Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

(Luận văn thạc sĩ) phân tích mối quan hệ giữa chính sách tài khóa, tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.31 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


PHAN THỊ NGỌC NHUNG

PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÍNH SÁCH
TÀI KHĨA, TÀI KHOẢN VÃNG LAI VÀ TỶ GIÁ
HỐI ĐOÁI THỰC Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

TP. HồChí Minh 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


PHAN THỊ NGỌC NHUNG

PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÍNH SÁCH
TÀI KHĨA, TÀI KHOẢN VÃNG LAI VÀ TỶ GIÁ
HỐI ĐOÁI THỰC Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG



TP. Hồ Chí Minh 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin, dữ liệu được sử dụng trong bài luận
văn: “Phân tích mối quan hệ giữa chính sách tài khóa, tài khoản vãng lai và tỷ
giá hối đoái thực ở Việt Nam” là trung thực, các nội dung trích dẫn đều ghi rõ
nguồn gốc và các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này chưa được
công bố tại bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm với lời cam đoan trên.
TP.Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2014
Học viên thực hiện

PHAN THỊ NGỌC NHUNG


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
TĨM TẮT ...................................................................................................................1
1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI – MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ......................2
1.1 Giới thiệu ...........................................................................................................2
1.2 Mục tiêu nghiên cứu ..........................................................................................3
2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY ...............4
2.1 Các mơ hình lý thuyết về “thâm hụt kép” .........................................................4
2.2 Các nghiên cứu thực nghiệm về thâm hụt kép trên thế giới ..............................6

3. PHƯƠNG PHÁP, DỮ LIỆU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ..............................16
3.1 Phương pháp nghiên cứu .................................................................................16
3.2 Dữ liệu và phạm vi nghiên cứu ........................................................................23
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...................................................................................25
4.1 Các thống kê sơ bộ về mối tương quan giữa thâm hụt ngân sách, tài khoản
vãng lai và tỷ giá hối đoái thực ở Việt Nam ..........................................................25
4.2 Kết quả nghiên cứu từ mô hình hồi quy cơ bản...............................................38
4.3 Kiểm định tác động của cú sốc sản lượng và cú sốc thâm hụt ngân sách đến
từng thành phần trong tài khoản vãng lai ..............................................................45
4.4 Kiểm định tác động của cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ đến tài khoản
vãng lai thơng qua từng thành phần của cán cân ngân sách ..................................48
4.5 Phân tích sự biến động đồng thời ....................................................................51
5. KẾT LUẬN ...........................................................................................................56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Hệ số tương quan giữa thâm hụt ngân sách chính phủ (GOV) và tài khoản
vãng lai (CUR) và tỷ giá hối đoái thực (RER) ở Việt Nam trong giai đoạn 1995 –
2013 ...........................................................................................................................37
Bảng 2: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị đối với các biến số được sử dụng trong
bài ..............................................................................................................................38
Bảng 3: Tiêu chí lựa chọn độ trễ của mơ hình .........................................................39
Bảng 4: Đóng góp của các cú sốc cấu trúc trong tổng biến động thâm hụt ngân sách ......43
Bảng 5: Phân tích sự biến động đồng thời ...............................................................52


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1: Cấu trúc ma trận của mơ hình VAR với 5 biến cơ bản ...............................19

Hình 2: Cấu trúc ma trận của mơ hình VAR mở rộng với CURA là các thành phần
của tài khoản vãng lai ................................................................................................20
Hình 3: Cấu trúc ma trận của mơ hình VAR 5 biến với GOV SPEND là chi tiêu
ngân sách chính phủ ..................................................................................................21
Hình 4: Cấu trúc ma trận của mơ hình VAR với GOV TAX là tổng thu ngân sách
chính phủ ...................................................................................................................22
Hình 5: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP), Tỷ lệ thâm hụt tài ngân sách (GOV) và
thâm hụt tài khoản vãng lai (CUR) trên GDP ở Việt Nam giai đoạn 1991 – 1996 ..26
Hình 6: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP), Tỷ lệ thâm hụt ngân sách (GOV) và
thâm hụt tài khoản vãng lai (CUR) trên GDP ở Việt Nam trong giai đoạn 1997 –
2001 ...........................................................................................................................28
Hình 7: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP), Tỷ lệ thâm hụt ngân sách (GOV) và
thâm hụt tài khoản vãng lai (CUR) trên GDP ở Việt Nam trong giai đoạn 2002 –
2007 ...........................................................................................................................31
Hình 8:Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP), Tỷ lệ thâm hụt ngân sách (GOV) và
thâm hụt tài khoản vãng lai (CUR) trên GDP ở Việt Nam trong giai đoạn 2008 –
2013 ...........................................................................................................................35
Hình 9: Diễn biến tỷ giá danh nghĩa VND/USD (ER), tỷ giá danh nghĩa hiệu lực
(NER), tỷ giá thực hiệu lực (RER) trong giai đoạn 1995 – 2013. ............................36
Hình 10: Hàm phản ứng xung của các biến trong mơ hình VAR cơ bản theo từng
cú sốc với độ trễ n = 1. ..............................................................................................40
Hình 11: Hàm phản ứng xung của các biến trong mơ hình VAR cơ bản theo từng
cú sốc với độ trễ n = 8. ..............................................................................................40
Hình 12: Mơ hình hồi quy cơ bản ............................................................................41
Hình 13: Tác động của cú sốc sản lượng và cú sốc thâm hụt ngân sách đến từng
thành phần của tài khoản vãng lai và tỷ giá danh nghĩa hiệu lực .............................47
Hình 14: Tác động của cú sốc chi tiêu chính phủ và cú sốc thuế ............................50


