừng luật lệ. Những doanh nghiệp nào nắm bắt và hiểu rõ được những luật lệ
kinh doanh và tập quán tiêu thụ ở Mỹ mới có thể có khả năng gặt hái được ít nhiều
kết quả ở thị trường Mỹ”.
Tuy nhiên, công ty khó mà nắm bắt hết hệ thống luật lệ Liên bang và các bang
ở Mỹ. Chúng ta biết rằng, bên cạnh hệ thống pháp luật Liên bang, các bang ở Mỹ
đều có hệ thống pháp luật riêng.Trong đó có nhiều điều khoản điều chỉnh một vấn
đề lại khá khác biệt nhau.
Hơn nữa, các Thống đốc bang ở Mỹ đều có thẩm quyền rất lớn trong điều
chỉnh các hoạt động kinh tế thương mại. Chính vì khó khăn phức tạp như vậy, việc
xúc tiến nhập khẩu hàng hóa vào htị trường Mỹ thường phải thông qua các nhà môi
giới hải quan.
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
14
Một điểm đáng lưu ý khác là trong nhiều thập kỷ qua, chính sách thương mại
Mỹ luôn hướng tới tự do hoá thương mại toàn cầu (thông qua WTO), khu vực (các
hiệp định thương mại khu vực, như NAFTA), và đặc biệt ở cấp độ song phương với
hàng loạt hiệp định thương mại song phương giữa Mỹ với các nước khác.
Các quy định của Luật Thương mại Mỹ rất chặt chẽ. Và hệ thống Luật thuế
và thuế của Mỹ nổi tiếng là rắc rối và ngày càng phức tạp. Nhiều loại thuế ở 50
bang được áp dụng không chỉ ở cấp liên bang, bang mà còn ngay cả ở cấp thấp hơn
( cấp địa phương). Hơn nữa,người đóng thuế (cá nhân, công ty) đều phải tự khai
thu nhập và nộp thuế dựa trên thu nhập được khai, chứ không phải chờ cơ quan
thuế. Chính do sự phức tạp này mà ngay cả người dân Mỹ cũng phải thường xuyên
thuê dịch vụ của các nhà khai thuế chuyên nghiệp nhằm tránh rủi ro bị phạt do khai
sai, nộp chậm thuế…
Về phía công ty thuỷ sản II Quảng Ninh trong quan hệ buôn bán với Mỹ, nhất
là khi thực hiện xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ, công ty đã và đang gặp phải những
khó khăn trở ngại sau đây:

2.1. ĐỐI VỚI LUẬT THUẾ VÀ HẢI QUAN
Công ty thường gặp phải những rắc rối trong Luật Thuế và Hải quan (Tariff
and Customs Laws), như: cách định giá hàng nhập khẩu để tính thuế; phí thủ tục
Hải quan; những quy định về mác, mã, bao bì.
Điều cần thiết đối với công ty là hiểu được Hệ thống Danh bạ thuế quan
thống nhất của Mỹ (The Harmonised Tariff Skhedule of the United States - HTS)
để biết được sản phẩm của mình xuất khẩu vào Mỹ phải chịu thuế suất bao nhiêu.
Do thuế quan của Mỹ thường xuyên thay đổi nên Danh bạ HTS được đóng thành
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
15
những trang rời để khi thay đổi thì huỷ bỏ từng trang dễ dàng, không ảnh hưởng
đến toàn bộ Danh bạ. Vì vậy, công ty cần nắm vững Danh bạ HTS mới nhất để
nghiên cứu. Khi biết được mức thuế phải nộp đối với hàng hoá của mình, công ty
cần biết mình phải cạnh tranh với những nhà sản xuất kinh doanh nào về mặt hàng
đó tại Mỹ, đặc biệt là các nước đang phát triển như nước ta, được hưởng chế độ ưu
đãi Thuế phổ cập (Generalised System of Preferences – GSP). GSP là hệ thống
phức tạp, trong đó có nêu đầy đủ những yêu cầu được hưởng GSP. Tiếp theo, khi
công ty xuát khẩu hàng hoá vào Mỹ cũng cần phải biết rõ cách xác định giá trị hàng
hoá để thu thuế của Hải quan Mỹ. Hiện nay, Mỹ dùng phương pháp định giá theo
“giá trị giao dịch” (Transaction Value) để làm cơ sở chính cho việc định giá hàng
nhập khẩu để tính thuế.
Có thể thấy cách định giá hàng nhập khẩu để tính thuế như sau: Giá giao
dịch là giá thực sự đã trả hoặc sẽ phải trả cho hàng hoá khi để xuất sang Mỹ, và
cộng thêm với : chi phí đóng gói bao bì mà người mua phải chịu + hoa hồng bán
hàng mà người mua phải chịu + khoản chi phí mà người mua chi để hỗ trợ người
bán trong sản xuất hoặc xuất khẩu hàng đó + các loại hoa hồng ký vụ, phí xin giấy
phép mà người mua phải trả + các khoản chi mà người bán hưởg, phát sinh từ việc
tái xuất hoặc bán lại, hay sử dụng định đoạt hàng nhập khẩu ấy.
Giá thực sự đã trả hay sẽ phải trả ở quy định này là tổng chi phí mà người
mua thanh toán cho người bán, không kể giá cước vận tải quốc tế, bảo hiểm và các

loại phí kèm theo chung quanh giá CIF.
Trong Luật Thuế và Hải quan, công ty cũng cần phải chú ý đến Phí thủ tục
Hải quan ( Customs User Fees). Luật Hải quan và Thương mại cho phép Hải quan
Mỹ được thu phí làm thủ tục hải quan cho các chuyến hàng nhập khẩu, cho các
phương tiện vận tải, hành khách, chuyển thư, bưu kiện… Việc thu phí này phù hợp
với WTO, không mang tính chất thuế, không mang tính chất của hàng rào bảo hộ
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
16
mậu dịch gián tiếp. Loại phí này có tên là Phí thủ tục hàng hoá (Merchandise
Processing Fee: MPF).
Những quy định về mác , mã là những quy định mà công ty cần hết sức lưu
ý khi xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ: mọi hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ ngoại quốc
phải ghi rõ ràng, không tẩy xoá được, ở chỗ dễ nhìn thấy trên bao bì xuất hập khẩu
tên người mua cuối cùng ở Mỹ, tên bằng tiếng Anh nước xuất xứ hàng hoá đó. Trên
các bao bì, vật dùng chứa đựng bao bì tiêu dùng của hàng hoá đó tới tay cuối cùng
cũng phải ghi rõ xuất xứ của hàng hoá bên trong. Nếu không tuân thủ những quy
định này sẽ bị phạt mức 10% giá trị lô hàng, phải thực hiện thêm một số yêu cầu và
vẫn phải thực hiện nghĩa vụ mác mã. Hàng nhập khẩu không đáp ứng yêu cầu về
mác mã sẽ bị giữ lại ở khu vực Hải quan Mỹ cho đến người nhập khẩu thu xếp tái
xuất, phá huỷ hoặc cho đến khi hàng được xem là bỏ để Chính phủ định đoạt hoặc
từng phần. Ai cố tình vi pham hoặc che giấu sẽ bị phạt tiền 5 nghìn USD hoặc bỏ
tù; trường hợp có sự phối hợp với nước ngoài để thay đổi tẩy xoá mác mã về xuất
xứ hàng hoá thì bị phạt 100 nghìn USD lần đầu, nếu tái phạm sẽ bị phạt 250 nghìn
USD.
2.2. ĐỐI VỚI LUẬT KHẮC PHỤC NHỮNG BẤT LỢI TRONG THƯƠNG MẠI
MỸ
Mặc dù đã có những hiểu biết về Luật khắc phục những bất lợi trong thương
mại Mỹ nhưng việc áp dụng nó vào thực tiễn đối với công ty đang là vấn đề hết sức
khó khăn.
Trong Luật khắc phục những bất lợi trong thương mại Mỹ có hai luật rất

quan rọng cần chú ý là: Luật thuế đối kháng(Countervailing Duty Laws – CVD) và
Luật chống bán phá giá(Anti – dumping Laws – AD).
2.2.1. Luật thuế đối kháng
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
17
CVD được áp dụng nếu Bộ thương mại Mỹ điều tra xác định rằng có tình
trạng trợ cấp trực tiếp hoặc gián tiếp cho việc chế tạo, sản xuất, xuất khẩu một mặt
hàng nào đó vào Mỹ của nước xuất khẩu; ngành công nghiệp Mỹ sản xuất ra hàng
hoá đó hoặc liên quan đến hàng hoá đó bị tổn thương hoặc đe doạ bị tổn thương về
mặt vật chất; xác định mức độ mà nước xuất khẩu ấy trợ cấp thì Mỹ sẽ áp đặt ngay
mức thuế đối kháng. Đây là mức thuế đánh bổ sung thêm vào mức thuế hiện hành,
mức thuế đối kháng bằng mức trợ cấp của nước xuất khẩu mà Bộ thương mại điều
tra được trình Tổng thống phê duyệt.
2.2.2. Luật chống bán phá giá
Giống như CVD, AD ra đời nhằm bảo vệ nền công nghiệp trong nước của
Mỹ. Luật này cho phép đánh một mức thuế bổ sung vào mức thuế hiện hành khi Bộ
Thương mại Mỹ điều tra và khẳng định rằng, hàng đang bán hoặc sẽ bán vào nước
Mỹ thấp hơn giá trị thực sự của nó (phá giá); hoặc Ủy ban Thương mại quốc tế Mỹ
(ITC) khẳng định rằng, một ngành công nghiệp trong nước bị tổn thương, hoặc đe
doạ bị tổn thương về mặt vật chất do Mỹ nhập khẩu mặt hàng bán phá giá ấy. Sau
khi điều tra và kkhẳng định có bán phá giá, Mỹ sẽ áp dụng ngay thuế chống phá giá
với mức thuế ngang với mức hàng đó đã bán thấp hơn giá trị đích thực của nó trong
tương quan so sánh với giá bán tại Mỹ.
Có thể nói rằng, sự kiện Mỹ điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá đối
với cá tra và cá basa nhập khẩu từ Việt Nam trong thời gian vừa qua đã đem lại một
bài học xương máu cho công ty xuất khẩu thuỷ sản II Quảng Ninh nói riêng và các
công ty đang kinh doanh trên thị trường Mỹ nói chung.
Việt Nam và Mỹ đã gặt hái được những kết quả tích trong năm đầu thực
hiện Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ, nhưng khó khăn và mâu thuẫn đã xuất hiện,
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

18
trong đó không thể không nói đến “cuộc chiến” cá tra – cá basa mà Mỹ đã tạo nên
trong thời gian qua.
Catfish? Ở Việt Nam ta và ở Mỹ, cũng như nhiều nước khác trên thế giới
đều có loại cá thuộc họ da trơn (không có vảy) và đều có râu như cá trê, cá lăng, cá
bông lau, cá nheo, cá tra, cá basa,… Vì chúng có râu nên tiếng Anh gọi là Cá mèo
(Catfish), tên khoa học gọi chung là Siluriformes, đây là tên gọi chung cho khoảng
2.500 đến 3.000 loài cá thuộc họ (bộ) cá da trơn phân bố trên khắp thế giới (vì là
như nhau, do đó để cho tiện, tuỳ chỗ em sẽ viết là basa, hoặc là catfish).
Tại sao có “cuộc chiến”? Vì ở Việt Nam có cá basa, Việt Nam và Mỹ đã
có bình thường các mối quan hệ, có Hiệp định Thương mại song phương và đều
muốn tuân thủ các quy định của WTO để xem xét các mối quan hệ kinh tế song
phương, dù Việt Nam chưa là thành viên, và vì người Mỹ ưa xài cá basa cuat Việt
Nam nên Việt Nam xuất khẩu cá basa sang mỹ, cá basa của Việt Nam thơm ngon
và rẻ, và người Mỹ cũng sành ăn nên mua nhiều, để phục vụ tốt hơn cho người tiêu
dùng Mỹ, các ngư dân của Việt Nam đã lao động chăm chỉ và sáng tạo để nuôi cá
ngon và xuất khẩu nhiều hơn vào Mỹ.
Đến đây đã xuất hiện vấn đề, ở Mỹ người ta(“Người ta” là những người
Mỹ liên quan đến việc kiện tụng cá basa của Việt Nam bán sang Mỹ) nói rằng, vì
ngư dân Mỹ nuôi cá catfish bị ngư dân Việt Nam cạnh tranh không lành mạnh, như
dùng tên sản phẩm cá không đúng, như bán phá giá,… để ngư dân Mỹ lâm vào
cảnh đói nghèo, và họ đâm đơn kiện Việt Nam. Nhưng xem xét cụ thể (cả người
Mỹ, người Việt Nam và người các nước khác) thì không như vậy. Không có như
vậy vì đến khi có vấn đề năm 2001, ở Mỹ cá basa của Việt Nam chỉ mới chiếm
5,59% tổng giá trị (Mỹ bán được 385 triệu USD, Việt Nam bán được 21.509.704
USD) và 5,4% trọng lượng (lượng cá tiêu thụ ở Mỹ: khoảng 295 – 297 triệu Pound,
lượng cá nhập từ Việt Nam là 16 triệu Pound – 1 Pound = 0,454 kg) và cá basa
cũng chưa cung cấp được cho tất cả các bang của Mỹ.
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
19

Vậy vấn đề là gì và ở chỗ nào? Trứơc tiên, về lý thuyết kinh tế. Có rất
nhiều lý thuyết kinh tế chứng minh rằng làm ăn kinh tế phải nắm vững lý thuyết
kinh tế. Những lý thuyết về cạnh tranh, cung – cầu, chi phí và sản lượng, tính phi
kinh tế vì quy mô, quy luật lợi tức giảm dần,… đều bắt buộc người nào muốn làm
ăn kinh doanh phải nắm vững lý thuyết kinh tế. Các nhà sản xuất và kinh doanh cá
catfish ở Mỹ chắc cũng biết chắc chắn như vậy. Nhưng thực tế họ (hoặc những
người đứng sau lưng họ) không hành xử như vậy, vì họ cho rằng chính phủ và luật
pháp Mỹ ủng hộ họ. Do nắm bắt tốt thị trường Mỹ, và do độc quyền sản xuất kinh
doanh, ngư dân các bang miền Nam nước Mỹ đã nhanh chóng tăng diện tích mặt hồ
nuôi cá từ 147.146 mẫu năm 1995 lên 185.700 mẵu năm 2001 (tăng trên 26%,
nghĩa là tăng trung bình trên 4% hàng năm). Theo số liệu của tạp chí Châu Mỹ
ngày nay được trích dẫn theo các nguồn của Mỹ, giá bán catfish tại Mỹ năm 1990
trung bình là 78 cent/pound, năm 1991: 65cent/pound; năm 2000: 75 cent/pound;
năm 2001: 65 cent/pound; trong khi đó mức nhập khẩu theo các năm tương ứng là:
4 triệu pound; 5,2 triệu pound; 8,2 triệu pound và 16 triệu pound. Các mức nhập
khẩu này chiếm những thị phần nhất định cá catfish bán ở Mỹ. Năm 1986 nhập
khẩu chiếm 6,7% thị phần, giá bán là 67cent/pound, năm 2001 nhập khẩu chiếm
5,2% thị phần, giá bán 65cent/pound, điều này có nghĩa là mức nhập khẩu ít hay
nhiều chưa có khả năng tác động tới sự dao động giá cả cá catfish bán ra ở Mỹ.
Theo các báo cáo của nhiều cơ quan của chính phủ Mỹ và viện nghiên cứu tư nhân
độc lập ở Mỹ, thì nguyên nhân làm giảm cá catfish ở Mỹ, gây ảnh hưởng đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh của ngư dân ở Mỹ không phải là do những nguyên nhân
khách quan nhập khẩu cá từ nước ngoài, đặc biệt từ Việt Nam, mà là do ở Mỹ giá
thức ăn của cá giảm (chi phí giảm), diện tích nuôi tăng làm tăng cung cấp cá
nguyên liệu, giá thịt gà, sản phẩm cạnh tranh trực tiếp với cá giảm, nền kinh tế thế
giới suy giảm, kinh tế Mỹ suy thoái… tất cả đã làm cho hiệu quả kinh doanh và lợi
tức của các nhà sản xuất kinh doanh cá catfish của Mỹ bị giảm sút là tất yếu.
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
20
Những điều này có thể hiểu qua lý thuyết của các sách giáo khoa kinh tế ở Mỹ,

cũng như tài liệu thực tế ở Mỹ và trên toàn thế giới.
Nhưng những người nuôi cá catfish ở Mỹ (hay những người đứng đằng sau
họ tổ chức việc kiện tụng) lại không cam chịu việc họ sản xuất kém hiệu quả, họ
không tìm lời giải đáp ở chính bản thân quá trình sản xuất kinh doanh của họ, mà
tìm cách cấm người khác cạnh tranh để duy trì tình trạng độc quyền trên thị trường
Mỹ. Ai là người phải gánh chịu hạu quả của tình trạng này? Thực tế hiện nay Việt
Nam là nước xuất khẩu cá tra, cá basa nhiều vào Mỹ, vậy những người ngư dân
Việt Nam (theo quan điểm của Mỹ) phải chịu hậu quả của tình trạng đó, mặc dù
những ngư dân Việt Nam cũng cần cù khó nhọc như hoặc hơn họ.
Diễn biến của tiến trình sự kiện có thể được trình bày một phần logic của
vấn đề như sau: Những người khởi xướng chống nhập khẩu cá từ Việt Nam ban
đầu muốn có một lệnh cấm nhập cá từ Việt Nam, nhưng theo luật cảu Mỹ và của
quốc tế là không thể được. Họ đã tìm cách khác, đó là Việt Nam có thể cứ xuất
khẩu vào Mỹ, nhưng không được gọi cá catfish là cá catfish mà phải gọi tên khác,
tuỳ Việt Nam. Mặc dù nhiều nhà khoa học Mỹ và các cơ quan chức năng của chính
phủ Mỹ đều khẳng định cá của Việt Nam là cá catfish, dù đó là catfish châu Á hay
catfish Việt Nam thì đều là catfish giống như của Mỹ. Và Việt Nam cũng đã phải
gọi tên khác đi khi xuất khẩu cá vào Mỹ. Mặc dù tên sản phẩm có phần khác đi,
nhưng thị trường Mỹ vẫn thích dùng cá Việt Nam, các nhà nhập khẩu cứ tiếp tục
nhập. Vậy thì mục đích của người khởi xướng không thực hiện được. Họ chuyển
chiến thuật, tố cáo Việt Nam bán phá giá vào thị trường Mỹ để áp dụng Luật chống
phá giá và luật thuế chống trợ giá nhằm “bù đắp thiệt hại từ việc trao đổi thương
mại không công bằng”, cá Việt Nam còn dư lượng chất độc màu da cam…! Nhưng
liền ngay sau đó, nhiều nhà khoa học của Mỹ, của thế giới cũng như của Việt Nam
đã lên tiếng cho rằng cá Việt Nam bảo đảm chất lượng, vệ sinh, an toàn thực phẩm
theo đúng tiêu chuẩn của Mỹ, các cơ quan chức năng của chính phủ Mỹ phụ trách
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
21
những vấn đề này cũng nhận định như vậy, nhiều thị trường khó tính khác đang
nhập cá của Việt Nam và chi phí sản xuất thấp, kinh nghiệm sản xuất… của các

nhà nuôi cá Việt Nam đã bảo đảm cho giá cá bán ở Mỹ là thấp, tuyệt nhiên không
có bán phá giá (bán phá giá có nghĩa là chi phí để sản xuất ra 1kg cá cao hơn giá
bán 1kg cá, nghĩa là nhà nước hoặc ai đó đã trợ giá khi thực hiện xuất khẩu vào
Mỹ, điều này cũng đã được chứng minh là không có căn cứ trong trường hợp cá
Việt Nam xuất sang Mỹ). Vậy cứ nói suông Việt Nam bán phá giá cá là quá khó
nghe. Họ tìm cách tính toán theo phương pháp như kiểu cá không phải là cá để cho
chi phí sản xuất và xuất khẩu 1kg cá ở Việt nam buộc phải cao hơn giá bán 1kg cá
của Việt Nam ở Mỹ, như thế mới kết luận được Việt Nam bán phá giá.
Một cứu cánh đã đến, họ viện dẫn một điều luật về nền kinh tế phi thị
trường có từ thời Đại khủng hoảng 1929 – 1933, lúc nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà hay CHXHCN Việt Nam chưa ra đời, hệ thống xã hội chưa xuất hiện (nghĩa là
điều luật đó khởi đầu là để chống lại nhà nước Liên bang Cộng hoà XHCN Xô viết,
chứ chẳng lẽ lại chống lại nước Mông cổ du mục?), dù sau này có bổ sung nâng câp
để xem xét tương quan quan hệ với các nước XHCN trong việc xác định giá cả
không phản ánh đúng quy luật cung – cầu, giá cả các yếu tố sản xuất. Mục đích
nguy hiểm của việc này là: phải kết luận nền kinh tế của Việt Nam phải là nền kinh
tế phi thị trường, để làm điều kiện tiên quyết cho việc thắng kiện. Khi là nền kinh tế
phi thị trường thì các chi phí sản xuất kinh doanh xuất khẩu sẽ được tính toán hoàn
toàn không đúng với tình hình thực tế hiện nay trong nuôi và sản xuất xuất khẩu cá
của ngư dân Việt Nam không được sự hỗ trợ của nhà nước (đây là ngành sản xuất
có hiệu quả cao, nhà nước không có lý do gì để can thiệp và hỗ trợ).
Thực ra ngay trong thực tiễn ngày nay, khó ai có thể tìm ra một nền kinh tế
thị trường thuần tuý, hay một nền kinh tế XHCN thuần tuý, hay một nền kinh tế phi
thị trường thuần tuý. Chúng chỉ có trong lý thuyết để giảng dạy cho người học nghe
thôi. Tất cả đều trong quá trình biến đổi không ngừng.
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
22
Nền kinh tế Việt Nam, nền kinh tế Mỹ hay nhiều nền kinh tế khác đều là
những nền kinh tế thị trường hỗn hợp không thuần khiết, bằng cách này hay bằng
cách khác đều chịu sự điều tiết của nhà nước, mà hiện nay, nền kinh tế Mỹ được

điều tiết bởi nhà nước Mỹ nhiều hơn so với nền kinh tế Việt Nam được điều tiết bởi
nhà nước Việt Nam.
Nhiều người, nhất là người Mỹ coi nền kinh tế Mỹ là nền kinh tế thị trường
tự do hay nền kinh tế hỗn hợp. Gần đây, giáo sư Michael Spence (người được giải
thưởng Nobel về kinh tế) khi trả lời phỏng vấn Tuần báo “Thế giới Chủ nhật” của
CHLB Đức đã cho rằng nền kinh tế Mỹ là một nền kinh tế nửa thị trường, nửa nhà
nước (khi được hỏi: Phải chăng có sự cân bằng giữa thị trường và nhà nước trong
một nền kinh tế quốc dân? Ông trả lời: có, nhưng nó có thể được xê dịch, tuỳ theo
từng nước và tuỳ theo đặc điểm tình hình…ở Mỹ chúng tôi đã có một sự cân bằng
tương tự như vậy, còn ở châu Âu và ở Đức, tôi thấy vai trò của thị trường có thể
lớn hơn. Thị trường ở đây cần sự cạnh tranh lớn hơn nữa).
Vậy thì, việc kết luận Việt Nam có nền kinh tế phi thị trường hay Mỹ có
nền kinh tế phi thị trường là vấn đề lý luận, học thuật. Lấy một vấn đề lý luận, học
thuật chưa có hay không thể có kết luận rõ ràng để làm chuẩn cho việc xác định
một chi phí kinh tế cụ thể là việc làm phi khoa học, không nên có. Còn vấn đề thực
tiễn và logic của CFA (Hiệp hội các chủ trại nuôi cá catfish ở Mỹ – tổ chức đứng
đầu cuộc chiến chống cá tra, cá basa của Việt Nam) phải là: Việt Nam phải là có
nền kinh tế phi thị trường, và dù chi phí sản xuất xuất khẩu cá của Việt Nam được
tính theo bất cứ kiểu nào mà thấp hơn giá bán của nó ở Mỹ là không được, mà tính
theo kiểu nào cũng phải có kết quả cao hơn để kết luận Việt Nam bán phá giá.
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) cho rằng phía
các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam không chủ trương đối đầu với phía Mỹ và
mong muốn có những giải pháp thoả đáng để các doanh nghiệp Việt Nam có thể
cạnh tranh lành mạnh, cùng có lợi trên thị trường Mỹ. Phía Việt Nam đã hợp tác có
thiện chí với các tổ chức hữu quan Mỹ, Bộ Thương mại Mỹ,… để xem xét các vấn
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
23
đề “bán phá giá”, “tình trạng khẩn cấp”, “nền kinh tế phi thị trường” đã được nêu
nên không đúng đắn. “Trong trường hợp Bộ thương mại Hoa kỳ đưa ra kết luận
cuối cùng thiếu khách quan, gây bất lợi cho phía các doanh nghiệp Việt Nam,

VASEP rất hiểu rõ thế mạnh pháp lý của mình trong vụ kiện này và sẽ quyết tâm
theo đuổi vụ kiện đến giai đoạn cuối cùng, là điều trần tại uỷ ban Thương mại Quốc
tế Hoa Kỳ”.
Mặc dù Việt Nam đã rất quyết tâm, nỗ lực và cố gắng nhưng với sự không
tương xứng giữa thế và lực, dẫn đến “cá lớn nuốt cá bé” và cuối cùng cá catfish của
Mỹ đã thắng kiện.
Qua phân tích trên ta thấy, công ty sẽ gặp nhiều khó khăn dù trong tình
huống phải đương đầu với việc hàng xuất khẩu của công ty bị Mỹ điều tra chống
bán phá giá hay khi công ty chủ động điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá
đối với hàng nhập khẩu từ nước Mỹ.
Khó khăn lớn nhất ở đây là công ty hầu như chưa biết gì về luật thương
mại quốc tế liên quan tới bán phá giá. Hầu hết các cán bộ của công ty chịu trách
nhiệm về vấn đề này còn thiếu kiến thức về các khía cạnh kinh tế của hiện tượng
bán phá giá và luật quốc tế điều chỉnh hành vi này. Cho đến nay, công ty chưa lần
nào điều tra bán phá giá. Kinh nghiệm đối phó với hàng xuất khẩu của công ty bị
điều tra phá giá còn ít. Hơn thế nữa, công ty cũng chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề
bán phá giá. Trong bối cảnh như vậy công ty cũng không có luật sư hay nhà tư vấn
nào có kiến thức đầy đủ hay có kinh nghiệm phong phú về bán phá giá cả.
Trong khi đó, để đối phó thành công ở mỗi vụ tranh chấp về bán phá giá,
sự phối hợp nhịp nhàng giữa nhiều bên liên quan là yếu tố sống còn. Chẳng hạn,
phải có một cơ quan đầu mối về các tranh chấp liên quan tới bán phá giá. Cơ quan
này phải cộng tác chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan và phối hợp hành động với
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
24
các nhà sản xuất, các nhà xuất khẩu hay nhập khẩu, hội bảo vệ người tiêu dùng…
Vì thế, bên cạnh khó khăn lớn nhất về thiếu kiến thức và kinh nghiệm thì sự phối
hợp không đồng bộ của các cơ quan hữu quan là khó khăn lớn thứ hai của công ty
về vấn đề này.
Khó khăn thứ ba là hệ thống pháp luật về kinh tế – thương mại của nước ta
còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Mặc dù hệ thống pháp luật về

kinh tế – thương mại của chúng ta đã được xây dựng mới, bổ sung và sửa đổi liên
tục nhưng rõ ràng là trong một giai đoạn ngắn như vậy hệ thống pháp luật của
chúng ta chưa thể đầy đủ và phù hợp với luật thương mại quốc tế ngay được. Trong
lĩnh vực chống bán phá giá, chúng ta chưa có luật để đối phó với hàng nhập khẩu
vào Việt Nam bị bán phá giá cũng như những quy định cần thiết để đối phó với
hàng xuất khẩu của chúng ta bị các đối tác thương mại khác áp dụng biện pháp này.
Trong việc đối phó với biện pháp chống phá giá cũng cần cải tổ hệ thống
toà án. Nhà nhập khẩu có thể kiện ra toà các quyết định liên quan tới biện pháp
chống phá giá của cơ quan hành chính có thẩm quyền. Trong trường hợp ta chủ
động áp dụng biện pháp chống bán phá giá thì hệ thống toà án của ta có lẽ chưa đủ
điều kiện để giải quyết khiếu kiện kiểu này, còn trong trường hợp ta phải đối phó
với biện pháp chống bán phá giá của các đối tác khác thì chúng ta cũng chưa có
kinh nghiệm sử dụng cơ chế kiện ra toà chống lại quyết định của các cơ quan hành
chính có thẩm quyền của họ.
Trên thực tế, chính sách thương mại quốc tế chịu ảnh hưởng bởi quan hệ
chính trị giữa các đối tác. Các biện pháp chống phá giá cũng không nằm ngoài quy
luật đó. Trong trường hợp hàng xuất khẩu của Việt Nam bị nước ngoài điều tra áp
dụng biện pháp chống bán phá giá, chúng ta có thể gây áp lực chính trị với họ.
Nhưng với tiềm lực kinh tế, quốc phòng, khoa học kỹ thuật… của chúng ta hiện
Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42
25

×