Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Điều tra tình hình mắc bệnh phân trắng lợn con và biện pháp phòng trị bệnh tại Trung tâm nghiên cứu lợn Thuỵ Phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.91 KB, 61 trang )

Phần I

MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăn nuôi lợn là nghề truyền thống ở nước ta nhưng để chăn nuôi lợn phát
triển tốt hơn theo hướng gắn với thị trường, an tồn dịch bệnh, vệ sinh thú y,
bảo vệ mơi trường nhằm nâng cao năng suất chất lượng, hiệu quả và vệ sinh an
toàn thực phẩm, các địa phương đang đẩy mạnh phát triển các sản phẩm chăn
ni có lợi thế và khả năng cạnh tranh, khuyến khích các tổ chức cá nhân đầu tư
chăn nuôi theo hướng trang trại, hỗ trợ tạo điều kiện cho các hộ chăn nuôi
truyền thống chuyển dần sang chăn nuôi trang trại và công nghiệp.
Cùng với việc chăn ni được mở rộng thì dịch bệnh là yếu tố đã ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả chăn nuôi. Một trong những bệnh gây thiệt hại
kinh tế cho các cơ sở chăn nuôi lợn sinh sản là bệnh phân trắng lợn con ở giai
đoạn sơ sinh đến 21 ngày tuổi. Bệnh xảy ra khắp nơi trên thế giới. Ở các nước
đang phát triển như Việt Nam bệnh xảy ra hầu như quanh năm, đặc biệt khi thời
tiết có sự thay đổi đột ngột (lạnh, ẩm, gió lùa) kết hợp với điều kiện chăm sóc
ni dưỡng khơng đảm bảo vệ sinh; lợn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố stress, lợn
con sinh ra không được bú sữa kịp thời hoặc do sữa đầu của mẹ thiếu không
đảm bảo chất lượng dinh dưỡng. Khi lợn con mắc bệnh nếu điều trị kém hiệu
quả sẽ gây còi cọc chậm lớn ảnh hưởng đến giống cũng như khả năng tăng
trọng của chúng, gây tổn thất lớn về kinh tế. Do đó, phịng tiêu chảy cho lợn con
góp phần làm tăng hiệu quả chăn nuôi lợn sinh sản, đảm bảo cung cấp con
giống có chất lượng tốt.
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu trong nước về hội chứng tiêu chảy ở
lợn con và đưa ra các biện pháp phịng trị bệnh, góp phần không nhỏ trong việc
hạn chế những thiệt hại do tiêu chảy gây ra ở lợn con theo mẹ. Tuy nhiên sự

1



phức tạp của cơ chế gây bệnh, những tác động phối hợp của các nguyên nhân,
đặc điểm cơ thể gia súc non… đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc ứng dụng các
kết quả nghiên cứu. Vì thế các giải pháp đưa ra chưa thực sự đem lại kết quả
mong muốn. Hội chứng tiêu chảy ở lợn con theo mẹ vẫn là nguyên nhân gây
thiệt hại lớn cho các cơ sở chăn nuôi lợn.
Xuất phát từ thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Điều
tra tình hình mắc bệnh phân trắng lợn con và biện pháp phòng trị bệnh tại
Trung tâm nghiên cứu lợn Thuỵ Phương”.
1.2. MỤC ĐÍCH ĐỀ TÀI
- Tìm hiểu quy trình chăn ni, vệ sinh phòng bệnh tại Trung tâm nghiên
cứu lợn Thuỵ Phương.
- Điều tra tình hình mắc bệnh phân trắng lợn con ở giai đoạn theo mẹ.
- Ứng dụng một số phác đồ điều trị tiêu chảy ở lợn con theo mẹ.

2


Phần II

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BỆNH LỢN CON PHÂN
TRẮNG TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
Bệnh phân trắng lợn con rất hay gặp trong chăn nuôi lợn. Bệnh gây thiệt
hại không nhỏ cho ngành chăn nuôi, làm giảm tăng trọng, lợn con dễ bị suy kiệt
và chết.
2.2.1. Một số nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới đã có rất nhiều nhà khoa học đi sâu nghiên cứu về bệnh phân
trắng lợn con.
Theo Purvis G.M. và cộng sự (1985) cho rằng phương thức cho ăn không
phù hợp là nguyên nhân quan trọng gây tiêu chảy ở lợn.

Niconxki V.V. (1971) đã nhấn mạnh “Khi cơ thể gia súc non bị lạnh kéo
dài sẽ làm giảm phản ứng miễn dịch, giảm số lượng bạch cầu và tác dụng thực
bào, giảm khả năng diệt trùng của máu do đó gia súc dễ bị vi khuẩn tấn công”.
Năm 1992, Fairbrother J.M và cộng sự cho biết độc tố Enterotoxin do
E.coli sinh ra Enterotoxinogenic Escherichia coli (ETEC) gây ỉa chảy trầm trọng
cho lợn sơ sinh từ 1 – 4 ngày tuổi.
Năm 1972, Mouwen đã kết luận niêm mạc ruột non của lợn có sự biến đổi
lớn trong trường hợp lợn con ỉa phân trắng do Rotavirus.
Akita và cộng sự (1993) đã nghiên cứu sản xuất kháng thể đặc hiệu qua
lòng đỏ trứng gà dùng trong phòng và chữa bệnh tiêu chảy ở lợn con.
2.1.2. Những nghiên cứu về bệnh ở Việt Nam
Bệnh phân trắng lợn con ở nước ta đã được nghiên cứu từ năm 1959 tại các
cơ sở chăn nuôi tập trung (trại chăn nuôi và các nông trường quốc doanh).
Năm 1993, Lê Văn Tạo và cộng sự đã nghiên cứu các yếu tố gây bệnh của

3


các chủng E.coli gây bệnh, chọn chủng E.coli để chế tạo vacxin chết dưới dạng
cho uống. Vacxin dùng cho lợn con sau đẻ 2 giờ, uống với liều 1ml/con, liên tục
trong 3- 5 ngày. Kết quả làm giảm tỷ lệ mắc bệnh phân trắng lợn con từ 3035% so với đối chứng.
Theo Nguyễn Như Thanh và cộng sự (2001) thì bệnh phân trắng lợn con là
một hội chứng hay nói cách khác là một trạng thái lâm sàng rất đa dạng, đặc
biệt là dạng viêm dạ dày ruột, tiêu chảy và gầy sút nhanh. Tác nhân gây bệnh
chủ yếu là E.coli, ngồi ra có sự tham gia của Salmonella và vai trò thứ yếu là
Proteus, Streptococcus. Bệnh xảy ra quanh năm ở những nơi tập trung nhiều gia
súc, bệnh thường phát mạnh từ mùa đông sang mùa hè (tháng 11 đến tháng 5)
đặc biệt khi thời tiết thay đổi đột ngột (từ oi bức chuyển sang mưa rào, từ khô
ẩm chuyển sang rét). Tỷ lệ mắc bệnh tới 50% và tỷ lệ chết tới 30- 45% (Nguyễn
Như Thanh, 1997).

Lý Thị Liên Khai (2001) đã phân lập và xác định độc tố ruột của các chủng
E.coli gây bệnh tiêu chảy cho lợn con. Tác giả cho rằng các chủng K88 sinh độc
tố ruột LT và ST; K99 và 987P sinh độc tố ruột ST, độc tố ruột ST trở nên rất
độc khi sức đề kháng của vật chủ giảm, gây tiêu chảy cho lợn con đang bú mẹ,
phổ biến ở 1 đến 2 tuần tuổi.
Theo Đỗ Ngọc Thuý và Cù Hữu Phú (2002), các chủng Enterotoxinogenic
Escherichia coli (ETEC) gây bệnh cho lợn con ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam
thuộc về 5 tổ hợp các yếu tố gây bệnh và 5 nhóm serotyp kháng nguyên O (O 149:
K91, O8: G7, O8, O101, O64). Trong đó chủng O149: K91 mang các yếu tố gây bệnh F4/
STa/STb/LT là chủng phổ biến nhất gây bệnh tiêu chảy ở lợn con trước cai sữa.
Trần Thị Hạnh và Đặng Xn Bình (2002) cơng bố lợn con theo mẹ đều
phân lập được E.coli và Cl.perfigens ở hầu hết các cơ quan phủ tạng, trong đó sự
có mặt của E.coli luôn chiếm một tỷ lệ cao và rất phổ biến, vi khuẩn yếm khí
Cl.perfingens chỉ được phát hiện ở gan, và ruột non với một tỷ lệ khá cao. Khi

4


sử dụng các sinh phẩm E.coli-sữa, Cl.perfrigfens-toxoit trong quy trình phòng
bệnh tiêu chảy cho lợn con, kết quả thu được bước đầu cho thấy tác dụng và
hiệu quả khá rõ rệt: đã giảm được số lợn con bị mắc bệnh (28,12% so với
55,5%), số ngày điều trị cho mỗi lợn bệnh cũng rút ngắn từ 3 ngày xuống còn
1,8 ngày và khống chế được tỷ lệ lợn con chết do bị tiêu chảy (7,4% so với đối
chứng). Ngoài ra, các sinh phẩm còn cho thấy hiệu quả kinh tế khi khối lượng
bình quân lúc cai sữa của lợn con được nâng lên 0,46 kg/con và 1,37 kg/con so
với đối chứng.
Đoàn Thị Kim Dung (2003) dùng Apramycin hoặc Apramycin phối hợp
với Bioseptin có tác dụng tốt nhất đối với bệnh tiêu chảy ở lợn con (dùng riêng
khỏi 80%, dùng phối hợp khỏi 98%). Bên cạnh đó các phác đồ điều trị đều
không thể thiếu được việc bổ sung các chất điện giải cho lợn bệnh vì nó nâng

cao hiệu quả điều trị, rút ngắn thời gian điều trị.
Theo tác giả Đinh Xuân Phát và cộng sự (2005),việc dùng kháng thể chiết
tác từ lỏng đỏ trứng đã khống chế bệnh cho hiệu quả cao. Sau khi chế tạo thành
công kháng thể E.coli dạng bột từ lòng đỏ trứng gà đã được miễn dịch các chủng
K88; K99; 987P.
Trịnh Quang Tuyên (2005) qua nghiên cứu cho rằng tỷ lệ nhiễm vi khuẩn
môi sinh trong các trại chăn ni tập trung cao và có liên quan đến tình hình dịch
bệnh của đàn lợn. Trong đó E.coli có tỷ lệ nhiễm từ 28,5% đến 44,1%,
Staphylococcus spp từ 29,8% đến 38,9%, Streptococcus spp từ 24,3% đến 41,3%,
giảm xuống khi cơ sở chăn nuôi được cải tạo chuồng trại và nguồn nước cấp.
2.2. ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ CỦA LỢN CON
2.2.1. Đặc điểm tiêu hoá của lợn con
Lợn con mới sinh ra sống nhờ vào sữa mẹ, sau khi cai sữa cơ thể lợn trải
qua một quá trình thay đổi khơng ngừng về hình thái, cấu tạo và sinh lý của ống
tiêu hố để thích ứng với điều kiện mới.

5


Sau khi sinh ra, ở lợn con chức năng tiêu hố của dạ dày cịn hạn chế, dễ
gây rối loạn trao đổi chất mà hậu quả là rối loạn tiêu hố, gây tiêu chảy, cịi cọc,
thiếu máu và chậm lớn.
Lợn con trước 1 tháng tuổi có hàm lượng HCl tự do trong dạ dày rất ít, giai
đoạn này gọi là giai đoạn thích ứng cần thiết tự nhiên giúp cơ thể thẩm thấu
được các kháng thể miễn dịch trong sữa đầu của lợn mẹ. Dịch vị khơng có hoạt
tính phân giải protein mà chỉ có hoạt tính làm vón sữa đầu, albumin và globulin
được chuyển xuống ruột để vào máu.
Tuy nhiên, lợn con trên 14 - 16 ngày tuổi tình trạng thiếu HCl ở dạ dày
khơng cịn là sự cần thiết cho sinh lý bình thường nữa (Đào Trọng Đạt và cộng
sự, 1986). Vì vậy, việc tập cho lợn con ăn sớm đã rút ngắn được giai đoạn thiếu

HCl, giúp hoạt hoá hoạt động tiết dịch, tạo khả năng xây dựng nhanh chóng các
đáp ứng miễn dịch của cơ thể.
Sau 20 ngày lượng sữa mẹ giảm dần trong khi nhu cầu của lợn con tăng
lên. Vì vậy, lợn con rất dễ rơi vào trạng thái khủng hoảng. Để khắc phục tình
trạng này cần tập cho lợn con tập ăn sớm để bổ sung thêm chất dinh dưỡng, có
tác dụng kích thích tăng tiết dịch, tăng hàm lượng HCl và men tiêu hóa; sự phát
triển của dạ dày và ruột để đáp ứng kịp thời với chế độ sau cai sữa.
2.2.2. Đặc điểm thích ứng của lợn con
Sự thích ứng của lợn con khi thay đổi môi trường sống là rất kém. Đặc biệt
ở giai đoạn lợn con chuyển từ môi trường sống trong bụng mẹ ra mơi trường
bên ngồi, từ nuôi dưỡng qua sữa mẹ đến chế độ tập ăn sớm.
Hơn nữa, sự thành thục và thiếu hoàn chỉnh về chức năng của các cơ quan
nội tạng, nhất là bộ máy tiêu hoá, liên quan mật thiết đến sự phát triển của hệ vi
sinh vật có lợi hoặc có hại trong ruột và sức đề kháng của cơ thể chống lại bệnh
tật. Q trình tuần hồn chuyển từ tuần hồn máu qua nhau thai sang tuần hoàn
nhờ tim phổi, toàn bộ máu ở mạch máu rốn qua gan. Sự cân bằng nhiệt của lợn

6


con cũng phải tự thiết lập để thích ứng với mơi trường bên ngồi, khơng thể nhờ
vào cân bằng nhiệt lượng của cơ thể mẹ như trong giai đoạn bào thai.
Q trình chuyển hố, cân bằng năng lượng từ giai đoạn bào thai sang giai
đoạn sau khi sinh rất chậm, chưa thích nghi ngay nên dễ bị tác động bởi mơi
trường. Nhờ q trình oxy hố mơ mỡ nên lợn con điều chỉnh được thân nhiệt.
Khả năng điều chỉnh thân nhiệt khác nhau ở lợn con là do mức độ phát triển
khác nhau của mô mỡ ở từng cá thể, từng loại gia súc (Đào Trọng Đạt và cộng
sự, 1986).
Lợn con có nhu cầu dinh dưỡng rất cao. Axit amin là nguyên liệu chủ yếu
cho sự sinh trưởng và phát triển của lợn con. Tốc độ sinh trưởng của gia súc non

rất nhanh, trong vòng 10 đến 14 ngày, thể trọng tăng gấp 1,3 lần; sau 2 tháng
tuổi khối lượng lợn con có thể tăng 14 đến 15 lần so với sơ sinh. Nếu sữa mẹ
không đảm bảo đủ chất lượng, trong khẩu phần ăn thiếu đạm, sự sinh trưởng
của cơ thể sẽ bị chậm hoặc ngừng lại, khả năng chống đỡ bệnh tật rất kém nên
cơ thể dễ bị nhiễm bệnh.
2.2.3. Hệ vi sinh vật đường ruột ở lợn con
Ở gia súc trưởng thành, trong đường ruột có hệ vi sinh vật có lợi thường
trực cộng sinh có khả năng khống chế sự xâm nhập và nhân lên của các lồi vi
sinh vật khác lạ từ mơi trường bên ngồi, đồng thời tham gia vào q trình tiêu
hố hấp thu. Trong đường ruột của gia súc non, hệ vi sinh có lợi - vi sinh vật đối
kháng với vi khuẩn gây bệnh chưa hình thành, chức năng tiêu hố chưa thành
thục, môi trường sống, điều kiện ngoại cảnh, chăm sóc khơng tốt đều là những
stress đối với gia súc non. Khi chuyển từ bào thai sang nuôi dưỡng bằng sữa mẹ
và chế độ tập ăn, tiếp xúc thường xuyên với mơi trường bên ngồi và nhất là
điều kiện khơng vệ sinh, vi sinh vật gây bệnh dễ dàng xâm nhập và gây bệnh
đường ruột cho gia súc non, có thể ở dạng cấp tính hay mãn tính.
Ở trạng thái sinh lý bình thường, giữa cơ thể vật chủ và hệ vi sinh vật trong

7


đường tiêu hố cũng như giữa các lồi vi sinh vật trong khu hệ vi sinh vật với
nhau luôn luôn ở trạng thái cân bằng, sự cân bằng này là cần thiết cho sức khoẻ
của vật chủ. Họ vi khuẩn đường ruột là một họ lớn, bao gồm các trực khuẩn gram
âm sống trong ống tiêu hoá của người và động vật. Chúng có thể gây bệnh hoặc
khơng gây bệnh, hiếu khí hoặc hiếu khí tuỳ tiện, bao gồm vi khuẩn sinh axit
lactic, vi khuẩn bifidium, một số loại cầu khuẩn đường ruột có khả năng ức chế và
tiêu diệt vi khẩn Salmonella, Proteus vulgaris và các loại vi khuẩn sinh thối rữa,
vi khuẩn Lactobacillus, Bacilus subtilis. Ở gia súc sơ sinh, chưa hình thành hoặc
hình thành khơng ổn định hệ vi sinh vật có lợi này, có nghĩa là chưa có vi khuẩn

ức chế và tiêu diệt sự xâm nhập của vi khuẩn gây bệnh đường tiêu hoá.
Hệ vi sinh vật có hại hay gặp trong đường ruột là vi khuẩn Salmonella spp,
E.coli, một số chủng Clostridium spp, Shigella. Cho đến nay nhiều công bố
nghiên cứu khoa học đã cho biết nguyên nhân gây tiêu chảy ở gia súc non gồm
3 loại chính là E.coli, Salmonella spp, Clostridium perfrigens.
Trong hệ vi khuẩn đường ruột, vi khuẩn E.coli là phổ biến nhất và chúng
xuất hiện sớm trong đường ruột của người, động vật sơ sinh, thường ở phần sau
của ruột, đơi khi cịn thấy ở niêm mạc của nhiều bộ phận trong cơ thể (Nguyễn
Như Thanh, 2001).
Clostridium perfrigens typ C gây bệnh viêm ruột hoại tử cho lợn ở lứa tuổi
1 đến 14 ngày tuổi, đặc biệt xảy ra trầm trọng ở 1 đến 7 ngày tuổi, tỷ lệ chết cao
(50%), bệnh lây nhiễm qua phân.
Tiêu chảy ở lợn con do Salmonella cholerasuis gây ra thường thể hiện ở 2
dạng là bại huyết và thần kinh. Khi mổ khám chúng ta thấy có hiện tượng viêm
ruột hoại tử có xuất huyết ở ruột, màng treo ruột, viêm màng ruột, đoạn trước
trực tràng phình to.
2.2.4. Khả năng đáp ứng miễn dịch của lợn con
Khả năng miễn dịch của cơ thể là khả năng phản ứng của cơ thể đối với

8


các chất lạ khi xâm nhập vào cơ thể. Các chất lạ có thể là mầm bệnh, các mầm
bệnh xâm nhập vào cơ thể gia súc non tương đối dễ do các cơ quan bảo vệ cơ
thể phát triển chưa hồn chỉnh. Trong hệ thống tiêu hố của lợn con lượng
enzym tiêu hoá và lượng HCl tiết ra chưa đủ để đáp ứng cho q trình tiêu hố,
gây rối loạn trao đổi chất, tiêu hoá và hấp thu dinh dưỡng kém. Do vậy, các
mầm bệnh như E.coli, Salmonella… dễ dàng xâm nhập vào cơ thể qua đường
tiêu hoá và gây bệnh.
Ở lợn con, các yếu tố miễn dịch như bổ thể, profecdin và lysozim được

tổng hợp cịn ít, khả năng thực bào kém. Vì vậy, việc cho lợn con bú sữa đầu là
rất cần thiết do trong sữa đầu có rất nhiều globulin miễn dịch, bảo vệ cơ thể lợn
con chống lại mầm bệnh. Hai giờ sau khi đẻ, lợn con phải được bú sữa đầu để
hấp thu được nhiều globulin từ sữa đầu vào máu trong thời gian 24- 36 giờ, nhờ
đó có đủ kháng thể trong 5 tuần đầu tiên (Trương Lăng, 2007).
Tuy nhiên còn một yếu tố quan trọng nữa là sự phát triển của hệ vi sinh vật
trong đường ruột gia súc non có những đặc thù riêng. Việc cân bằng khu hệ vi
sinh vật có lợi trong đường ruột nhằm khắc phục, hạn chế sự loạn khuẩn trong
quá trình phát triển và trưởng thành của cơ thể lợn con là rất quan trọng. Sử
dụng chế phẩm sinh học để phòng và trị tiêu chảy cho lợn con là rất cần thiết.
2.3. BỆNH PHÂN TRẮNG LỢN CON
Ở nước ta bệnh xảy ra quanh năm nhưng chủ yếu vào mùa đông xuân, nhất
là sau những trận mưa lớn, những ngày có độ ẩm cao và khi thời tiết thay đổi
đột ngột.
Ở các trại chăn nuôi tập trung bệnh xảy ra rất nhiều, mặc dù đã thực hiện
tốt các khâu về chăm sóc, ni dưỡng, phịng trị bệnh cho lợn con, lợn mẹ
nhưng bệnh vẫn xảy ra lúc lẻ tẻ, lúc ồ ạt gây thiệt hại kinh tế.
2.3.1. Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh phân trắng lợn con đã và đang được rất nhiều tác giả nghiên cứu và

9


đưa ra những nhận định về nguyên nhân theo nhiều hướng khác nhau song tập
trung vào 2 hướng:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng bệnh phân trắng lợn con không phải bệnh
nhiễm trùng mà là chứng khó tiêu, hậu quả của các yếu tố ngoại cảnh như thời
tiết khí hậu, chất lượng sữa mẹ, vệ sinh chuồng trại, chăm sóc nuôi dưỡng lợn
con, lợn mẹ kém…gây nên.
- Quan điểm thứ 2 cho là bệnh nhiễm trùng đường tiêu hoá, chủ yếu do vi

khuẩn E.coli gây ra.
Gần đây nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bệnh do nhiều nguyên nhân phối
hợp, liên quan đến hàng loạt các yếu tố. Do đó việc phân chia nguyên nhân nào
là chính, nguyên nhân nào là phụ để có biện pháp điều trị hiệu quả.
Yếu tố ngoại cảnh
Trong điều kiện sinh lý bình thường có sự cân bằng giữa sức đề kháng của
cơ thể đối với các yếu tố gây bệnh. Khi sức đề kháng của cơ thể giảm, thì cân
bằng này mất đi, làm cho cơ thể rơi vào trạng thái bệnh lý.
Khi còn nằm trong bụng mẹ, sự cân bằng nhiệt của bào thai do thân nhiệt của
cơ thể mẹ quy định. Sau khi sinh ra cơ thể lợn con chưa thể bù đắp được lượng
nhiệt mất đi do ảnh hưởng của môi trường bên ngoài. Lúc này, các yếu tố bất lợi
làm giảm sức đề kháng của cơ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh phát sinh và
tiến triển. Trong những yếu tố về khí hậu thì yếu tố về nhiệt độ ẩm là quan trọng
nhất. Nhiệt độ 28oC- 30oC, độ ẩm từ 75%- 85% là thích hợp cho lợn con. Vì vậy
vào những tháng giao mùa, tháng mưa nhiều, độ ẩm cao 86%- 90%, nhiệt độ thay
đổi thất thường lợn con sẽ mắc bệnh nhiều, có khi tỷ lệ bệnh phân trắng lợn con
trong đàn 90% - 100% (Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, 1986).
Nhiều tác giả cho rằng nguyên nhân của bệnh phân trắng lợn con khơng
có tính đặc hiệu nhưng mang tính tổng hợp, trong đó các yếu tố lạnh, ẩm được
đánh giá là yếu tố hàng đầu của bệnh. Lạnh, ẩm làm hệ thống điều hoà bị rối

10


loạn, dẫn đến rối loạn trao đổi chất của các cơ quan, các mô bào, các tế bào của
cơ thể, làm giảm sức đề kháng, tạo điều kiện cho virus, vi khuẩn có sẵn trong
đường ruột hay từ ngồi vào có cơ hội phát triển tăng nhanh về số lượng và tăng
cường độc lực gây bệnh.
Mặt khác, ở gia súc non các men tiêu hố chưa hồn chỉnh, đặc biệt trong
dịch vị chưa có đủ lượng HCl tự do nên khơng hoạt hố được men pepsin. Vì

vậy mà khơng tiêu hoá được hết sữa mẹ trong khi sữa mẹ là môi trường phát
triển tốt của nhiều loại vi khuẩn (Sử An Ninh, 1993).
Do vi khuẩn
Vi khuẩn E.coli
Vai trò của vi khuẩn gây tiêu chảy ở lợn con đã và đang được nhiều nhà
khoa học quan tâm. Nhưng trong đó vi khuẩn E.coli là nguyên nhân quan trọng
nhất trong hội chứng tiêu chảy của lợn con mới sinh và sau cai sữa (Biehl và
cộng sự, 1986). E.coli là một loại trực khuẩn đường ruột sống ở ruột già, chỉ
một vài giờ sau khi sinh và tồn tại đến khi con vật chết. Theo Nguyễn Như
Thanh (2001), thì bệnh lợn con phân trắng là một hội chứng hay nói cách khác
là một trạng thái lâm sàng đa dạng, đặc biệt là viêm dạ dày ruột, tiêu chảy và
gầy sút nhanh.
Hầu hết E.coli gây bệnh cho ký chủ nhờ yếu tố bám dính và độc tố đường
ruột. E.coli bám dính vào niêm mạc ruột rồi sản sinh độc tố đường ruột. Các
chủng E.coli gây bệnh đều sản sinh ra một hay nhiều kháng nguyên bám dính,
chúng nằm trên Fibriae- một cấu trúc giống sợi lông, xuất phát từ một đĩa giống
trong màng nguyên sinh chất của tế bào vi khuẩn. Chính các yếu tố bám dính
cùng với các độc tố đường ruột đã gây quá trình sinh bệnh đặc trưng của E.coli.
Lê Văn Tạo và cộng sự (1995) đã phân lập được các chủng E.coli gây bệnh
phân trắng cho lợn con và đã chọn được 7 chủng E.coli mang các yếu tố gây bệnh
như K88, Enterotoxin, Hly và R để chế tạo vacxin. Vacxin này rất an toàn (100%)

11


và hiệu lực bảo hộ so với đối chứng đạt 40% đến 59% trên động vật thí nghiệm.
Vi khuẩn Salmonella
Salmonella có mặt trong thức ăn, nước uống, mơi trường thiên nhiên và
trong cơ thể động vật, có khả năng gây bệnh khi gặp điều kiện thuận lợi.
Salmonella cũng đóng vai trò rất quan trọng trong nguyên nhân gây hội

chứng tiêu chảy ở lợn con vì vi khuẩn này là nguyên nhân gây bệnh phó thương
hàn ở lợn bao gồm Salmonelle cholera suis (chủng kunzendorf) và Salmonella
typhysuis (chủng Voldagsen) (Nguyễn Như Thanh, 2001).
Ngồi Salmonella cholera suis gây bệnh phó thương hàn cho lợn, trong
một số trường hợp còn gặp Slmonella enteritidis và Salmonella dublin ở lợn con
đang bú sữa (Reynolda và cộng sự, 1967).
Vi khuẩn Clostridium perfrigens
Một trong những nguyên nhân quan trọng khác đóng vai trị kế phát gây
bệnh là vi khuẩn yếm khí Cl.perfrigens hình thành độc tố gây dung huyết, gây
hoại tử tổ chức phần mềm và gây chết. Vi khuẩn có khả năng gây ra các chứng
nhiễm độc, viêm ruột xuất huyết trầm trọng ở lợn con.
Các chủng Cl.perfrigens sản sinh ra nhiều độc tố và enzym khác nhau, mỗi
chủng có những đặc điểm riêng trong việc sản sinh ra một vài loại độc tố hay
enzym nào đó. Theo Bergeland và Taylor (1992), những độc tố gây bệnh chủ
yếu do Cl.perfrigens bao gồm độc tố α, β, δ. Dựa vào hầu hết các đặc điểm mơ
tả thì Cl.perfrigens typ C gây ra viêm ruột hoại tử.
Cl.perfrigens typ C sản sinh ra độc tố α, β chủ yếu là độc tố β, nhân tố quan
trọng nhất trong sinh bệnh học của bệnh viêm ruột hoại tử do Cl.perfrigens typ
C gây ra. Bệnh xảy ra chủ yếu trên lợn con ở giai đoạn theo mẹ, lứa tuổi mắc
phổ biến nhất là 12 giờ sau khi sinh ra đến 7 ngày tuổi, hay gặp nhất ở 1 đến 3
ngày tuổi. Ngồi ra bệnh cũng có thể xảy ra đối với lợn con từ 2 đến 4 tuần tuổi
và cả khi cai sữa, lợn mắc bệnh thường bị chết ở những ổ lợn mẹ không được

12


tiêm phòng, tỷ lệ khỏi rất thấp, tỷ lệ chết có thể lên tới 100% (Bergeland,
Taylor, 1992).
Do virus
Trên thế giới đã có nhiều cơng trình nghiên cứu đến vai trị của virus. Một

đại diện của virus được chú ý nhiều trong hội chứng tiêu chảy của lợn đó là
Transmissble gastroenteritis virus (TGE). TGE (viêm dạ dày ruột truyền nhiễm),
là một bệnh có tính truyền nhiễm cao, biểu hiện đặc trưng là nôn mửa và tiêu
chảy nghiêm trọng, bệnh thường xảy ra ở các cơ sở chăn nuôi tập trung khi thời
tiết rét lạnh.
Virus TGE xâm nhập chủ yếu qua đường tiêu hoá. Virus này gây bệnh cho
lợn ở các lứa tuổi khác nhau, ở lợn virus nhân lên mạnh nhất ở trong niêm mạc của
không tràng rồi đến hồi tràng, chúng không sinh sản trong dạ dày và kết tràng.
Một số virus như Cornavirus, paravirus, rotavirus và adenovirus đều có
tính hướng đến các tế bào ruột. Các tế bào niêm mạc ruột bị phá huỷ do lông
nhung bị teo dẫn đến sự tiêu hoá và hấp thu kém. Những chất khơng tiêu hố
được trong ruột non sẽ kéo theo chất lỏng vào xoang ruột non. Khi được vận
chuyển vào ruột già, một số được tiêu hố hoặc khơng tiêu hố đều có thể tham
gia vào q trình gây tiêu chảy.
Do ký sinh trùng
Các bệnh ký sinh trùng ở đường tiêu hoá cũng là nguyên nhân dẫn đến tiêu
chảy ở lợn con cũng như ở một số gia súc khác. Nguyên nhân này xảy ra chủ
yếu ở lợn lứa tuổi sau cai sữa, cịn lợn con theo mẹ ít gặp hơn vì đa số tỷ lệ
nhiễm ký sinh trùng tăng theo độ tuổi của lợn.
Tác hại của ký sinh trùng là do chúng ký sinh, phát triển trong đường tiêu
hoá, cướp chất dinh dưỡng của cơ thể, tiết độc tố, quá trình bám dính và di hành
chúng làm tổn thương niêm mạc ruột, giảm sức đề kháng của cơ thể lợn.
Tất cả các yếu tố trên tạo điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn xâm nhiễm,

13


bội nhiễm và gây bệnh.
Theo Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), Giun đũa lợn (Ascarisuum), sán
lá ruột lợn (Fassiolopsis buski), ký sinh trùng đường máu như tiên mao trùng

(T.evansi) với triệu chứng tiêu chảy cấp tính hoặc mãn tính.
Do độc tố nấm mốc
Độc tố nấm mốc với hàm lượng cao có thể gây chết hàng loạt gia súc, với
biểu hiện là nhiễm độc đường tiêu hoá, gây tiêu chảy dữ dội. Ngoài ra việc gây tiêu
chảy cho gia súc, độc tố nấm mốc còn gây độc trực tiếp cho người dùng thực phẩm
bị nhiễm nấm mốc hoặc gián tiếp từ những độc tố tồn dư trong thực phẩm.
Do điều kiện chăm sóc ni dưỡng
Tình trạng sức khoẻ và chế độ chăm sóc, ni dưỡng lợn mẹ ảnh hươmgr
đến dinh dưỡng bào thai và tích luỹ chất dinh dưỡng để tạo ra sữa trong giai
đoạn cuối. Việc nuôi dưỡng lợn nái chửa kỳ cuối rất quan trọng, nó quyết định
trọng lượng sơ sinh của lợn con - một trong những chỉ tiêu để nâng cao năng
suất của đàn nái sinh sản, đồng thời nói lên sức khoẻ của lợn con sơ sinh.
Các chất dinh dưỡng cung cấp cho lợn mẹ, ngoài việc đáp ứng nhu cầu
năng lượng và protein còn cung cấp các vitamin, khoáng, đặc biệt là protein tạo
kháng thể chống lại các vi khuẩn có hại.
Lợn con khi sinh không ngừng sử dụng protein để xây dựng các mô bào
mới trong q trình phát triển, đồng thời khơi phục và tu bổ lại tế bào cũ. Vì
vậy, nếu khẩu phần ăn của lợn mẹ khơng đủ protein, thiếu khống đa lượng, vi
lượng, dẫn đến thiếu dinh dưỡng, lượng sữa giảm, chất lượng sữa giảm, ảnh
hưởng đến sức khoẻ của lợn con.
Thân nhiệt của lợn mới sinh ra là 38,9 oC– 39,1oC, nhưng sau 30 phút giảm
xuống còn 36,7oC- 37,1oC. Trong vòng 1 giờ sau khi sinh, nếu con vật được bú
sữa đầu thì sau 8- 12 giờ thân nhiệt của lợn con sẽ được ổn định trở lại, nếu lợn
con khơng được bú sữa đầu thì sự mất nhiệt sẽ là nguyên nhân gây bệnh phân

14


trắng lợn con.
Trong sữa đầu hàm lượng vitamin A, D, B1, C cao hơn rất nhiều so với sữa

thường. Ngoài ra, trong sữa đầu cịn có MgSO4 có tác dụng tẩy rửa các chất cặn
bã trong đường tiêu hoá. Đặc biệt cịn có hàm lượng kháng thể γ - globulin, do
đó cho lợn con bú sữa đầu đầy đủ rất cần thiết nhằm cung cấp hàm lượng kháng
thể đáng kể chống lại sự xâm nhập của các vi khuẩn gây bệnh, tăng sức đề
kháng của cơ thể.
Đặc điểm sinh lý lợn con
Khi mới sinh ra, cơ thể lợn con phát triển để dần hoàn chỉnh về cấu tạo,
chức năng hệ tiêu hóa và hệ miễn dịch. Lợn con trước một tháng tuổi khơng có
HCl tự do trong dịch vị vì lúc này lượng axit tiết ra và nhanh chóng liên kết với
dịch nhầy. Đây là điều kiện để vi sinh vật phát triển gây bệnh dạ dày - ruột ở lợn
con. Hơn nữa vì thiếu axit HCl nên pepsinogen tiết ra không trở thành pepsin hoạt
động được gây rối loạn tiêu hóa sữa, sữa bị kết tủa dưới dạng casein gây rối loạn
tiêu hóa, tiêu chảy màu phân trắng (màu của casein chưa được tiêu hóa).
Mặt khác khi mới sinh vỏ não và các trung tâm điều tiết thân nhiệt chưa
hoàn chỉnh. Hơn nữa lượng mỡ dưới da của lợn con mới sinh chỉ có khoảng 1%.
Lúc khí hậu thay đổi lợn con mất cân bằng giữa hai quá trình sản nhiệt và thải
nhiệt. Đặc điểm này đã lý giải tại sao bệnh lại hay xảy ra hàng loạt ồ ạt khi thời
tiết thay đổi thất thường.
Theo Cù Xuân Dần (1996) lượng sữa mẹ từ khi đẻ tăng đến ngày thứ 15 là
cao nhất, đến ngày thứ 20 đột ngột giảm xuống thấp trong khi nhu cầu về sữa
mẹ của lợn con tăng lên. Do đó nếu ở giai đoạn này lợn mẹ mà thiếu chất dinh
dưỡng thì lợn con lại càng thiếu sữa, cơ thể lợn con trở nên suy nhược, giảm sức
đề kháng, lợn dễ bị stress.
Một trong các nguyên nhân quan trọng nhất gây bệnh đường tiêu hóa là do
thiếu sắt. Khi cịn là bào thai lượng sắt cần thiết được mẹ cung cấp. Khi ra ngoài

15


môi trường sống, sữa mẹ chỉ cung cấp được 1/6 lượng sắt mà cơ thể non yêu

cầu. Trong khi cơ thể sơ sinh cần tới 40- 50 mg sắt/ngày, nhưng lợn con chỉ
nhận được 1mg/ngày thơng qua sữa mẹ. Vì vậy, cần bổ sung thêm ít nhất là
200- 250mg/con để lợn con tránh thiếu máu. Trong sữa mẹ không những chỉ
thiếu sắt mà còn thiếu cả Coban, Vitamin B12 tham gia vào q trình tạo máu,
tổng hợp và hoạt hóa một số enzym. Do đó lợn con dễ sinh bần huyết, cơ thể
suy yếu, sức đề kháng giảm, lợn con dễ mắc bệnh phân trắng.
2.3.2. Cơ chế sinh bệnh
Theo Phạm Ngọc Thạch (2006), khi bị bệnh, đầu tiên dạ dày giảm tiết dịch
vị, nồng độ HCl giảm, làm giảm khả năng diệt trùng và khả năng tiêu hóa
protein. Khi độ kiềm trong đường tiêu hóa tăng cao tạo điều kiện cho các vi
khuẩn trong đường ruột phát triển mạnh, làm thối rữa các chất chứa trong
đường ruột và sản sinh nhiều chất độc. Những sản phẩm trên kích thích vào
niêm mạc ruột làm tăng nhu động ruột, con vật sinh ra ỉa chảy. Khi bệnh kéo
dài, con vật bị mất nước (do ỉa chảy) gây nên rối loạn trao đổi chất trong cơ thể
như nhiễm độc toan hoặc mất cân bằng các chất điện giải, làm cho bệnh trở nên
trầm trọng, gia súc có thể chết.
2.3.3. Triệu chứng của bệnh
Bệnh thường xảy ra ở lợn con, đặc biệt ở lợn mới sinh đến 21 ngày tuổi, có
con mắc sớm hơn, ngay sau khi sinh ra 1 đến 3 giờ và mắc muộn khi 4 tuần tuổi.
Lợn con mắc bệnh đa số thân nhiệt tăng sau 2 đến 3 ngày thì hạ xuống do
ỉa chảy mất nước nhiều. Trong 1 đến 2 ngày đầu mắc bệnh lợn vẫn bú sau đó
gầy tọp nhanh, lông xù, đuôi rũ, da nhăn nheo, nhợt nhạt, hai chân sau dúm lại
và run rẩy, đuôi và khoeo dính đầy phân.
Tiêu chảy ở mức độ nhẹ lợn khơng có biểu hiện mất nước nhưng cũng có
thể tiêu chảy nặng. Khối lượng cơ thể bị giảm sút 30- 40% do mất nước. Cơ
bụng hóp lại, lợn gầy, suy kiệt và đi siêu vẹo, mắt trũng sâu, da tái xám và nhợt

16



nhạt. Trong trường hợp mãn tính, da quanh vùng hậu mơn có thể đỏ lên do tiếp
xúc với phân kiềm tính, lợn ít bị mất nước và nếu điều trị tích cực thì có thể
khỏi bệnh.
Ngồi việc chẩn đốn dựa vào triệu chứng trên thì bệnh cịn được xác định
chủ yếu dựa vào trạng thái biến đổi của phân. Về trạng thái phân có thể chia làm
3 giai đoạn.
- Giai đoạn đầu kể từ 12- 24 giờ trước khi bị bệnh (thời kỳ nung bệnh), lúc
này thấy lợn đi ỉa khó khăn, phân táo đen và nhỏ như hạt đỗ đen.
- Giai đoạn tiếp theo phân táo bón chuyển sang dạng sền sệt, màu vàng, 2
đến 3 ngày sau phân chuyển sang thành màu trắng như vôi hoặc trắng xám.
Phân ngày một lỏng hơn, trong phân có lẫn những hạt sữa chưa tiêu hố, lổn
nhổn như vơi hoặc có nhiều bột. Có trường hợp mắc bệnh đến ngày thứ 3 phân
đã loãng như nước, tháo tung toé. Lúc này lợn con mất nước nặng, nếu kiểm tra
phân dưới kính hiển vi sẽ thấy trong phân có những hạt mỡ chưa tiêu hố, các tế
bào niêm mạc ruột hoặc có thể lẫn một ít hồng cầu.
- Giai đoạn bệnh chuyển sang lành, phân từ màu trắng xám chuyển thành
xám đen. Phân đặc dần thành khn như phân lợn khoẻ.
2.3.4. Bệnh tích của bệnh
Xác chết gầy, đi và khoeo dính đầy phân, mắt trũng sâu, lơng da khơ,
mất tính đàn hồi.
Dạ dày chứa đầy sữa đơng vón màu vàng trắng chưa tiêu. Ruột non căng
phồng chứa đầy hơi, dịch màu vàng và có xuất huyết điểm ở thành ruột, niêm
mạc ruột bị hoại tử từng đám. Trong ruột già chứa phân màu vàng. Màng treo
ruột xuất huyết, hạch màng treo ruột sưng.
Một số trường hợp lợn con bị viêm phổi, xoang ngực, xoang bụng chứa
dịch.

17



2.3.5. Biện pháp phòng trị bệnh
2.3.5.1. Phòng bệnh
Phòng bệnh bằng vệ sinh, chăm sóc, ni dưỡng
Thực hiện tốt khâu vệ sinh (chuồng trại, các thiết bị, dụng cụ ở chuồng
nuôi lợn đẻ) nhằm hạn chế E.coli gây bệnh, đảm bảo độ thơng thống hợp lý để
duy trì nhiệt độ, độ ẩm thích hợp cho lợn ở từng giai đoạn, ấm về mùa đơng,
thống mát vào mùa hè, vệ sinh sạch sẽ. Nếu phát hiện lợn con bị tiêu chảy do
E.coli thì cần nhanh chóng điều trị bằng thuốc.
Theo Sử An Ninh (1995), cần hạn chế dùng nước tắm rửa cho lợn ở giai
đoạn lợn con theo mẹ cũng như cai sữa, ẩm độ thích hợp cho lợn con được
khuyến cáo là 70- 85%.
Theo Phạm Khắc Hiếu và cộng sự (1998) lợn con sau khi đẻ ra cần được
sưởi ấm ở nhiệt độ 34oC trong tuần lễ đầu tiên sau đó giảm dần xuống nhưng
không được thấp hơn 30oC. Như vậy lợn sẽ tránh được stress lạnh ẩm.
Thiết kế chuồng đẻ về kích thước, độ cao nền chuồng, bề mặt nền
chuồng... cũng rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến tỷ lệ lợn con bị phân trắng.
Chăm sóc, ni dưỡng tốt đàn lợn con và lợn mẹ nhằm nâng cao sức đề
kháng tự nhiên cho lợn con, phải cho lợn con bú sữa đầu càng sớm càng tốt.
Phải đảm bảo các thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần ăn đặc biệt là các
khoáng và vitamin… Nên cho lợn con tập ăn sớm vào ngày tuổi thứ 7- 8.
Lợn con ở giai đoạn bú sữa thường có triệu chứng thiếu máu do thiếu sắt,
đây là một trong những nguyên nhân gây rối loạn tiêu hoá và gây tiêu chảy nên
phải tiêm bổ sung sắt cho lợn vào ngày tuổi thứ 3 và thứ 10.
Phòng bệnh bằng vacxin
Những vacxin sản xuất đại trà sử dụng cho lợn mẹ thường được sản xuất
bằng cách dùng toàn bộ hoặc những tiểu phần tinh chế của vi khuẩn làm kháng
nguyên. Thành phần chủ yếu của vacxin là những yếu tố bám dính. Bằng cơng

18



nghệ tái tổ hợp có thể sản xuất một lượng kháng nguyên lông tinh chế cần thiết
cho sản xuất vacxin. Vacxin này thường dùng cho lợn chửa 5 tuần và 2 tuần
trước khi đẻ. Trong các trại chăn nuôi tập trung hiện nay đang phổ biến dùng
vacxin Litter Guard, loại vacxin vơ hoạt bằng phương pháp hố học dùng cho
lợn nái mang thai khoẻ mạnh để phòng tiêu chảy cho lợn con theo mẹ gây ra bởi
độc tố β của vi khuẩn Cl.perfingens chủng C và các chủng E.coli sản sinh độc tố
khơng chịu nhiệt LT, có kháng ngun bám dính K99, K88, 987P, F41. Kháng thể
thụ động được truyền cho lợn con thơng qua sữa đầu.
Để phịng bệnh do Clostridium perfingens ở lợn con theo Bergeland (1992),
có thể sử dụng giải độc tố yếm khí Cl.perfingens typ C để tiêm cho lợn mẹ 2 lần
trong thời kỳ mang thai (lần tiêm thứ nhất vào giữa kỳ và nhắc lại lần 2 trước
khi đẻ 2- 3 tuần). Lợn con sẽ được bảo vệ bởi globulin miễn dịch trong sữa đầu
tác dụng phịng bệnh có thể kéo dài đến sau khi cai sữa.
Ngồi ra có thể dùng thốc nam để phịng bệnh: Để phịng bệnh, có thể hái
khoảng 200 g cây nhọ nồi cho lợn mẹ ăn sống hoặc nấu chín cùng thức ăn, cứ 2
– 3 ngày một lần như vậy lợn con sẽ không bị ỉa phân trắng (Báo Nông nghiệp
số 254, năm 2007)
2.3.5.2. Điều trị
Hiện nay các vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học là hiệu quả
điều trị bệnh. Nhiều nghiên cứu đã kết luận: cần điều trị sớm, kết hợp nhiều
biện pháp tổng hợp nhằm khống chế, khắc phục rối loạn tiêu hoá và hấp thu,
chống loạn khuẩn đường ruột, đồng thời phải kết hợp điều trị nguyên nhân với
điều trị triệu chứng.
Để điều trị có hiệu quả phải đảm bảo tồn diện các hướng sau:
- Chống viêm ở niêm mạc đường tiêu hoá.
- Chống vi khuẩn gây bệnh kế phát.
- Chống loạn khuẩn, khơi phục lại hệ vi cinh vật có lợi trong đường tiêu hoá.
- Bổ sung nước và điện giải.


19


- Bổ sung sắt và các vitamin.
- Thực hiện tốt vệ sinh, chăm sóc, ni dưỡng.
Điều trị bằng kháng sinh, hố dược
Để có hiệu quả điều trị cao, điều quan trọng nhất đố là phải xác định được
vai trò của vi khuẩn gây bệnh và sự mẫn cảm của chúng đối với kháng sinh và
hoá dược sẽ dùng trong điều trị. Trong thực tế, nên sử dụng loại kháng sinh phổ
rộng ngay từ lúc đầu trong khi chờ kết quả của kháng sinh đồ.
Nguyễn Ngọc Tuân và cộng sự (1999) sử dụng phương pháp bổ sung
kháng sinh Colistin, Oxytetracylin với liều 50ppm và 100ppm vào thức ăn cho
nái chửa 7 ngày trước khi đẻ và sau đẻ 14 ngày, đã làm giảm tỷ lệ mắc bệnh tiêu
chảy ở lợn con khi sinh ra.
Dùng kháng sinh cầm ỉa chảy như: Sulfathiazon 10% tiêm dưới da,
Streptomycin uống, Kanamycin tiêm bắp, Neomycin cho uống, Norfloxacin,
Enrofloxacin… (Phạm Ngọc Thạch, 2006).
Điều trị triệu chứng
Lợn con bị tiêu chảy nặng thường dẫn đến tình trạng mất nước và có biểu
hiện rối loạn nghiêm trọng các chất điện giải. Do đó kết hợp với điều trị bằng
thuốc cần phải kịp thời chống mất nước và chất điện giải cho lợn con, đồng thời
nên trợ tim cho lợn con bằng Cafein 20%, bổ sung đường glucose, tăng cường
các vitamin đặc biệt là các vitamin nhóm B.
Khơi phục hệ vi sinh vật đường ruột
Khôi phục và ổn định trạmg thái cân bằng của hệ vi sinh vật đường ruột sẽ
có ảnh hưởng tốt đến hiệu quả điều trị. Đỗ Trung Cứ và cộng sự (2000) sử dụng
chế phẩm Biosubtyl để điều trị tiêu chảy cho lợn con trước và sau cai sữa cho tỷ
lệ lợn con mắc tiêu chảy giảm, khả năng tăng trọng tốt. Tạ Thị Vịnh và cộng sự
(2004) cho biết khi sử dụng chế phẩm VITOM 1 và VITOM 3 để phòng và trị
tiêu chảy cho lợn con từ sơ sinh đến 3 tuần tuổi cho kết quả tốt, ngồi tác dụng

điều trị, chế phẩm cịn góp phần kích thích tăng trọng lợn.

20


Phần III

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG
Lợn con theo mẹ từ 1 đến 21 ngày tuổi mắc bệnh phân trắng tại Trạm
nghiên cứu, nuôi giữ giống lợn hạt nhân Thuỵ Phương thuộc Trung tâm nghiên
cứu lợn Thuỵ Phương.
3.2. NỘI DUNG
- Điều tra tình hình chăn ni của Trạm nghiên cứu, nuôi giữ giống lợn hạt
nhân Thuỵ Phương .
- Điều tra, xác định tỷ lệ mắc bệnh phân trắng lợn con tại Trạm qua các
năm 2007, 2008, 2009 và 4 tháng đầu năm 2010.
- Xác định tỷ lệ mắc bệnh phân trắng lợn con theo độ tuổi.
- Thí nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh phân trắng lợn con.
3.3. VẬT LIỆU:
- Lợn con theo mẹ từ 1 đến 21 ngày tuổi.
- Các thuốc sử dụng để điều trị bệnh phân trắng lợn con: Enrovet,
Pharsulin, Lactopac – C, Vitamin C Antistres.
* Enrovet là sản phẩm của công ty Cipla sản xuất, do công ty TNHH thú
y Xanh Việt Nam phân phối.
Thành phần: Enrofloxacin 50mg
Benzyl Alcohol 1,5%
Tá dược vừa đủ
Công dụng:


21


Enrovet là loại thuốc đặc trị tiêu chảy cho gia súc, gia cầm như E.coli.
Sallmonella spp, lỵ heo, các bệnh nhiễm khuẩn đường tiêu hố. Enrovet 5% có
hoạt chất chính là Enrofloxacin thuộc nhón Fluoroquinoloes là nhóm có tác dụng
tốt với vi khuẩn gram dương, gram âm, Mycoplasma và các loại vi khuẩn khác.
Enrovet ức chế quá trình sinh tổng hợp DNA của vi khuẩn, tiêu diệt vi
khuẩn nhanh chóng trước khi chúng kịp kháng thuốc.
Thuốc phòng trị các bệnh như tiêu chảy, nhiễm trùng huyết do E.coli, các
bệnh do Mycoplasma gây ra, các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, bệnh tụ
huyết trùng, bệnh phó thương hàn, các bệnh nhiễm khuẩn đường tiêu hoá, bệnh
nhiễm khuẩn đường tiết niệu sinh dục, bệnh nhiễm trùng kế phát do virus.
Liều lượng: 1ml/20kg thể trọng (TT) tiêm bắp ngày 1 lần, trong 3- 5 ngày.
* Pharsulin: (Phamavet sản xuất và phân phối)
Thành phần: 100ml có 10g Tiamulin.
Parsulin là một loại thuốc đặc trị hồng lỵ, tiêu chảy, chướng bụng, phân
vàng, hen suyễn, viêm phổi, viêm khớp, viêm bao khớp, leptospirosis ở lợn.
Cách dùng: Tiêm bắp ngày 1 lần, tiêm 3 ngày liên tục
+ Bệnh hồng lỵ: 1ml/10kg khối lượng cơ thể, lặp lại sau 24 giờ nếu cần.
+ Bệnh khác: 1,5ml/10kg khối lượng cơ thể.
* Men tiêu hố Lactobac- C
Lactopac- C do cơng ty Bayer sản xuất.
Thành phần: Dạng bột trong 100g có:
Lactobacillus

8 x 109 CFU

Enterococcus


8 x 109 CFU

Amylase

900 units

Protease

5500 units

Vit C

2,0 gam

22


Lactose

48 gam

Sodium

1,5 gam

Potassium

1,3 gam


Phụ liệu bổ sung vừa đủ 100 gam
Công dụng:
Tạo môi trường tối ưu giúp cho sự sinh trưởng và hoạt động của vi khuẩn
có lợi trong đường ruột.
Gia tăng sản xuất axit lactic, ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh.
Duy trì tỷ lệ thích hợp giữa Natri và Kali, thay thế lượng muối bị mất (đặc
biệt khi bị tiêu chảy) và duy trì cân bằng hấp thu muối.
Tăng khă năng tiêu hoá tinh bột và protein.
Kích thích sinh trưởng ở gia súc, gia cầm.
Liều lượng và cách sử dụng: Trộn thức ăn hoặc hoà nước uống
Trộn 500 – 700g/100kg thức ăn hoặc pha 1g với 1 – 2 lít nước uống (1g/3
– 5kg TT), dùng 1 ngày/tuần trong suốt q trình ni hay 2 – 3 ngày/tuần khi
gia súc, gia cầm bị stress: 3 – 5 ngày khi gia súc bị tiêu chảy hoặc sau khi điều
trị bằng kháng sinh.
* Điện giải: Vitamin C Antistress
Thành phần: Dạng bột, 100g chứa:

Vitamin C

13g

Citric acid

25g

Phụ liệu bổ sung

100g

Công dụng:

Chống stress cho lợn khi nhiệt độ cao, lúc chuyển chuồng, cai sữa, bị đuổi
bắt, mật độ nuôi cao, dịch bệnh, chủng ngừa hoặc khi cắt mỏ, thay lông ở gia cầm.
Giúp lợn tăng sức đề kháng, tăng trọng nhanh và tăng trọng tốt.
Liều lượng và cách sử dụng: hoà nước uống. Dùng 1g sản phẩm A- T111

23


vitamin C antitress hồ tan trong 2 đến 4 lít nước cho gia súc, gia cầm uống (1g/
10kg TT).
Thí nghiệm được tiến hành theo nguyên tắc các đàn lợn con đồng đều về
tuổi và điều kiện chăn sóc ni dưỡng. Lợn con bị tiêu chảy được đánh dấu
từng con để theo dõi và điều trị. Hằng ngày theo dõi lợn vào buổi sáng sớm và
buổi chiều trước và sau khi dùng thuốc. Các chỉ tiêu theo dõi bao gồm nhiệt độ,
ăn uống, thể trạng con vật, tình trạng phân, thời gian khỏi bệnh của từng con và
các bệnh khác.
Nguyên tắc điều trị: Dùng thuốc đúng liều, đúng liệu trình, dùng liên tục
trong 3- 5 ngày. Thường xuyên theo dõi diễn biến của bệnh và đồng thời ghi
chép kết quả điều trị trên các lô lợn, các chỉ tiêu theo dõi là:
+ Số con mắc bệnh và tỷ lệ mắc bệnh.
+ Số con khỏi bệnh trong ngày, số ngày điều trị, số con chết, số con mắc
lại sau một đợt điều trị.
+ Số con tái phát và số lần tái phát.
Đánh giá kết quả: Sau thời gian điều trị nếu lợn hết tiêu chảy, phân thành
khn, ăn uống trở lại bình thường, các dấu hiệu mất nước khơng cịn, thân
nhiệt ổn định… được coi là khỏi bệnh.
Tuân thủ các nguyên tắc sử dụng kháng sinh kết hợp các biện pháp chăm
sóc nuôi dưỡng tốt.
3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Điều tra hồi cứu (dựa vào số liệu của cơ sở).

- Xác định tình hình mắc bệnh phân trắng lợn con dựa theo phương pháp
mô tả.
- Xác định tỷ lệ mắc bệnh phân trắng lợn con theo độ tuổi.
Xác định nội dung này, chúng tôi tiến hành chọn những lô đồng đều về
ngày đẻ, lứa đẻ, chế độ chăm sóc ni dưỡng và theo dõi số con mắc bệnh qua

24


1, 2 và 3 tuần tuổi. Những con lợn mắc bệnh được chẩn đoán dựa vào triệu
chứng lâm sàng, mổ khám gia súc chết và quan sát bệnh tích.
-Thí nghiệm một số phác đồ điều trị:
Phác đồ 1: Enrovet: 1ml/20kg TT. Ngày tiêm 1 lần
Lactopac- C
Vitamin C Antistress
Phác đồ 2: Pharsulin: 1ml/10mg TT. Ngày tiêm 1 lần
Lactobac- C
Vitamin C Antistress
Sơ đồ bố trí thí nghiệm:
Thuốc sử dụng
Enrovet

Lơ thí nghiệm 1

Lơ thí nghiệm 2

x

Pharsulin


x

Lactobac- C

x

x

Vitamin C Antistress

x

x

- Phương pháp xác định các chỉ tiêu:
Các chỉ tiêu theo dõi: tỷ lệ lợn con mắc bệnh, tỷ lệ chết, tỷ lệ khỏi bệnh, tỷ
lệ tái phát và thời gian trung bình được tính theo công thức:

Tỷ lệ mắc bệnh (%) =

Tổng số con mắc bệnh
Tổng số con theo dõi

x 100

25


×