1


TĨM TẮT
Bài viết tập trung vào việc phân tích mối quan hệ giữa chính sách tài khóa, tài
khoản vãng lai và tỷ giá hối đối thực, đồng thời tìm ra xu hướng biến động đồng
thời cùng chiều hoặc ngược chiều giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai ở
Việt Nam trong giai đoạn 1995 – 2013. Mặc cho những quan ngại về tình trạng
thâm hụt kép ở Mỹ, các bằng chứng thực nghiệm của tác giả Soyoung Kim và
Nouriel Rubini trong bài nghiên cứu “Thâm hụt kép hay phân kỳ kép – Chính sách
tài khóa, tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực ở Mỹ” cho thấy rằng phân kỳ kép
là đặc điểm phổ biến của dữ liệu lịch sử, cụ thể, khi ngân sách bị thâm hụt thì tài
khoản vãng lai lại càng thặng dư và ngược lại. Bằng cách sử dụng mơ hình VAR
cùng với tập hợp dữ liệu về cán cân ngân sách, tài khoản vãng lai và tỷ giá thực
trong suốt thời kỳ cơ chế tỷ giá thả nổi ở Mỹ, các cú sốc tài khóa ngoại sinh được
xác định sau khi kiểm soát ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế lên cán cân ngân sách.
Ngược lại với các dự báo của mơ hình lý thuyết, kết quả của hai tác giả cho thấy
rằng một cú sốc tài khóa mở rộng, hoặc cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ, sẽ cải
thiện cán cân tài khoản vãng lai và làm giảm giá trị đồng nội tệ theo tỷ giá thực. Sự
gia tăng tiết kiệm và sụt giảm đầu tư của khu vực tư nhân là nhân tố góp phần cải
thiện tài khoản vãng lai, trong khi đó, sự sụt giảm tỷ giá danh nghĩa là nguyên nhân
chính dẫn đến sụt giảm tỷ giá thực, thay vì là do thay đổi trong mức giá chung. Tính
phân kỳ kép giữa cán cân tài khoản vãng lai và cán cân tài khóa cũng được giải
thích bởi các cú sốc về sản lượng, hay còn gọi là các “output shock”, không những
vậy, các cú sốc về sản lượng dường như dẫn đến sự biến động trái chiều kép giữa
thâm hụt tài khoản vãng lai và thâm hụt ngân sách mạnh hơn là các cú sốc tài khóa.
Dựa theo phương pháp và kết quả nghiên cứu của các tác giả, bài viết tiến hành
phân tích định lượng để xác định xem liệu có xảy ra hiện tượng biến động trái chiều
kép giữa thâm hụt ngân sách, thâm hụt tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực ở
Việt Nam hay khơng. Sau khi có được những kết quả cơ bản từ mơ hình VAR, bài
viết tiếp tục xây dựng những kiểm định mở rộng để tìm kiếm nguyên nhân dẫn đến
tình trạng phân kỳ kép mà cụ thể là cú sốc sản lượng và cú sốc tài khóa. Kết quả có



2

được sẽ cho chúng ta cơ sở để đánh giá thực trạng cũng như đề xuất giải pháp khắc
phục tình trạng thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai dai dẳng ở Việt
Nam trong thời gian qua.
1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI – MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.1 Giới thiệu
Câu hỏi liên quan tới mối mối quan hệ giữa chính sách tài khóa, tài khoản vãng
lai và tỷ giá thực luôn là mối quan tâm thú vị trong phân tích lý thuyết và nghiên
cứu thực nghiệm. Trong những năm gần đây, giả thuyết thâm hụt kép – tức thâm
hụt tài khóa kéo theo thâm hụt tài khoản vãng lai – một lần nữa lại trở thành chủ đề
nóng trong các cuộc tranh luận kinh tế. Cuộc tranh luận đầu tiên xuất hiện ở Hoa Kỳ
vào nửa đầu những năm 80, đánh dấu một giai đoạn đồng đô la bị định giá cao và sự
thay đổi bất thường trong cán cân tài khoản vãng lai cũng như thâm hụt ngân sách
của Mỹ. Các quốc gia châu Âu như Đức, Thụy Điển… cũng đối mặt với vấn đề
tương tự trong những năm đầu thập niên 90. Tại Việt Nam, kể từ cuộc khủng hoảng
tài chính tồn cầu 2008, tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài dai dẳng và
thâm hụt ngân sách liên tục cao vượt trội so với các nước trong khu vực đã trở thành
vấn đề lo ngại hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách.Mặc dù đã có nhiều
nghiên cứu về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai
ở nhiều nước trên thế giới, cho đến nay các kết quả nghiên cứu vẫn chưa thống nhất.
Một số nghiên cứu cho rằng thâm hụt tài khóa cao hơn sẽ dẫn đến thâm hụt tài
khoản vãng lai cao hơn, nhưng cũng có những nghiên cứu chứng minh điều ngược
lại, hoặc thậm chí khơng có tác động đáng kể giữa thâm hụt tài khóa và thâm hụt tài
khoản vãng lai. Vậy đối với nền kinh tế Việt Nam, mối quan hệ này tồn tại như thế
nào? Liệu có xảy ra sự biến động cùng chiều giữa tài khoản vãng lai và cán cân
ngân sách chính phủ hay xuất hiện hiện tượng biến động trái chiều kép? Đây cũng
chính là động lực để bài viết tiến hành nghiên cứu thực nghiệm với chủ đề: “Phân

tích mối quan hệ giữa cán cân ngân sách, tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực
ở Việt Nam”.


3

Dựa trên nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa chính sách tài khóa, tài
khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực ở Việt Nam giai đoạn 1995-2013, bài viết chỉ
ra các bằng chứng về sự tồn tại của mối quan hệ trái chiều giữa thâm hụt ngân sách
và thâm hụt tài khoản vãng lai ở Việt Nam, ngược lại với các dự báo của mơ hình lý
thuyết. Song song đó, diễn biến trái chiều – hay cịn gọi là tính phân kỳ kép giữa
cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai cịn được giải thích thơng qua phân tích tác
động của từng cú sốc – cú sốc sản lượng và cú sốc tài khóa. Những kết quả này sẽ là
những đóng góp có ích để đánh giá thực trạng và đề ra giải pháp cải thiện tình trạng
thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài ở Việt Nam.
Bài viết có bố cục như sau.Phần 1 sẽ giới thiệu sơ lược về đề tài, lý do lựa chọn
đề tài và mục tiêu nghiên cứu. Trong phần 2, bài viết trình bày tổng quan các nghiên
cứu trước đây, bao gồm các lý thuyết về thâm hụt kép, các kết quả thực nghiệm về
mối quan hệ giữa thâm hụt kép và thâm hụt tài khoản vãng lai ở nhiều quốc gia trên
thế giới, trong đó tập trung vào mối quan hệ phân kỳ kép mà hai tác giả Soyoung
Kim và Nouriel Rubini đã tìm thấy trong bài nghiên cứu“Twin deficit or twin
divergence? Fiscal policy, current account and real exchange rate in the US”. Sau
đó, phương pháp nghiên cứu, dữ liệu và phạm vi nghiên cứu được sử dụng chủ yếu
trong bài được trình bày tiếp theo trong phần 3. Tiếp đến, phần 4 sẽ cung cấp các
bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa chính sách tài khóa, tài khoản vãng
lai và tỷ giá thực ở Việt Nam trong giai đoạn 1995 – 2013 dựa trên mơ hình VAR.
Cuối cùng ,ở phần 5, bài viết sẽ kết luận bằng việc tóm tắt kết quả nghiên cứu và đề
xuất hướng mở rộng cho các nghiên cứu tiếp theo trong tương lai.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Bài viết hướng đến mục tiêu trả lời cho câu hỏi: “Mối quan hệ giữa chính sách

tài khóa, hay cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủvà thâm hụt tài khoản vãng lai ở
Việt Nam là thâm hụt kép hay phân kỳ kép? Song song đó, tỷ giá thực có xu hướng
biến động như thế nào với cán cân tài khóa và cán cân vãng lai?”. Cụ thể, trong giai
đoạn từ 1995 đến 2013, tình trạng thâm hụt tài khóa ở Việt Nam có dẫn đến cải
thiện tài khoản vãng lai và làm giảm giá trị đồng nội tệ như các nghiên cứu trước


4

đây về nền kinh tế Mỹ từng đề cập? Dựa trên mơ hình VAR, các cú sốc tài khóa
ngoại sinh sẽ được xác định sau khi kiểm soát ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế lên cán
cân ngân sách, đồng thời sẽ giúp trả lời cho câu hỏi nghiên cứu trên.
2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
2.1 Các mơ hình lý thuyết về “thâm hụt kép”
Câu hỏi về mối quan hệ giữa thâm hụt tài khóa và thâm hụt tài khoản vãng lai
bắt đầu thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu vào khoản đầu thập niên 80. Hầu
hết các mơ hình lý thuyết đều cho rằng một cú sốc thâm hụt ngân sách dương sẽ dẫn
đến thâm hụt tài khoản vãng lai và làm tăng tỷ giá thực. Điều này được suy ra từ
định nghĩa thu nhập quốc gia trong nền kinh tế mở theo mơ hình Keynes truyền
thống:
Y=C+I+G+X–M

(1)

Trong đó, thu nhập quốc gia được tính bằng tổng số của tiêu dùng tư nhân (C), đầu
tư tư nhân (I), chi tiêu chính phủ (G) và cán cân xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ
của nền kinh tế (X-M). Từ phương trình (1), tài khoản vãng lai, được định nghĩa
như chênh lệch giữa xuất khẩu (X) và nhập khẩu (M), có thể được viết lại là:
CA = Y – C – I – G


(2)

Biến đổi phương trình (2) bằng cách cộng (+) trừ (–) T vào vế phải của phương
trình, ta có:
CA = (Y – C – T) + (T – G) – I

(3)

Với (Y – C – T) là tiết kiệm khu vực tư nhân, ký hiệu Sp , (T – G) là tiết kiệm chính
phủ, ký hiệu Sg , ta có cán cân tài khoản vãng lai sẽ bằng với chênh lệch giữa tổng
tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước :
CA = Sp + Sg – I

(4)

Chúng ta cũng có thể viết phương trình (4) dưới dạng chênh lệch giữa tiết kiệm tư
nhân với thâm hụt ngân sách chính phủ và đầu tư tư nhân. Bằng cách đổi dấu Sg , ta
có BD = G – T là thâm hụt ngân sách chính phủ:
CA = Sp – BD – I

(5)


5

Phương trình (5) nói lên rằng một sự gia tăng trong thâm hụt ngân sách chính
phủ sẽ dẫn đến sự gia tăng tương ứng trong thâm hụt tài khoản vãng lai, nếu tiết
kiệm tư nhân và đầu tư tư nhân chỉ thay đổi rất ít hoặc khơng thay đổi. Điều này
phù hợp với quan điểm truyền thống của Keynes. Cụ thể, theo quan điểm này, khi
nền kinh tế mở đang hoạt động ở mức toàn dụng lao động và các điều kiện khác

không đổi, thâm hụt ngân sách lớn và kéo dài sẽ tác động một cách sâu sắc đến việc
tạo lập nguồn vốn, giá cả các yếu tố sản xuất, phân phối thu nhập, tỷ giá hối đoái và
thương mại quốc tế.
Để làm rõ giả thuyết về thâm hụt kép, nhiều nhà nghiên cứu đã cố gắng tìm câu
trả lời thơng qua các mơ hình tốn học phức tạp.Nổi bật trong số đó là mơ hình các
chế độ tỷ giá hối đoái (1962) trong bài viết của Mundell – Fleming (FM).Các mơ
hình của Mundell-Felming đề xuất rằng việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ dẫn đến
sự gia tăng lãi suất trong nước do chính phủ phải vay nợ để tài trợ cho thâm hụt
ngân sách. Lãi suất tăng tạo động lực thu hút dịng vốn nước ngồi chảy vào trong
nước nhiều hơn, gây áp lực làm cho đồng nội tệ tăng giá. Đến lượt nó, nội tệ tăng
giá gây ra tác động tiêu cực lên cán cân thương mại và dẫn đến thâm hụt tài khoản
vãng lai.
Trong khi thừa nhận những tác động gây hại đến nền kinh tế và xã hội của thâm
hụt ngân sách lớn, các nhà phê bình phương pháp của FM đã tranh cãi mạnh mẽ về
các chuỗi nhân quả của các mơ hình này.Quan điểm “tài khoản vãng lai mục tiêu”
của Summers (1988) lập luận rằng một mối quan hệ nhân quả đảo ngược có thể xảy
ra từ thâm hụt tài khoản vãng lai tới thâm hụt ngân sách chính phủ, khi sự thâm hụt
trong tài khoản vãng lai dẫn đến tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm hơn và dẫn đến sự
gia tăng thâm hụt ngân sách. Ông cho rằng điều này đặc biệt đúng trong một nền
kinh tế mở cửa, đang phát triển và phụ thuộc lớn vào dòng vốn đầu tư nước ngoài
để tài trợ cho sự phát triển kinh tế. Đặt biệt, đối với những quốc gia đang gặp phải
khủng hoảng tài chínhhay khủng hoảng cán cân thanh tốn do thâm hụt tài khoản
vãng lai quá mức, chính phủ buộc phải bơm một lượng vốn công lớn vào nền kinh
tế để phục hồi ngành tài chính đang gặp khó khăn , cải thiện hệ thống quản trị doanh


6

nghiệp và khắc phục hậu quả của cuộc suy thoái, từ đó làm cho ngân sách chính phủ
bị thâm hụt một lượng vốn lớn.

Một quan điểm khác, "Học thuyết tương đương" của nhà kinh tế học cổ điển
David Ricardo (1817) cho rằng khơng có mối tương quan rõ ràng giữa thâm hụt
ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai. Theo Ricardo, thâm hụt ngân sách không
làm thay đổi việc tạo lập nguồn vốn và tăng trưởng kinh tế hoặc làm thay đổi mức
tổng cầu (bao gồm cả nhu cầu đối với hàng hoá nhập khẩu) do các cá nhân sẽ tiết
kiệm nhiều hơn khi họ biết được họ sẽ phải đóng thuế nhiều hơn trong tương lai để
tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Mặc dù gây nhiều tranh cãi nhưng giả thuyết trung
lập của Ricardo cho rằng khu vực tư nhân xem thâm hụt ngân sách giống như các
khoản đầu tư công và xem các khoản đầu tư công và đầu tư cá nhân như là một sự
thay thế hồn hảo. Do đó, các biện pháp tài chính được đưa ra nhằm tác động đến
tổng cầu sẽ không có kết quả vì cá nhân giảm tiêu dùng và tiết kiệm nhiều hơn
nhằm tránh các nghĩa vụ về thuế trong tương lai.
Nghiên cứu của Baxter (1995) cũng cho thấy một cái nhìn thú vị về thâm hụt
kép. Tác giả đã đặt giả định lên hai chính sách tài khóa có thể dẫn đến thâm hụt
ngân sách: một là, sự gia tăng chi tiêu chính phủ khơng đi đơi với sự gia tăng nguồn
thu ngân sách; hai là, việc cắt giảm thuế đánh trên lao động và thuế lãi vốn khơng đi
đơi với việc cắt giảm chi tiêu chính phủ. Kết quả là, dưới hai chính sách này, thâm
hụt ngân sách sẽ tăng khoảng 1% GDP trong ngắn hạn và giảm dần trong dài hạn;
đồng thời, sự gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ kéo theo thâm hụt tài khoản vãng lai
khoảng 0.5% GDP. Trong khi đó, mơ hình kinh tế mở mới của Obstfeld và Rogoff
(1995) thì cho rằng các cú sốc chi tiêu dài hạn của chính phủ có thể làm gia tăng
tổng cầu, từ đó giúp tăng sản lượng của nền kinh tế, cải thiện tài khoản vãng lai và
làm giảm tỷ giá thực.
2.2 Các nghiên cứu thực nghiệm về thâm hụt kép trên thế giới
Trong khi giả thuyết thâm hụt kép khẳng định rằng, sự gia tăng thâm hụt tài
khóa sẽ gây ra sự gia tăng tương ứng trong thâm hụt tài khoản vãng lai, tuy nhiên
các nghiên cứu thực nghiệm lại cho ra kết quả khác nhau.


7


Các nghiên cứu ủng hộ lý thuyết thâm hụt kép
Mở đầu cho những nghiên cứu thực nghiệm về thâm hụt kép, Laney (1984) đã
chứng minh mối quan hệ một chiều từ thâm hụt ngân sách tới thâm hụt tài khoản
vãng lai khi ông nghiên cứu mối quan hệ giữa đồng đô la Mỹ được định giá quá
cao, thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai lớn ở Mỹ , các nước phát
triển cũng như các nước đang phát triển khác. Sử dụng phương pháp bình phương
bé nhất (OLS), kết quả cho thấy rằng cân bằng tài khóa là một yếu tố quyết định sự
cân bằng bên ngoài, có ý nghĩa thống kê đáng chú ý ở các nước đang phát triển hơn
là các nước công nghiệp. Sau đó, Ahmed (1986) cũng chứng tỏ rằng một sự thay
đổi rõ ràng và tạm thời trong chi tiêu Chính phủ sẽ dẫn đến thâm hụt tài khoản vãng
lai thông qua sự sụt giảm tổng cầu. Ngược lại,Miller and Russek (1989) thì tìm ra
những kết quả trái ngược phụ thuộc vào mơ hình kinh tế lượng của dữ liệu.Những
tác giả này cho rằng các mơ hình xác định (deterministic) và mơ hình ngẫu nhiên
thống kê (stochastic) đưa ra tương quan cùng chiều giữa thâm hụt ngân sách và
thâm hụt thương mại suốt giai đoạn áp dụng tỷ giá linh hoạt.Tuy nhiên khi phân tích
tính đồng liên kết, họ khơng tìm thấy bằng chứng ủng hộ cho mối quan hệ trong dài
hạn giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại.
Tiếp đến, hàng loạtcác nghiên cứu thực nghiệm ủng hộ lý thuyết thâm hụt kép
theo trường phái Keynes truyền thống đã ra đời, chẳng hạn như: nghiên cứu của
Roubini (1988), Abell (1990), Normandin (1999), Vamvaukas (1999), Roubini và
Setser (2005). Tuy nhiên, các bằng chứng được tìm thấy lại có sự khác biệt khá lớn,
thậm chí có sự khơng đồng nhất về chiều hướng tác động của thâm hụt ngân sách
lên thâm hụt tài khoản vãng lai. Ví dụ, theo nghiên cứu của Roubini (1988) và
Normandin (1999), Erceg, Guerrieri, và Gust (2004), thâm hụt ngân sách gây ra sự
sụt giảm đáng kể trong thâm hụt thương mại, cụ thể, 1 dollar thâm hụt ngân sách ở
Mỹ sẽ làm tăng thâm hụt thương mại từ 0.22 đến 0.98 dollar. Ngoài ra, theo
Roubini và Setser (2005), việc nền kinh tế Mỹ vẫn ở trong tình trạng thâm hụt
thương mại ngay cả khi đồng dollar sụt giảm mạnh vào năm 2003 một phần là do
thâm hụt ngân sách lớn và liên tục ở Mỹ. Do thâm hụt tài khóa vẫn lớn và tiết kiệm



8

tư nhân ở Mỹ vẫn thấp, sự sụt giảm giá trị của đồng dollar sẽ làm giảm thâm hụt
thương mại khi và chỉ khi tiêu dùng tư nhân giảm mạnh (tức tiết kiệm tư nhân tăng),
hay khi có sự sụt giảm trong đầu tư tư nhân do lãi suất thực tăng cao. Theo nhiều
tác giả, vào năm 2004, tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP vẫn giữ nguyên không
đổi, lãi suất thực vẫn thấp, tiết kiệm tư nhân giảm và đầu tư tư nhân tăng cao. Kết
quả là, khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư ngày càng mở rộng, thâm hụt tài khoản
vãng lai tiếp tục duy trì.
Sử dụng dữ liệu sau chiến tranh thế giới thứ 2 ở Mỹ, Leachman và Francis
(2002) nhận thấy chuỗi dữ liệu chính sách tài khóa và tài khoản vãng lai trước năm
1974 có mối quan hệ đồng liên kết. Điều này giúp cho giả thiết về mối tương quan
ngắn hạn giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai không bị bác
bỏ.Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng tồn tại tình trạng thâm hụt kép trong dài
hạn sau chiến tranh thế giới thứ 2, thời kỳ Bretton Woods. Trong khi đó, các kết quả
từ mơ hình cơ chế hiệu chỉnh sai số của Leachman và Francis (2002) đã thể hiện
mối quan hệ nhân quả đi từ thâm hụt bên trong tới thâm hụt bên ngoài, điều này đã
ủng hộ cho lập luận rằng, tình trạng thâm hụt ngân sách sau chiến tranh thế giới thứ
2 là một trong những nguyên nhân dẫn đến thâm hụt tài khoản vãng lai. Riêng với
thời kỳ trước đó, các kết quả thực nghiệm cho thấy mối quan hệ thâm hụt kép chỉ
tồn tại trong thời gian rất ngắn.
Khi nghiên cứu về một số các quốc gia EU, Beetsma và cộng sự (2007) nhận
thấy rằng, cú sốc chi tiêu chính phủ làm giảm cán cân vãng lai và tăng tỷ giá thực,
trong đó, kênh truyền dẫn chủ yếu trong ngắn hạn chính là cú sốc sản lượng, cịn
trong dài hạn chính là tỷ giá thực. Monacelli và Perotti (2007) nhận thấy rằng, theo
sau sự gia tăng chi tiêu dùng của chính phủ Mỹ, tài khoản vãng lai vẫn ở quanh xu
hướng ban đầu, nhưng cải thiện dần sau 3 năm. Họ cũng tìm thấy bằng chứng mạnh
mẽ ủng hộ giả thuyết thâm hụt kép ở Anh, Úc và Canada. Corsetti và Muller (2006)

thì cho rằng tác động của cú sốc tài khóa lên tài khoản vãng lai dường như mạnh
hơn và dai dẳng hơn trong những nền kinh tế mà tổng khối lượng mậu dịch chiếm


9

tỷ trọng lớn trong GDP (Canada, Anh) so với những nền kinh tế mà khối lượng mậu
dịch chiếm tỷ trọng nhỏ trong GDP.
Với phân tích bằng mơ hình hồi quy dữ liệu bảng cho một tập hợp các quốc gia,
nhiều nghiên cứu đã tìm thấy tác động có ý nghĩa thống kê đáng kể của các biến tài
khóa lên sự mất cân bằng bên ngoài. Nghiên cứu gần đây nhất là của Abbas và cộng
sự (2010) nghiên cứu về các nhân tố quyết định tài khoản vãng lai cho 135 quốc gia
trong giai đoạn 1975-2004, bằng cách sử dụng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên GLS,
tác giả đã chứng tỏ mối tương quan dương giữa tài khoản vãng lai và cán cân ngân
sách. Trong khi đó, Leigh (2008) cho thấy một sự gia tăng trong chi tiêu dùng của
chính phủ có tương quan với sự gia tăng tỷ giá thực cân bằng ở những quốc gia phát
triển và đang phát triển khi hồi quy với dữ liệu bảng. Riêng tác động thực lên tài
khoản vãng lai có thể khác nhau tùy thuộc vào xu hướng điều chỉnh của tỷ giá thực
về trạng thái cân bằng. Tài khoản vãng lai sẽ bị thâm hụt lớn nếu tỷ giá tăng vượt
quá mức cân bằng và ngược lại. Mohammadi (2004) đã tìm thấy tác động đối xứng
của việc mở rộng và thu hẹp tài khóa cho mẫu 23 quốc gia phát triển, cùng 43 quốc
gia mới nổi và đang phát triển, đó là sự gia tăng chi tiêu chính phủ được tài trợ bởi
sự gia tăng thuế thường đi kèm với sự sụt giảm tài khoản vãng lai ở các quốc gia
phát triển và đang phát triển; nếu chi tiêu chính phủ được tài trợ bằng nợ vay, cán
cân vãng lai ở những nước đang phát triển sẽ sụt giảm nhiều hơn so với những nước
phát triển. Trái lại, nghiên cứu của Khalid và Guan (1999) không ủng hộ mối quan
hệ dài hạn giữa thâm hụt tài khoản vãng lai và thâm hụt ngân sách ở những nước
phát triển, tuy nhiên ở những nước đang phát triển thì vẫn tồn tại mối quan hệ này.
Bên cạnh đó, nghiên cứu của những tác giả này còn cho thấy chiều hướng nhân quả
chạy từ thâm hụt ngân sách tới thâm hụt tài khoản vãng lai cho hầu hết các quốc gia

trong mẫu.
Ngoài ra, một số nghiên cứu còn cho thấy tồn tại mối quan hệ hai chiều giữa
thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai. Chẳng hạn như Darrat (1988) sử
dụng kiểm định nhân quả đa biến Granger kết hợp với chỉ tiêu Akaike để nghiên
cứu mối quan hệ nhân quả giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai ở


10

Mỹ cho giai đoạn từ 1/1960 đến 4/1984. Kết quả thực nghiệm cho thấy tồn tại mối
quan hệ hai chiều giữa hai biến.Islam (1998) phân tích giả thuyết về tình trạng thâm
hụt kép ở Brazil cho giai đoạn 1973 - 1991. Kết quả của ông cũng đã cung cấp bằng
chứng chứng tỏ mối quan hệ hai chiều giữa cán cân ngân sách và sự mất cân bằng
thương mại. Đối với trường hợp của Ma-rốc, sử dụng kiểm định đồng liên kết và
các mơ hình hiệu chỉnh sai số, Mansouri (1998) cho rằng hai biến thâm hụt bên
trong và thâm hụt bên ngồi có mối quan hệ nhân quả hai chiều trong ngắn hạn lẫn
dài hạn.
Tương tự, cũng có nhiều nghiên cứu khác ủng hộ lý thuyết thâm hụt kép, chẳng
hạn như nghiên cứu của Islam (1990), khi sử dụng dữ liệu từ Brazil trong bài
nghiên cứu “Brazil’s twin deficits: An empirical examination”, thì thấy rằng có sự
tương quan cùng chiều lâu dài giữa thâm hụt ngân sách và thâm hut thương mại.
Một

nghiên

cứu

khác

của


Kenneth

Kasa

(1994)

trong

bài“FiniteHorizonsandtheTwinDeficits” thì đã tìm thấy mối quan hệ giữa thâm hụt
thương mại và thâm hụt ngân sách trong thời kỳ chiến tranh giữa Mỹ, Nhật và Đức
sau khi kiểm sốt tác động của chi tiêu cơng lên GNP. Cịn với bài nghiên
cứu“Budget Deficit Persistence and the Twin Deficits Hypothesis” của Normandin
(1999), tác giả đã chỉ ra rằng tăng thuế sẽ trực tiếp làm giảm thâm hụt ngân sách và
sẽ gián tiếp làm giảm thâm hụt nước ngoài, nhờ vào lượng cắt giảm tiêu dùng hàng
nhập khẩu do thu nhập cá nhân sau thuế bị giảm đi.
Các nghiên cứu không ủng hộ lý thuyết thâm hụt kép
Những nhà nghiên cứu theo trường phái lý thuyết cân bằng Ricardo cho rằng,
thâm hụt ngân sách không gây ra bất kỳ sự thay đổi nào trong lãi suất và tỷ giá hối
đoái, do đó khơng gây ra sự mất cân bằng nào trong tài khoản vãng lai. Nói cách
khác, thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai là độc lập với nhau. Đã có
nhiều nghiên cứu đưa ra bằng chứng ủng hộ cho lý thuyết cân bằng của Ricardo.
Một trong những nghiên cứu đầu tiên phát hiện ra mối quan hệ độc lập giữa thâm
hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai là nghiên cứu của Barro, R.J. (1989).
Theo tác giả, việc giảm tiết kiệm công do thâm hụt ngân sách sẽ dẫn đến sự gia tăng


11

tương ứng trong tiết kiệm tư nhân. Nguyên nhân là do người tiêu dùng mong đợi

rằng việc cắt giảm thuế ngày hôm nay sẽ dẫn đến sự gia tăng số thuế phải nộp trong
tương lai để thực hiện nghĩa vụ nợ cơng, do đó ngày hơm nay họ sẽ tiết kiệm nhiều
hơn. Kết quả là tổng tiết kiệm và đầu tư của tồn nền kinh tế khơng đổi, cán cân tài
khoản vãng lai khơng bị ảnh hưởng.
Tiếp đó, Kaufman S., J.Scharler và G.Winckler (1999) đã tìm ra câu trả lời
trong bài nghiên cứu về việc tài khoản vãng lai của Úc chịu tác động của thâm hụt
ngân sách quốc gia thơng qua yếu tố lãi suất (như mơ hình truyền thống của
Mundell – Fleming), hay chịu tác động của sự tái phân bổ giữa tiêu dùng và đầu tư
(theo lý thuyết cân bằng Ricardo). Dựa trên dữ liệu hàng quý từ 1976 đến 1997, tác
giả sử dụng mơ hình VECM để tính tốn phương sai sai số dự báo của biến tài
khoản vãng lai và hàm phản ứng đẩy. Việc tính tốn phương sai sai số dự báo cho ra
kết quả là: trong dài hạn, năng suất nội địa và độ mở thương mại chiếm 65% sai số
dự báo, thâm hụt ngân sách chiếm 14%, chi tiêu chính phủ chỉ chiếm gần 5% và lãi
suất thì hầu như khơng có ảnh hưởng đến thâm hụt tài khoản vãng lai. Do lãi suất là
một biến quan trọng trong mơ hình Mundell – Fleming, đóng vai trị làm cầu nối
giữa thâm hụt ngân sách và tài khoản vãng lai, kết quả của Kaufman và cộng sự đã
cho thấy bằng chứng chống lại sự liên kết giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài
khoản vãng lai.
Đặc biệt, trong các cuộc nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ dài hạn giữa hai
loại thâm hụt ở Mỹ, Bartlett (1999) đã kết luận rằng mối quan hệ giữa hai loại
thâm hụt này là không thống nhất. Các bằng chứng của Bartlett cho thấy trong suốt
những năm 1980, thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai di chuyển đồng
thời với nhau.Tuy nhiên, ông phát hiện ra rằng trong những năm 1990, mối quan hệ
giữa hai thâm hụt đã đổi hướng. Còn Laney (1984) nhận ra rằng “khơng có mối liên
hệ có ý nghĩa thống kê cho thời kỳ hậu chiến giữa số dư ngân sách thực tế của Mỹ
và số dư tài khoản vãng lai”. Ông ta đưa ra kết luận tương tự cho tình hình của hầu
hết các nước cơng nghiệp lớn. Ngoài ra, Boucher (1991) đã bác bỏ giả thuyết về
mối quan hệ dài hạn giữa hai loại thâm hụt trong trường hợp của nước Mỹ. Tương



12

tự như thế, bằng cách sử dụng phương pháp véc tơ tự hồi quy (VAR), kết quả của
Bhattacharya (1997) cho thấy rằng, ở Mỹ, cú sốc thâm hụt ngân sách liên bang
không tác động đến thâm hụt thương mại. Tiếp đến, Papaioannou và Kei-Mu Yi
(2001) cũng loại trừ mối quan hệ nhân quả đi từ từ thâm hụt ngân sách đến thâm hụt
thương mại ở Mỹ trong những năm 1990. Các tác giả này nhận thấy sự gia tăng
thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ trong những năm 1966 và 1999 chủ yếu là kết quả
của nền kinh tế đang bùng nổ với môi trường lãi suất thấp, đồng đô la mạnh và tăng
trưởng năng suất cao.
Erceg, Guerrieri và Gust (2004) đã nghiên cứu tác động của cú sốc tài khóa
(tăng chi tiêu chính phủ và giảm thuế thu nhập) lên cán cân thương mại ở Mỹ bằng
cách sử dụng mơ hình DEG (dynamic general equilibrium model) để đánh giá tác
động của hai cú sốc tài khóa đối với cán cân thương mại. Những kết quả này, nhất
quán với giả thuyết Ricardo, cho thấy những thay đổi trong chính sách tài khóa có
ảnh hưởng rất ít đến cán cân thương mại ở Mỹ, cho dù là tăng chi tiêu chính phủ
hay cắt giảm thuế. Hầu hết các áp lực lên cán cân vãng lai do chính sách tài khóa
mở rộng đã được bù đắp bởi sự gia tăng sản lượng đầu ra, cùng với sự sụt giảm
trong tiêu dùng và đầu tư tư nhân. Kết quả của Gruber and Kamin (2005) cũng
chứng tỏ thâm hụt ngân sách dường như không thể giải thích được thâm hụt tài
khoản vãng lai, nhất là trong giai đoạn 1997 – 2003 ở Mỹ. Cụ thể, Gruber and
Kamin (2005) cho thấy hệ số truyền dẫn từ thâm hụt ngân sách đến thâm hụt tài
khoản vãng lai khá thấp, chỉ khoảng 0.1, hệ số của biến thâm hụt ngân sách cũng rất
thấp và gần bằng 0, trong khi đó, sản lượng đầu ra lại có tác động âm đáng kể lên tài
khoản vãng lai.
Gần đây, Corsetti và Müller (2006) đã tập trung vào kênh truyền dẫn của cú sốc
tài khóa thơng qua sự thay đổi trong độ mở thương mại, tác giả nhận thấy rằng tình
trạng thâm hụt kép sẽ gia tăng tương ứng với độ mở của nền kinh tếvà sẽ sụt giảm
tương ứng với sự dai dẳng của cú sốc tài khóa. Bằng cách sử dụng mơ hình VAR và
tập hợp dữ liệu ở các quốc gia Australia, Canada, Anh và Mỹ, Corsetti và Müller

(2006) nhận thấy ở những quốc gia có độ mở thấp, tác động của các cú sốc bên


13

ngồi đến chi tiêu chính phủ hay thâm hụt ngân sách rất hạn chế, trong khi đầu tư tư
nhân phản ứng không đáng kể. Kết quả là, hiệu ứng thâm hụt kép dường như rất
nhỏ ở những nền kinh tế gần như đóng cửa.
Nghiên cứu về biến động trái chiều kép giữa thâm hụt ngân sách và thâm
hụt tài khoản vãng lai ở Mỹ
Mặc dù quan điểm “thâm hụt kép” đã được nhiều nhà kinh tế học đồng tình,
nhưng các số liệu thống kê về nền kinh tế Mỹ lại cho thấy những dấu hiệu bất
thường, cụ thể, chúng ta có thể nhận thấy xu hướng biến động ngược chiều – hay
còn gọi là “phân kỳ kép” hơn là sự “thâm hụt kép” giữa cán cân tài khóa và cán cân
tài khoản vãng lai ở Mỹ. Chẳng hạn như cán cân tài khóa đã rơi vào tình trạng thâm
hụt nghiêm trọng vào đầu thập niên 80 do cuộc suy thoái 1980 – 1982. Tổng tiết
kiệm tư nhân bắt đầu phục hồi từ năm 1983 trong khi tỷ lệ đầu tư bắt đầu hồi phục
từ sau cuộc suy thoái 1980 – 1982 làm cho tài khoản vãng lai rơi vào tình trạng
thâm hụt trong giai đoạn 1982 – 1986. Đến giai đoạn 1989 – 1991, tài khoản vãng
lai đã cải thiện dần, trong khi cán cân ngân sách có khuynh hướng sụt giảm lần
nữa.Quan trọng hơn, trong giai đoạn 1992 – 2000, cán cân tài khóa của Mỹ đã cải
thiện đáng kể từ mức tiết kiệm âm 5% GDP lên mức tiết kiệm dương 2.5% GDP,
trong khi tài khoản vãng lai giảm từ -1% GDP lên đến -4.5% GDP. Liên quan đến
tỷ giá thực, mặc dù từ 2000 tới 2002, dollar vẫn tăng giá khi thâm hụt ngân sách
quay trở lại, nhưng từ 2002 đến 2004, giá trị đồng nội tệ theo tỷ giá thực đã sụt
giảm khi mà tình trạng thâm hụt ngân sách ngày càng tồi tệ hơn.
Việc thiếu mối tương quan dương mạnh gữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài
khoản vãng lai có thể được giải thích bởi các biến động nội sinh của ngân sách
chính phủ và tài khoản vãng lai.Các biến động nội sinh này rất quan trọng về mặt
phân tích và thực nghiệm.Trong suốt thời kỳ suy thoái (hoặc bùng nổ), sản lượng

đầu ra giảm xuống (hoặc tăng lên) và cân đối ngân sách trở nên tệ hơn (hoặc được
cải thiện).Cùng thời điểm đó, tài khoản vãng lai có thể được cải thiện khi sự sụt
giảm sản lượng đầu ra khiến cho đầu tư giảm mạnh hơn tiết kiệm quốc gia. Trong
khi đó, một cú sốc công nghệ, chẳng hạn như sự bùng nổ IT và kinh tế mới ở Mỹ


14

trong giai đoạn 1995-2000, sẽ thúc đẩy đầu tư, làm cho nền kinh tế phục hồi trở lại
và giúp cải thiện cán cân tài khóa (thuộc tính ổn định tự động của thuế và chi tiêu
chính phủ); tuy nhiên lúc này cán cân tài khoản vãng lai lại bị thâm hụt. Điều này có
thể giải thích tại sao tài khoản vãng lai bị thâm hụt vào những năm 90 trong khi cán
cân tài khóa ngày càng được cải thiện. Hay nói cách khác, cán cân tài khoản vãng
lai sẽ thâm hụt (hoặc thặng dư) khi cán cân ngân sách chính phủ thặng dư (hoặc
thâm hụt).
Có nhiều nghiên cứu thực nghiệm về biến động trái chiều này. Đầu tiên ,một số
thí nghiệm mơ phỏng sử dụng mơ hình cấu trúc quy mô lớn dựa trên các phiên bản
khác nhau của mô hình Mundell-Fleming-Dornbusch (ví dụ, nghiên cứu của Bryant
và cộng sự, 1988; và Taylor,1993), hoặc sử dụng các mơ hình cân bằng tổng thể
ngẫu nhiên động hiệu chỉnh (ví dụ, Baxter 1995, Kollmann 1998, Bett và Devereux,
2000b, McKibbin và Sachs 1991). Tuy nhiên, hầu hết các mơ hình trong những
nghiên cứu này đều dựa trên một tập hợp lớn các điều kiện xác định được bao hàm
trong lý thuyết, chính vì thế, kết quả thu được khơng có giá trị như các bằng chứng
thực nghiệm dựa trên dữ liệu. Thứ hai, một số nghiên cứu như của Ahmen
(1986,1987) đã giải thích mối quan hệ dài hạn giữa chi tiêu chính phủ và tài khoản
vãng lai. Họ mượn phương pháp thiết lập phương trình tĩnh đơn giản bằng cách sử
dụng tập hợp dữ liệu lịch sử dài hạn với tần số hàng năm để khái quát tất cả các cơ
chế tỷ giá. Mặc dù vậy, kết quả của họ có nhiều hạn chế do tính tương tác động giữa
các biến khơng được xem xét, và những nghiên cứu này không sử dụng thời kỳ mẫu
có cơ chế tỷ giá khơng đổi. Thứ ba, một vài nghiên cứu đã sử dụng mơ hình VAR

mà có thêm vào các điều kiện xác định tối thiểu và khơng phụ thuộc vào các mơ
hình lý thuyết đặc trưng (như nghiên cứu của Clarida và Prendergast, 1999; và
Roger, 1999).Tuy nhiên, những nghiên cứu này chỉ kiểm định các tác động lên tỷ
giá thực bằng dữ liệu có tần số thấp.
Khắc phục các nhược điểm trên, trong bài nghiên cứu “Twin deficit or twin
divergence? Fiscal policy, current account and real exchange rate in the US”,
Soyoung Kim và Nouriel Rubini (2007) đã cung cấp các bằng chứng thực nghiệm


15

hướng về dữ liệu về các tác động của chính sách tài khóa đến tài khoản vãng lai và
tỷ giá thực bằng cách sử dụng mơ hình VAR, mơ hình này sẽ cho phép thể hiện tính
tương tác động giữa các biến và đưa vào các điều kiện xác định tối thiểu mà khơng
phụ thuộc vào các mơ hình lý thuyết đặc trưng. Tác giả sử dụng dữ liệu hàng quý từ
1973 – 2004, đây là tần số điển hình thường được sử dụng trong các nghiên cứu về
chu kỳ kinh tế. Tác giả thực hiện nghiên cứu này trong thời kỳ cơ chế tỷ giá thuần
nhất (cụ thể là cơ chế tỷ giá thả nổi), bởi lẽ các tác động có thể khác nhau dưới các
cơ chế tỷ giá khác nhau. Các tác giả đã cho ra một kết quả thực nghiệm mới và trái
với các mơ hình lý thuyết, đó là các cú sốc tài khóa mở rộng hoặc cú sốc thâm hụt
ngân sách của chính phủ thường đi kèm với sự cải thiện cán cân tài khoản vãng lai
và sự sụt giảm tỷ giá thực. Điều này đặc biệt thú vị do mối tương quan nghịch xảy
ra sau khi tác giả đã kiểm soát các ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế hay các cú sốc sản
lượng đầu ra mà có thể dẫn đến tình trạng “phân kỳ kép”. Như vậy, các cú sốc thâm
hụt tài khóa ngoại sinh dường như cũng đi đôi với sự cải thiện trong tài khoản vãng
lai.
Ngồi ra, bằng phép phân tích mở rộng, các tác giả chứng minh rằng sự kết hợp
các nhân tố, chