Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Biến động thành phần loài và số lượng thực vật nổi trong ao nuôi tôm Sú tại Khánh Hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 47 trang )

MỞ ĐẦU
Trong nghề nuôi trồng thủy sản, nuôi tôm là nghề đã và đang phát triển mạnh ở
nhiều nước trên thế giới. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn lao động dồi dào,
sản phẩm thu được dễ tiêu thụ và có giá trị xuất khẩu cao là các yếu tố kích thích
nghề nuôi tôm ngày càng phát triển ở Việt Nam, trong đó có Khánh Hòa. Những năm
90 nghề nuôi tôm Sú đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết công ăn việc làm
cho nông dân và sự tăng trưởng kinh tế đất nước.
Tuy nhiên nghề nuôi tôm ở nước ta nói chung, Khánh Hòa nói riêng đã và đang
ngày càng phát triển, thiếu quy hoạch [49]. Kiến thức về môi trường, biện pháp kỹ
thuật sản xuất của các nông hộ nuôi tôm còn nhiều hạn chế nên kỹ năng quản lý chất
lượng nước ao nuôi kém, sản lượng nuôi chưa cao và không ổn định. Ngoài ra với sự
đa dạng về điều kiện tự nhiên ở các vùng lãnh thổ (Bắc, Trung, Nam), nhiều biện
pháp kỹ thuật và quản lý chăm sóc ao nuôi tôm được sử dụng gây ra sự phức tạp cho
việc duy trì sự ổn định (một cách tương đối) của hệ sinh thái ao nuôi tôm thương
phẩm ở nước ta.
Trong hệ sinh thái tự nhiên hay trong các ao nuôi trồng thủy sản (trong đó có ao
nuôi tôm) thực vật nổi là một trong những yếu tố hữu sinh đóng vai trò hết sức quan
trọng trong trao đổi vật chất và năng lượng của hệ. Chúng là cơ sở thức ăn tự nhiên,
tác nhân lọc sinh học và là nguồn tạo oxy hoà tan trong nước (lớn hơn nhiều so với
lượng oxy hòa tan từ không khí), đặc biệt là ở các ao nuôi bán thâm canh và thâm
canh. Thực vật nổi phản ứng rất nhanh với nguồn dinh dưỡng bổ sung vào môi
trường nước, bởi vậy được xem là chỉ số quan trọng để đánh giá mức độ dinh dưỡng
của các ao nuôi. Sinh khối và tốc độ phát triển của thực vật nổi thay đổi theo mùa và
phù thuộc vào các yếu tố môi trường (ánh sáng, nhiệt độ, độ mặn, muối dinh dưỡng
…). Nhưng mức độ biến động của TVN (khi chúng phát triển quá nhiều hay quá ít)
lại là tác nhân chính ảnh hưởng đến chất lượng nước của ao. Trong các ao nuôi với
một số loài hay mật độ của chúng trong khoảng cho phép sẽ có lợi hoặc ít nhất là vô
hại với các đối tượng nuôi, nhưng khi chúng phát triển quá mạnh, kèm theo đó là tàn
1
lụi và sự lắng đọng cũng như sự phân hủy của chúng trong ao sẽ là nguyên nhân làm
chậm sự phát triển của vật nuôi, gián tiếp ảnh hưởng đến năng suất nuôi trồng.


Không những thế, một số thực vật nổi có thể gây hại đối với các đối tượng nuôi (sinh
vật bám, tiết độc tố …).
Để ổn định và phát triển nghề nuôi tôm thương phẩm không những chúng ta cần
nghiên cứu hoàn thiện các quy trình nuôi mà còn phải quan tâm đến việc quản lý các
yếu tố môi trường ao nuôi, trong đó có thực vật nổi. Điều quan trọng là phải tìm ra
được những thành phần nào, yếu tố nào cũng như thời gian nào ảnh hưởng đến tốc độ
sinh trưởng và tạo sinh khối của thực vật nổi để đề ra các biện pháp cần thiết điều
khiển thực vật nổi trong ao nuôi. Song ở nước ta, các công trình nghiên cứu về thực
vật nổi và mối quan hệ giữa chúng với các yếu tố lý, hóa học trong ao nuôi tôm còn
quá ít, chưa đồng bộ và chưa liên tục. Vì thế chưa đánh giá đúng mức về sự phát triển
cũng như vai trò của thực vật nổi trong hệ sinh thái ao nuôi, gây khó khăn cho việc
quản lý chất lượng nước trong ao.
Nhằm đóng góp tư liệu khoa học về khu hệ thực vật nổi của các thủy vực ven bờ
Việt Nam cũng như việc quản lý môi trường ao nuôi tôm, chúng tôi thực hiện đề tài:
“Biến động thành phần loài và số lượng thực vật nổi trong ao nuôi tôm Sú tại
Khánh Hòa”
Mục tiêu của đề tài:
- Xác định một số đặc điểm cơ bản của quần xã thực vật nổi trong 3 hệ thống ao
nuôi tôm ở Khánh Hòa làm cơ sở khoa học cho kỹ thuật ổn định và nâng cao chất
lượng nước ao nuôi.
- Cung cấp các dẫn liệu cơ bản về TVN cho lĩnh vực nghiên cứu sinh vật nổi
trong ao NTTS.
2
Để đạt mục tiêu của đề tài, các nội dung nghiên cứu sau đây được tiến
hành:
1 - Xác định thành phần loài, số lượng tế bào thực vật nổi và biến động của
chúng theo thời gian của chu kỳ nuôi tôm.
2 - Tác động của kỹ thuật nuôi tôm đến sự phát triển của thực vật nổi ở hệ thống
ao nuôi tôm bán thâm canh (BTC) và thâm canh (TC).
3 - Thử nghiệm quản lý (điều chỉnh) sự phát triển của thực vật nổi trong một số

ao nuôi tôm Sú thâm canh.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án:
- Luận án góp phần làm rõ đặc điểm và vai trò của thực vật nổi trong ao nuôi tôm
thương phẩm (đặc biệt là hệ thống ao nuôi bán thâm canh và thâm canh).
- Xác định mối quan hệ giữa thực vật nổi với một số yếu tố lý, hóa học của nước
trong ao nuôi cũng như với một số loại hóa chất thường được sử dụng trong nuôi
tôm…
- Cung cấp những dữ liệu khoa học giúp các nhà quản lý NTTS, cán bộ kỹ thuật
cũng như các nông hộ nuôi tôm có biện pháp điều chỉnh chất lượng nước trong ao khi
cần thiết.
Nét mới của luận án:
- Luận án là một trong những công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu tương
đối đầy đủ và có hệ thống về thực vật nổi trong ao nuôi tôm Sú thương phẩm.
- Luận án là công trình nghiên cứu cơ bản có sự kết hợp với các nghiên cứu khác
trong hệ sinh thái ao nuôi tôm (biện pháp kỹ thuật nuôi và mối quan hệ giữa thực vật
nổi với các yếu tố môi trường…).
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 THỰC VẬT NỔI VÀ VAI TRÒ CỦA CHÚNG
1.1.1 Vài nét về tình hình nghiên cứu thực vật nổi
- Tình hình nghiên cứu thực vật nổi (TVN) trên thế giới
Trước đây, thực vật nổi được biết đến như một dạng vật chất hữu cơ trôi nổi
trong nước (ở dạng sống và chết), mặc dù hình thái và cấu trúc của chúng được phát
hiện nhờ sự phát minh ra kính hiển vi ở thế kỷ 17. Đến nay nhiều loài đã được mô tả
về hình dạng, thể tích và kích thước tế bào [40] [41].
Tùy theo quan điểm của từng tác giả, việc phân loại tảo trong những thế kỷ XIX,
XX được sắp xếp theo những hệ thống khác nhau. Các tác giả ở Liên Xô cũ xếp tảo
thành 10 ngành: tảo Lam (Cyanophyta), tảo Hai Roi (Pyrrophyta = Dinophyta), tảo
Vàng ánh (Chrysophyta), tảo Vàng (Xanthophyta), tảo Silíc (Bacillariophyta), tảo

Nâu (Phaeophyta), tảo Đỏ (Rhodophyta), tảo Mắt (Euglenophyta), tảo Lục
(Chlorophyta) và tảo Vòng (Charophyta). Các hệ thống phân loại của các tác giả Tây
âu, Nhật Bản lại xếp theo nhóm sắc tố. Các ngành tảo Hai Roi, Silíc, Vàng và Vàng
ánh được xếp trong ngành Chrysophyta và tảo Vòng được xếp thành lớp
Charophyceae trong ngành tảo Lục. Một số tác giả khác lại phân chia tảo thành 4
ngành: tảo Lam (Cyanophyta), tảo Lục (Chlorophyta), tảo Đỏ (Rhodophyta), ngành
Chromophyta (gồm các ngành: tảo Silíc, tảo Vàng ánh, tảo Vàng, tảo Mắt và tảo
Nâu). Nhìn chung là các hệ thống phân chia trên đều xem tảo Lam trong khái niệm
“tảo”. Hệ thống phân chia gần đây nhất của các tác giả người Nhật bản chia tảo thành
4 ngành (thuộc giới thực vật - Plantae): tảo Đỏ (Rhodophyta), tảo Mắt
(Euglenophyta), tảo Xanh Lục (Chlorophyta) và ngành Chromophyta (gồm: tảo
Vàng, tảo Vàng ánh, tảo Silíc, tảo Hai Roi và tảo Nâu). Tảo Lam hay còn gọi là Vi
Khuẩn Lam (Cyanobactưria) và Procholophyta được xếp vào giới sinh vật phân cắt
(Monera) [theo 38]. Van Den Hoek và cộng sự (1995) lại chia tảo thành 9 ngành và
4
một ngành Vi Khuẩn Lam, trong đó tảo Vàng, tảo Vàng ánh, tảo Silíc, tảo Nâu được
xếp trong ngành tảo Roi lệch (Heterokontophyta) [92]. Hiện nay phân loại học nói
chung, phân loại vi tảo nói riêng không dừng lại ở mức độ dựa vào các dấu hiệu hình
thái mà còn áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại (hoá sinh học, sinh
học phân tử, công nghệ gen) để phân biệt các loài (species) trong cùng một chi
(genus) [38]. Trên thế giới nói chung và Châu Á nói riêng những nghiên cứu phân
loại học TVN và sắp xếp chúng trong hệ thống phân loại đã được đề cập trong các
báo cáo của Weber- vanbosse 1913, 1928 (Indonesia); Okamura, 1936 (Nhật Bản);
Shen và Fan 1950, Chiang 1960, 1961 (Đài Loan); Rho 1958 và Kang 1966 (Triều
Tiên); Gilbert và Taylor 1961 (Philippine); Lee 1964, 1965 (Hong Kong)…[theo 85].
Trong những năm 1973 - 1978 Trạm điều tra Địa chính Mỹ đã ghi nhận 321 giống
TVN (nước ngọt) và liệt kê mô tả đưa ra đặc điểm phân loại cụ thể để phân loại 58
giống TVN thường gặp và chiếm ưu thế ở Mỹ [101]. Christie (1973) khi nghiên cứu
khu hệ TVN ở vịnh Quine, Canada từ 1967 - 1968 đã xác định được 120 loài thuộc 7
ngành, trong đó tảo Silíc và Tảo Lam chiếm ưu thế. Tác giả còn cho biết hàm lượng

nitơ, phot pho và silíc hòa tan có quan hệ trực tiếp đến mật độ TVN. Số lượng tế bào
tăng nhanh khi hàm lượng phốt pho và nitơ trong nước tương ứng đạt từ 0,01mg/L và
0,1 mg/L [78].
Bên cạnh nghiên cứu về hệ thống phân loại học, mô tả đặc điểm các loài TVN,
nhiều tác giả còn quan tâm đến đặc tính sinh thái học, mối quan hệ giữa sự phát triển
của thực vật nổi với các yếu tố môi trường cũng như tính chất gây hại, sự nở hoa hay
hiện tượng “Thủy triều đỏ” ở các vùng biển ven bờ. “Thủy triều đỏ” được các nhà
khoa học đề cập một cách chính thức trong các cuộc hội thảo vào những năm 70.
Năm 1979, có hai cuộc hội thảo về sự nở hoa của các loài tảo roi có độc tố ở Miama
và Florida vào năm 1978 (Taylor và Seliger, 1979). Tiếp sau đó là các cuộc hội thảo
được tổ chức ở Canada (1985) ; ở Nhật (1977) ; ở Thụy Điển (1989) ; ở Mỹ (1991) ;
ở Pháp (1993) ; Sendai, Nhật (1995) ; ở Tây Ban Nha (1997) . Nhiều tài liệu đã dẫn
chứng “Thủy triều đỏ” ở các vùng ôn đới (Bắc Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản và Nam
Châu úc) đã đe dọa đến ngành khai thác và nuôi biển. Tổng kết các công trình nghiên
5
cứu về “Thủy triều đỏ”, các tác giả đã đưa ra danh mục trên 45 loài gây ra hiện tượng
“Thủy triều đỏ” thuộc các ngành tảo Hai Roi, tảo Lam, tảo Silic và tảo Lục ở các
vùng biển cận nhiệt đới, trong đó phần lớn thuộc về tảo Hai Roi (Dinoflagellata)
[theo 81]. Còn theo Carpenter và Carmichal (1995) có ít nhất 19 loài thuộc 9 chi tảo
Lam có thể sinh độc tố ở vùng nước lợ và nước mặn [75]. Nhiều nhà khoa học cho
rằng “Thủy triều đỏ” thường xảy ra sau khi mưa lớn (Kutner và Sassi, 1979 ;
Hermes, 1983 ; Piyakaruchana và cộng tác viên, 1984 ; Gonzales, 1989). Đặc biệt là
có liên quan đến nguồn dinh dưỡng do phù sa từ đất liền đổ ra [102]. Ngoài ra hiện
tượng này có thể xảy ra do sự phá rừng đã làm tăng lượng chất mùn theo dòng nước
chảy ra biển hay do điều kiện khí hậu không bình thường đã kích thích sự nở hoa của
tảo [81]. Tuy nhiên mật độ bùng nổ của các loài tảo thường khác nhau. Ví dụ như tảo
Protogonyaux đạt 10
5
tb/L trong thời gian bùng nổ, tảo Aureococcus đạt 10
9

tb/L
[107].
Các công trình nghiên cứu về TVN trong các ao nuôi tôm không nhiều và được
công bố bởi các nhà khoa học của những nước đang có nghề NTTS phát triển (Thái
Lan, Đài Loan, Trung Quốc…). Đài Loan là một nước có nghề NTTS phát triển,
trong đó có nghề nuôi tôm. Khi nghiên cứu 21 ao nuôi Wu và Lu (1991) cho biết, vào
thời điểm nước trong ao ưu dưỡng thì mật độ tế bào TVN lớn hơn 10
7
tb/mL. Một số
ao nuôi tôm công nghiệp khác, với độ mặn khá cao (25 - 30‰), lại ưu dưỡng nên tảo
Hai Roi phát triển khá nhiều, gây hiện tượng đổi màu của nước ao và làm giảm năng
suất ao nuôi trồng. Ngoài ra trong một số ao khác có độ mặn thấp hơn, tảo Lục và tảo
Lam chiếm ưu thế, đặc biệt là chi tảo Lam Microcystis. Sự ưu thế của các loài tảo
trên đã làm giảm tính đa dạng của TVN và điều này thể hiện chất lượng thấp của
nước ao. Sự giảm thấp của chỉ số đa dạng tảo xảy ra trước khi tôm bị nhiễm bệnh
[93].
Vào những năm 80 và 90, Thái Lan là một nước có sản lượng tôm xuất khẩu lớn,
vì thế cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu về các yếu tố môi trường, trong đó có
TVN trong các ao nuôi tôm. Có thể đến các công trình tiêu biểu sau đây: Năm 1984 -
1985, Thamarak (Thái Lan) khi nghiên cứu thành phần loài thực vật nổi ở 4 trang
6
trại nuôi tôm đã giám định được 50 loài thuộc 4 ngành tảo: tảo Lục 3 loài, tảo Lam 8
loài, tảo Silíc 34 loài và tảo Hai Roi 5 loài, trong đó tảo Silíc và tảo Lam chiếm ưu
thế [112]. Cũng theo Thamarak (1994), mật độ tảo trong các ao nuôi cá của Thái Lan
có sự khác nhau bởi hàm lượng bón phân khác nhau [113]. Theo Songsangjinda
(1994), trong hai hệ thống nuôi thâm canh của tư nhân và doanh nghiệp nhà nước tại
Ranot, tỉnh Songkhla (Thái Lan) có 45 giống thực vật nổi được xác định. Diễn biến
về sự phát triển của TVN trong các ao nuôi phụ thuộc vào các loài ưu thế. Trong các
ao nuôi tôm tư nhân giống tảo Lam Trichodesmium chiếm ưu thế, còn trong ao thuộc
doanh nghiệp nhà nươc, ưu thế lại thuộc về tảo Lục Chlorella sp, Spirogyra sp và tảo

Silíc Asterionella sp, Nitzschia sp. Kết quả nghiên cứu này cũng đã chỉ ra rằng,
nitrogen là nhân tố đóng vai trò quan trọng về mức độ thay đổi của quần xã thực vật
nổi trong ao, đặc biệt là số lượng tế bào [110]. Còn trong 10 ao nuôi tôm theo qui
trình thay nước (opened culture) ở ven vịnh Khung Krabaen (tỉnh Chantaburi - Thái
Lan) có 42 loài TVN được xác định, trong đó tảo Silíc chiếm ưu thế. Mật độ tảo
trong ao tăng từ 186 x 10
6
tb/m
3
(sau 0,5 tháng) đến 547 x 10
6
tb/m
3
(sau 2,5 tháng).
Những ao nuôi tôm theo mô hình không thay nước (closed system), mật độ tế bào
TVN cao hơn ở cùng thời điểm (61.994 x 10
6
tb/m
3
ở thời điểm 2,5 tháng), song vào
giai đoạn cuối (3,5 - 4 tháng) mật độ TVN giảm xuống đột ngột (373 x 10
6
tb/m
3
).
Trong các ao nuôi trên, mật độ tế bào tảo Silíc không nhiều (đặc biệt là thời điểm 3 -
3,5 tháng và ở các ao nuôi tôm không thay nước). Trong khi loài tảo Lam
Oscillatoria sp là loài chiếm ưu thế về mật độ tế bào trong ao. Cuối cùng, các tác giả
kết luận rằng mật độ tế bào tảo trong các ao (ở cả 2 mô hình nuôi tôm) tăng theo sự
gia tăng hàm lượng NO

3
và theo thời gian nuôi tôm (thể hiện rõ từ 0,5 đến 2,5
tháng). Loại muối dinh dưỡng trên được xem là yếu tố đóng vai trò quan trọng về
mức độ phát triển và sự nở hoa của tảo. Bên cạnh đó sự thay đổi của độ mặn cũng là
nhân tố kích thích hay hạn chế sự xuất hiện và phát triển của một số loài tảo trong ao
nuôi tôm [theo 105].
Cùng với những nghiên cứu điều tra TVN trong các vực nước, vi tảo còn được
nuôi trồng để phục vụ trực tiếp cho đời sống con người. Các nhà khoa học đã lựa
7
chọn và nghiên cứu đặc điểm sinh học của hơn 50 loài tảo, trong đó có những loài
được sử dụng nhiều trong nuôi trồng thủy sản: Skeletonema costatum, Chaetoceros
sp, C. gracilis, C. simplex, C. ceratosporum Thalassiosira pseudonema, Chlorella sp,
Tetraselmis chui, Nanochloropsis oculata…Hầu hết các loài vi tảo sử dụng trong
NTTS thích ứng với cường độ ánh sáng từ 50 đến 300 µEm
-2
s
-1
, ánh sáng liên tục
không những không làm tăng năng suất mà còn làm giảm tỷ lệ protein : carbonhydrat
[114]. Việc xác định được khoảng nhiệt độ tối ưu cho các loài tảo là một trong những
làm cần thiết trong nuôi tảo. Mỗi loài tảo thích ứng với khoảng nhiệt độ khác nhau và
được chia thành các nhóm [114]:
Nhóm rộng nhiệt: Gồm các loài tảo thích ứng với khoảng nhiệt độ từ 10
0
C đến
30
0
C như: các loài tảo lục Tetraselmis suesia, T. chui, Dunaliella tertiolecta,
Nanochloris atomus, tảo silíc Chaetoceros calcitrans, C. gracilis…
Nhóm các loài tảo chỉ phát triển tốt ở nhiệt độ từ 10

0
C đến 20
0
C như: tảo silíc
Thalasiosira pseudonana….
Nhóm các loài tảo nhiệt đới và cận nhiệt đới (15
0
C -30
0
C): Chaetoceros.
Ceratosporum, Isochrysis sp, Pavlova salina…
Bên cạnh nhiệt độ, độ mặn cũng có ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng và phát
triển của vi tảo, đặc biệt là thành phần, hàm lượng các sắc tố trong tế bào. Nhiều loài
vi tảo có khả năng thích ứng với độ mặn rộng (7 ‰ đến 35‰) như Isochrysis sp,
Chaetoceros gracilis, C. calcitrans, Tetraselmis chuii. Trong khi một số loài lại
không thể phát triển trong môi trường có độ mặn thấp (Skeletonema costatum thích
ứng với độ mặn từ 14 - 35‰, Pavlova salina thích ứng với độ mặn từ 21 - 35‰)
[114]. Ngoài ra, chất dinh dưỡng cũng là yếu tố quan trong ảnh hưởng trực tiếp đến
số lượng và chất lượng vi tảo (Harrison, 1990) [theo 28]. Theo Depauw (1981) và
Utting (1985) nhu cầu về đạm của tảo Silíc thấp hơn tảo Lục và tảo Lam [theo 8].
Photpho cần không lớn nhưng là yếu tố không thể thiếu được trong quá trình nuôi tảo
[19] [28]. Tảo Silíc, Lam và Lục phát triển mạnh ở hàm lượng phốt pho từ 0,1 - mg/
L, phát triển yếu ở hàm lượng 0,005 mg/L [theo 8]. Các yếu tố vi lượng ( Co, Fe, Mn,
8
và Mg) cũng rất cần thiết đến sự phát triển của tảo, chúng tác động đến quá trình trao
đổi chất của tảo. Tuy nhiên các yếu tố trên chỉ được bổ sung với nồng độ thấp (µg)
[18]. Hiện nay đã và đang có nhiều phương pháp, mô hình nuôi sinh khối tảo: nuôi
theo đợt (Batch culture), nuôi liên tục (continous culture), nuôi bán liên tục (semi -
continous culture) hay với qui mô QCCT, BTC và TC [19 ].
- Tình hình nghiên cứu thực vật nổi ở Việt Nam

Rose được xem là người đầu tiên nghiên cứu về sinh vật phù du ở các vùng biển
Việt Nam. Sau đó là các công trình nghiên cứu của Dawidoff (1936), Yamashita
(1958), Hoàng Quốc Trương (1962), Shirota (1966) [theo 2]. Công trình nghiên cứu
về tảo Silíc và tảo Hai Roi của Hoàng Quốc Trương (1962) được xem là tài liệu định
loại đầu tiên do người Việt Nam thực hiện [61] [62].
Dương Đức Tiến (1982) đã tìm thấy 1.402 loài và dưới loài vi tảo trong các thủy
vực nội địa, trong đó có 530 loài tảo Lục, 388 loài tảo Silíc, 344 loài tảo Lam, 78 loài
tảo Mắt, 30 loài tảo Hai Roi, 14 loài tảo Vàng, 9 loài tảo Vòng, 5 loài tảo Roi lệch và
4 loài tảo Đỏ [theo 38].; tiếp tục vào năm 1996, tác giả cũng đã định loại và mô tả
khá chi tiết 214 loài tảo Lam thường gặp cùng với sự phân bố, sinh thái của chúng
[58]. Dương Đức Tiến và Võ Hành (1997) đã biên soạn cuốn tảo nước ngọt Việt
Nam, phân bộ tảo Lục (Chlorococcales), và mô tả chi tiết đặc điểm phân loại hơn
800 loài và dưới loài tảo Lục ở Việt Nam [59]. Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuyên (2003) đã
cho xuất bản công trình về sự đa dạng sinh học tảo trong thủy vực nội địa Việt Nam
[64].
Những nghiên cứu chuyên sâu về thực vật nổi biển được bắt đầu từ 1960, các
công trình này được thực hiện một cách liên tục và do các nhà khoa học Việt Nam
thực hiện. Ở miền Bắc Việt Nam, những công trình nghiên cứu về thực vật nổi ở biển
được tiến hành muộn hơn so với vùng biển phía Nam. Cụ thể là các chương trình
điều tra tổng hợp vịnh Bắc Bộ, Việt-Trung và Việt Nga (từ 1959-1985) [2], Trương
Ngọc An và Hàn Ngọc Lương (1980) [1], Trương Ngọc An (1993) đã mô tả và phân
loại chi tiết 225 loài tảo Silic đã gặp ở vùng biển Việt Nam [2]. Chu Văn Thuộc
9
(1996) đã công bố kết quả nghiên cứu về sự biến động của TVN (năm 1992 -1993) ở
khu vực Đồ Sơn với 250 loài thuộc 4 ngành, trong đó có 215 loài tảo Silíc và 27 loài
tảo Hai Roi [57]. Vùng biển phía Nam, TVN biển được nghiên cứu sớm hơn phía
Bắc và ngày nay đã có nhiều công trình được công bố. Trước hết là có các công trình
của Hoàng Quốc Trương (1962) đã giới thiệu 153 loài tảo Silíc và 92 loài tảo Hai
Roi ở Vịnh Nha Trang [61], [62], hay của Shirota (1966) đã công bố danh mục 222
loài TVN nước mặn vùng biển ven bờ từ Huế đến Rạch Giá [106].

Tại vùng biển Khánh Hòa - Minh Hải có 400 loài thực vật nổi được nghi nhận
bởi Nguyễn Ngọc Lâm và Đoàn Như Hải, khi khảo sát vùng biển này từ 4/1993 -
5/1995, trong đó tảo Silíc chiếm ưu thế [98]. Bên cạnh đó, khi nghiên cứu khu hệ
thực vật nổi vùng ven biển Khánh Hòa, tác giả cũng đã ghi nhận 203 loài thuộc 4
ngành; tảo Silíc, tảo Hai Roi, tảo Kim và tảo Mắt, trong đó có 23 loài có khả năng
gây hại cho cá cũng như sức khoẻ của con người. Cũng các tác giả trên, khi nghiên
cứu về sinh thái phát triển tảo gây hại và hiện tượng “Thủy triều đỏ” liên quan đến
các yếu tố môi trường ở các thủy vực ven bờ Khánh Hòa (1997), đã xác định được
244 loài TVN, trong đó tảo Silíc chiếm ứu thế (155 loài) và kế đó là tảo Hai Roi (82
loài) [22].
Vào những năm 2000 - 2004, Viện Hải dương học Nha Trang đã công bố một số
kết quả mới nhất về khu hệ thực vật phù du vùng ven bờ Nam Trung Bộ (nơi cung
cấp nước cho các ao nuôi tôm công nghiệp). Trước hết là kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Thị Mai Anh và Hồ Văn Thệ (2001), các tác giả cho biết thực vật nổi ở đầm
Cù Mông và vịnh Xuân Đài khá đa dạng gồm 135 loài. Sự phân bố và thành phần của
chúng có những biến đổi theo mùa. Đầm Cù Mông thực vật nổi có tính đa dạng thấp
hơn vịnh Xuân Đài, nhưng mật độ tế bào lại cao hơn do có những loài ưu thế, rõ rệt
nhất là vào mùa mưa [3]. Kế đó là công bố của Đoàn Như Hải, Nguyễn Ngọc Lâm,
Nguyễn Thị Mai Anh và Hồ Văn Thệ (2004) với 144 loài TVN ở đầm Lăng Cô
(Huế), tảo Silíc có số lượng loài cao nhất, sau đó là tảo Hai Roi [12].
10
Trong các công trình nghiên cứu về TVN biển còn có những công trình nghiên
cứu chuyên sâu về “Thuỷ triều đỏ” và những loài tảo có khả năng gây hại. Những
công trình nghiên cứu hiện tượng “Thủy triều đỏ” và tính chất gây hại của các loài
tảo ở các vùng biển ven bờ được thực hiện bởi các nhà khoa học ở các Viện Hải
dương học Nha Trang, Hải Phòng, khoa Sinh học (Trường Đại học Khoa học Huế) và
Viện Sinh học Nhiệt đới TP. HCM, cùng với sự tham gia của các chuyên gia nước
ngoài.
Nguyễn Ngọc Lâm và Đoàn Như Hải đã xác định hiện tượng triều đỏ xảy ra ở
Bình Thuận là do loài tảo Lam Trichodesmium erythraeum với mật độ đạt đến 10

9
tb/l
[98]. Các tác giả cũng đề cập đến hiện tượng nở hoa của các loài tảo Hai Roi
(dinoflagellata) đã làm thay đổi màu nước vùng nước ven bờ thuộc vịnh Vân Phong -
Bến Gỏi (Khánh Hòa) và đã ảnh hưởng đến nghề nuôi tôm Hùm lồng ở đây. Điển
hình là sự nở hoa của loài Noctiluca scintilans (đạt tới 3x10
6
tb/L). Còn vùng nước
ven bờ Bạch Long Vĩ (Bắc Việt Nam) với 17 loài tảo có khả năng gây hại, trong đó
có 7 loài thuộc giống Peridinium (41,2%), 3 loài thuộc giống Dinophysis (17,6%), 2
loài thuộc giống Prorocentrum (11,8%) và Gymnodinium, Gonyaulax mỗi giống một
loài. Tuy nhiên do mật độ tảo rất thấp (31.250 -700.000 tb/m
3
) vì vậy chưa có dấu
hiệu gây hại nguồn nước [100]. Tại hội nghị khoa học biển Đông (2000), Nguyễn
Ngọc Lâm và cs. đã trình bày báo cáo về “Sự đa dạng sinh học và phân bố của các
loài tảo Hai Roi thuộc giống Alexandrium có khả năng gây độc trong các thủy vực
Việt Nam”. Trên cơ sở phân tích 300 mẫu từ các thủy vực ven bờ biển Việt Nam các
nhà khoa học đã ghi nhận được 12 loài thuộc giống Alexandrium [24]. Đặc biệt là vào
tháng 7/2002, trong vùng biển phía Bắc Bình Thuận có hiện tượng nở hoa của loài
tảo Roi bám Phaeocystis globosa (Haptophyta). Kết quả phân tích trên 3 mặt cắt (Cà
Ná, Vĩnh Hảo, Phước Thể) đã xác định được 71 loài thực vật nổi, trong đó tảo Silic
chiếm ưu thế (53 loài), tảo Hai Roi có 16 loài, mật độ của P. cf globosa chiếm ưu thế
tuyệt đối trong hầu hết các trạm nghiên cứu [25].
11
Do yêu cầu của thực tiễn, việc nghiên cứu về cơ sở thức ăn tự nhiên trong các ao,
đầm, vũng, vịnh được quan tâm nghiên cứu. Nguyễn Hữu Điều (1971) đã xác định
được 127 loài thuộc 4 ngành tảo (Silic: 144 loài, Lục: 8 loài, Lam: 4 loài, Giáp: 1
loài) khi nghiên cứu về thành phần loài thực vật nổi đầm nước lợ ven biển cửa sông
Cấm, Hải Phòng. Một số giống loài chiếm ưu thế trong vùng nước là Chaetoceros,

Coscinodiscus, Nitzschia và một số giống loài khác tuy ít giống loài hơn nhưng lại có
số lượng nhiều như Ditylum, Biddulphia. Cơ sở thức ăn tự nhiên trong đầm nước lợ
khá phong phú, thành phần và số lượng thực vật nổi biến động theo thời gian, chu kỳ
lấy nước và sự biến đổi các yếu tố môi trường, trong đó nhiệt độ và độ mặn là hai
yếu tố quyết định [9]. Trong luận án phó tiến sĩ với đề tài “Tảo Silíc vùng cửa sông
ven biển Việt Nam” Đặng Thị Sy (1996) đã công bố 361 taxon bậc loài và dưới loài,
trong đó có 114 taxon mới đối với Việt Nam. Trong công trình này tác giả cũng đã
quan tâm đến sự phân bố của tảo theo vùng địa lý, theo thủy triều, theo độ mặn và độ
sâu [40]. Cũng nghiên cứu về khu hệ thực vật nổi vùng cửa sông Việt Nam, Chu Văn
Thuộc (1997) đã ghi nhận thực vật nổi ở một số cửa sông miền Bắc Việt Nam biến
động từ 166-250 loài, nhìn chung các giống thuộc ngành tảo Silic chiếm ưu thế
(82%), kế đó là tảo Hai Roi (13%). Tác giả cũng cho biết một số loài thường có số
lượng cao như Coscinodiscus, Chaetoceros, Bacteriastrum, Navicula, Pleurosigma,
Peridinium, Ceratium. Hầu hết thực vật nổi mang đặc điểm của khu hệ ven bờ nhiệt
đới và á nhiệt đới, có pha trộn những giống loài nước ngọt, đặc biệt vào mùa mưa
[80].
Những nghiên cứu về TVN trong các vũng, vịnh, đầm phá ven biển phía nam có
các công trình tiêu biểu sau: Theo Tôn Thất Pháp (1993), khi nghiên cứu khu hệ thực
vật ở nước trong phá Tam Giang (Thừa Thiên Huế), đã công bố 238 taxon bậc loài và
dưới loài thực vật nổi, trong đó có 19 taxon mới đối với Việt Nam. Trong khu hệ có
loài chỉ xuất hiện vào mùa ngọt hóa hay mặn hóa của phá, song cũng có loài xuất
hiện quanh năm (tảo Silíc Lông chim Pennales) [37]. Ở vịnh Quy Nhơn, có 185 loài
TVN được xác định và tảo Silíc chiếm 83,7% về số loài. Thực vật nổi có mật độ cao
trùng vào thời kỳ độ muối của nước trong vùng tương đối cao và giảm thấp vào các
12
tháng mùa mưa, liên quan đến sự thiếu hụt của những loài nước mặn. Mật độ thực vật
nổi dao động từ 2,27 - 321,82 x 10
6
tb/m
3

[31]. Trong vịnh Nha Phu (Khánh Hòa)
thành phần loài thực vật nổi khá đa dạng (116 loài), thuộc các loài biển nông ven bờ.
Sự đa dạng của khu hệ TVN mang tính chất chu kỳ. Trong điều kiện chung của vịnh
mật độ thực vật nổi khá cao, trung bình đạt 87 x 10
6
tb/m
3
[32].
Mới đây, Nguyễn Ngọc Lâm, Đoàn Như Hải, Nguyễn Thị Mai Anh và Hồ Văn
Thệ (2002) đã công bố kết quả nghiên cứu về thực vật nổi trong thủy vực nước nông
vùng cửa sông Cửa Bé (vịnh Nha Trang) gồm 37 loài tảo Hai Roi và 60 loài tảo Silíc.
Các loài chủ đạo quyết định sinh khối cũng như tần số xuất hiện là các loài tảo Hai
Roi Gonyaulax sp, Properidinium sp, và tảo Silíc Trung Tâm Coscinodiscus spp,
Skeletonema costatum và Rhizosolenia sp. Thành phần loài thay đổi rõ rệt theo hai
mùa khô và mùa mưa. Nhiệt độ và độ mặn là hai yếu tố chính ảnh hưởng đến những
thay đổi về mùa vụ. Đỉnh cao của tảo Silíc cũng là đỉnh cao của tảo Hai Roi. Hàm
lượng muối dinh dưỡng (silíc, phốtpho, nitơ) có liên quan chặt chẽ với độ mặn,
nhưng các mối quan hệ giữa các thành phần sinh học và các muối dinh dưỡng lại
không rõ ràng [99].
Cũng như các nước khác, ở Việt Nam những nghiên cứu về khu hệ sinh vật
trong các ao nuôi trồng thủy sản nói chung, các ao nuôi tôm thương phẩm nói riêng
còn ít và chủ yếu được thực hiện bởi các nhà khoa học của các viện, trường, trung
tâm nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến nghề NTTS.
Theo Trần Thị Tho (1999), đã tìm thấy thành phần tảo trong một số ao của tỉnh
Bắc Cạn khá phong phú và đa dạng với 226 loài thuộc 7 ngành. Mật độ tế bào trong
ao trung bình 8-9 x 10
6
tế bào/L. Trong các ao nuôi cá thuộc tỉnh Hà Nam đã bắt gặp
108 loài TVN, thành phần tương đối đa dạng, song cần đầu tư thêm phân bón và thức
ăn để tăng cơ sở thức ăn tự nhiên cho các đối tượng nuôi [48], [49].

Từ những năm 80 trở lại đây do yêu cầu của thực tiễn đã có một số nghiên cứu
cơ sở thức ăn, chất lượng nước trong đầm hay ao nuôi tôm được tiến hành. Từ kết
quả nghiên cứu về TVN trong các ao nuôi tôm ở Việt Nam, các tác giả đều cho rằng
13
số loài TVN trong các ao nuôi tôm thường thấp hơn so với các vực nước tự nhiên và
tảo thuộc ngành Silíc chiếm ưu thế [13], [26], [27], [30], [45], [46].
Năm 1994, trong báo cáo kết quả nghiên cứu chương trình khảo sát nguyên
nhân gây tôm chết tại khu vực phía Nam và biện pháp phòng trừ, Trần Trường
Lưu đã xác định được 27 - 42 loài TVN trong các ao nuôi tôm, trong đó tảo Silic
chiếm ưu thế về số loài ở tất cả các điểm nghiên cứu. Trong khi tảo Lam lại chiếm
ưu thế về mật độ tế bào. Trong các ao tôm đang chết tại huyện Cái Nước đã gặp 1
loài tảo Mắt và 5 loài tảo Lam (sinh vật chỉ thị cho độ nhiễm bẩn của nước) với
mật độ tương ứng là 40–120 x 10
3
tế bào/L. Ao nuôi tôm huyện Vĩnh Châu tỉnh
Sóc Trăng, tảo Lam chỉ thị nhiễm bẩn đạt tới 1,5 x 10
6
tế bào/L [26].
Trong các đầm nuôi tôm QCCT và BTC thuộc hai vùng (Quỳnh Lưu nghệ
An và Thạch Hà - Hà Tĩnh) số loài tảo Silíc cũng cao hơn các ngành tảo khác (với
47/72 loài, chiếm 64,38%), kế đó là tảo Hai Roi với 10 loài (13,7%), ngành tảo Mắt
có số loài thấp nhất (4 loài, chiếm 5,48%). Thành phần loài TVN trong đầm nuôi
tôm ở hai vùng có sự khác nhau, với hệ số giống nhau S = 0,34. Mật độ tế bào
TVN trong các đầm này cũng khá phong phú (17,8 – 25 x 10
3
tế bào/L ở đầm nuôi
Quỳnh Lưu, 25- 28 x 10
3
tế bào/L ở đầm nuôi Thạch Hà) [7].
Sự phân bố thành phần loài TVN trong các ao nuôi tôm còn được đề cập trong

công trình nghiên cứu của Đỗ Thị Bích Lộc (2002) khi đánh giá sự ô nhiễm ao nuôi
tôm Sú qua chỉ số tảo (Phytoplankton) trong các ao nuôi tôm tại Cần Giờ (TP.
HCM), TVN có số loài thấp (14 - 48 loài, tảo Silíc chiếm ưu thế), trong khi mật độ
tế bào lại khá cao dao động từ 8 x 10
3
– 7.720 x 10
9
tế bào/L. Các ao nuôi tôm trên
ruộng lúa có mật độ tảo cao hơn (3,2-7,7 x 10
6
tế bào/L), ưu thế thuộc về các loài
thuộc chi tảo lam Phormidium, Oscillatoria và tảo silíc Nitzschia, Pleurosigma.
Trong một số ao nuôi tôm thuộc Cần Giuộc (Long An) tảo phát triển mạnh, gây ô
nhiễm môi trường với mật độ tế bào dao động 4.436 x 10
6
– 17.266 x 10
6
tb/m
3
cùng với chỉ số đa dạng loài rất thấp (< 2). Từ kết quả nghiên cứu của mình, tác
giả kết luận rằng thành phần loài TVN trong các ao nuôi thấp, trong khi mật độ tế
14
bào lại cao hơn so với kênh rạch (nơi cấp nước cho ao). Sự phát triển quá mạnh
của một số loài đã lấn át sự phát triển của các loài khác, vì thế độ đa dạng loài của
TVN trong ao nuôi tôm thấp hơn so với vực nước tự nhiên. Với môi trường nước
tĩnh và giàu dinh dưỡng là điều kiện tốt cho các loài tảo Lam phát triển mạnh, tạo
đỉnh cao về mật độ tế bào trong ao nuôi [27]. Nguyễn Văn Hảo (2002) cũng đưa ra
một số dữ liệu về TVN trong các ao nuôi tôm ở Tiền Giang, Bến Tre, Cà Mau với
thành phần loài dao động 16 - 44 loài (tảo Silíc chiếm ưu thế) và mật độ tế bào đạt
từ 0,2 – 6,6 x 10

3
tế bào/L. Theo Ông thành phần loài và mật độ tảo trong ao qua
các đợt khảo sát nghèo nàn, trong các loài đã định danh không có tảo độc. Bên
cạnh sự nghèo nàn về loài và mật độ tảo là sự hiện diện khá phong phú của nhóm
Copepoda (ưu thế là Oithona spp) [13].
Bên cạnh công bố kết quả về thành phần loài, số lượng tế bào TVN, các báo
cáo còn đề cập đến mối quan hệ giữa mật độ tế bào với một số yếu tố môi trường
[26], [45][47] hoặc quá trình sinh trưởng và tàn lụi của tảo cũng như các yếu tố
môi trường cần thiết cho tảo phát triển trong các ao nuôi tôm. Theo Nguyễn
Trọng Nho (2002), sinh trưởng của quần thể hoặc quần xã vi tảo trong nuôi tôm
công nghiệp được chia làm năm pha (pha gia tốc dương, pha logarit, pha gia tốc
âm, pha cân bằng và pha tàn lụi). Nhiệt độ thích hợp cho vi tảo phát triển trong
khoảng 25 – 30
o
C, ở nhiệt độ cao hơn 35
o
C hay thấp hơn 16
o
C vi tảo phát triển rất
kém. Khả năng chịu đựng sự thay đổi của vi tảo biển rất lớn, song trong những ao
có độ mặn thấp thường gặp nhiều tảo Lục và tảo Mắt, còn các ao có độ mặn cao
hơn (25 - 30‰) lại thường gặp tảo Silíc [36].
Tại Việt Nam các công trình nghiên cứu nuôi vi tảo làm thức ăn cho động vật ở
nước hay cho mục đích khác được tiến hành gần đây cùng với sự phát triển của nghề
cá, đặc biệt là nghề nuôi cá biển. Nhằm mục đích cung cấp thức ăn tươi sống có chất
lượng cao cho giai đoạn giống của các đối tượng NTTS: Tôm Sú, tôm Bạc, Điệp
Quạt, Bào Ngư, Trai Ngọc, cá Ngựa, ốc Hương…
15
Bắt đầu từ 1974, Trường Đại học Thủy Sản đã nghiên cứu đặc điểm sinh thái
học, môi trường dinh dưỡng và nuôi sinh khối ngoài trời một số loài tảo Silíc

Chaetoceros sp, Skeletonema costatum, Naviculla sp, tảo lục Chlorella sp … Làm
thức ăn cho giai đoạn ấu trùng của các đối tượng NTTS [8], [28], [29].
Năm 1994, Viện nghiên cứu hải sản Hải phòng cũng đã thành công trong việc sử
dụng Chaetoceros calcitrans, Chlamydomonas và Dunalliela salina trong ương nuôi
ấu trùng Trai Ngọc Mã Thị (P. martensii). Ngoài ra còn có công trình của Lê Viễn
Chí (1996) đã nuôi và ứng dụng Skeletonema costatum làm thức ăn cho ấu trùng tôm
Sú tại Hải Phòng [5].
Để cung cấp thức ăn cho ấu trùng Điệp Quạt, ốc Hương… Viện Nghiên cứu
Thủy Sản III đã tiến hành nhập nội và nuôi thu sinh khối các loài tảo Isochrysis
galbana, Nanochloropsis. oculata, Chaetoceros muelleri trong các bể có V = 1m
3
[55]. Một báo cáo mới nhất của Nguyễn Thị Xuân Thu và cs. (2004) đã đưa ra kỹ
thuật phân lập, lưu gữi giống tảo thuần chủng. Ngoài ra báo cáo còn đưa ra các môi
trường dinh dưỡng và điều kiện môi trường để nuôi sinh khối một số loài tảo đơn bào
làm thức ăn cho các động vật thủy sản (Platymonas sp, Chaetoceros sp, Chlorella
sp..) [56]
Trong các công trình đã công bố, đáng kể nhất là các nghiên cứu của Đặng Đình
Kim và cs. (1994, 2002). Trong các công trình nghiên cứu của mình, Ông đã giới
thiệu đặc điểm sinh thái học, thành phần sinh hoá của một số loài tảo thường được sử
dụng trong NTTS. Ngoài ra Ông còn đề cập rất hệ thống và chi tiết về môi trường
dinh dưỡng cũng như các mô hình nuôi nhiều loại vi tảo (tảo Silíc, tảo Lục, tảo Lam)
để làm thức ăn cho động vật ở nước, đặc biệt là giai đoạn ấu trùng của các đối tượng
NTTS [17], [18], [19].
1.1.2 Vai trò của thực vật nổi trong các vực nước tự nhiên và trong các ao
nuôi trồng thủy sản
Vai trò của thực vật nổi trong các vực nước tự nhiên và các ao nuôi trồng thủy
sản là rất lớn và được thể hiện ở hai mặt: có lợi và có hại.
16
- Mặt có lợi
Vấn đề được đề cập và quan tâm nhiều nhất là vai trò của thực vật nổi đối với

nghề nuôi trồng thủy sản. Thực vật nổi là nguồn thức ăn quan trọng của cá, không có
thực vật nổi thì không có nghề cá (Hollerback, 1951) [66]. Thực vật nổi là mắt xích
đầu tiên trong chuỗi thức ăn tự nhiên của vực nước. Thực vật nổi chứa nhiều chất
dinh dưỡng khác nhau, đặc biệt là protein (50 - 70% trọng lượng khô). Do vậy là thức
ăn rất cần thiết cho sự phát triển của nhiều loài động vật nhỏ ở nước (những động vật
này lại là thức ăn tốt cho tôm cá) [36]. Nhiều loài tảo Lục, tảo Silíc do có lượng chất
dinh dưỡng cao, nên được nghiên cứu và nuôi trồng (đại trà) làm thức ăn cho các
động vật ở nước cũng như các đối tượng nuôi trồng thủy sản [5], [8], [19]. Theo Boyr
(1990), năng suất sơ cấp của thực vật nổi là nguồn thức ăn và nguồn cung cấp oxy
hòa tan rất quan trọng cho các động vật ở nước. Sự quang hợp của thực vật nổi đóng
vai trò hết sức quan trọng để duy trì oxy trong nước. Các biến đổi oxy hòa tan trong
quá trình hô hấp, trong quang hợp thường được sử dụng để đánh giá năng suất sơ cấp
ao nuôi trồng thủy sản [72].
Trong các hệ thống NTTS, đặc biệt là trong các ao nuôi tôm công nghiệp, thực
vật nổi là các yếu tố lọc sinh học làm sạch môi trường bởi sự hấp thụ mạnh các chất
dinh dưỡng, đặc biệt là muối amonia - sản phẩm của quá trình phân giải các hợp chất
hữu cơ, thức ăn thừa, chất thải của tôm, hạn chế mức độ gây độc của chúng [36],
[54]. Thực vật nổi cung cấp lượng oxy lớn, thúc đẩy phân huỷ các chất tích tụ trong
ao [30]. [36]. Starron và cs. (1995) khi nghiên cứu khả năng loại trừ tích lũy hữu cơ
trong hệ thống tuần hoàn của trại nuôi cá bằng vi tảo Chlorella và Spirulina cho thấy
nitơrat và phốt phát có thể được loại trừ hoàn toàn bởi các loại tảo hiển vi này [theo
54]. Thực vật nổi còn có vai trò làm giảm cường độ ánh sáng chiếu vào trong ao và
có thể ngăn cản sự phát triển của các loài tảo đáy, đảm bảo sự ổn định cho tôm và
ngăn cản các loài địch hại của tôm như cá, chim [36]. Thực vật nổi hạn chế tối thiểu
các biến động của chất lượng nước, ổn định nhiệt độ và hạn chế sự mất nhiệt của
nước vào mùa đông [21][30]. Sự phát triển của TVN có liên quan chặt chẽ với sự
biến đổi của pH trong ao nuôi. Biến đổi pH trong các vũng nước ven bờ, các ao đầm
17
nhỏ và trong các ao nuôi tôm liên quan đến quá trình quang hợp và hô hấp của thực
vật ở nước. Như vậy pH môi trường phụ thuộc vào sự biến đổi hàm lượng O

2
và CO
2
.
Nghiên cứu sự biến đổi này và độ pH trong ao nuôi giúp ta đánh giá được hiệu quả
tác động kỹ thuật của con người lên quá trình sản xuất tôm thịt, có thể duy trì pH ở
mức dao động ngày đêm không vượt quá 0,5 đơn vị qua việc duy trì hệ thực vật nổi
trong ao nuôi [70], [71].
Để đánh giá chất lượng một nguồn nước, ngoài các chỉ tiêu lý, hoá học, người ta
còn dùng các chỉ tiêu sinh học hay còn gọi là sinh vật chỉ thị. Hầu hết các hệ thống sử
dụng sinh vật chỉ thị đều dựa vào: Vi khuẩn, Động vật nguyên sinh, Vi tảo, Giáp xác
nhỏ, Động vật không xương sống lớn, Thực vật lớn ở nước và Cá [44]. Trong ao
NTTS có gặp một số loài tảo Lục, tảo Mắt có roi và tảo Lam (Chlamydomonas,
Euglena, Oscillatoria, Phormidium ...) được xem là sinh vật chỉ thị cho sự nhiễm bẩn
của vực nước. Theo Trần Trường Lưu và cộng tác viên (1994) khi khảo sát nguyên
nhân gây chết tôm nuôi ở khu vực phía Nam cho biết ở những ao tôm đang chết tảo
Lam có mật độ khoảng 60.000 ct/L và nhóm Giáp xác, Giun nhiều tơ là thức ăn tốt
cho tôm không đáng kể, Copepoda chỉ đạt 7.000 – 10.000 ct/m
3
, tác giả cho rằng ao
nuôi này có độ nhiễm bẩn vừa. Ở một ao khác với mật độ tế bào của tảo Mắt (loài chỉ
thị là E. acus) là 80.000 ct/L (chiếm 66,70% số lượng tảo) cùng với sự có mặt của tảo
Mắt khác (Phacus longicauda), hay những động vật ở nước khác (Protozoa,
Rotatoria) đã chứng tỏ rằng ao nuôi tôm này có độ nhiễm bẩn nặng hơn ao trên [26].
Nhìn chung, thực vật nổi đóng vai trò quan trọng trong sự ổn định hệ sinh thái ao
nuôi và hạn chế tối thiểu các biến động chất lượng nước. Một quần xã thực vật nổi ổn
định đảm bảo lượng oxy hòa tan thông qua quá trình quang hợp và làm giảm lượng
CO
2
, NH

3
, H
2
S, giảm thiểu tác động độc hại của NH
3
và H
2
S lên các đối tượng nuôi.
Một tập đoàn thực vật nổi tốt có thể làm giảm các chất độc trong nước nhờ khả năng
hấp thụ NH
3
và giữ các kim loại nặng [36]. Chúng cạnh tranh với các loài thực vật và
các vi sinh vật khác không có lợi trong ao, nhất là các loài có khả năng gây bệnh cho
tôm, làm tăng lượng thức ăn tự nhiên và làm giảm chi phí nguồn thức ăn bổ sung
18

×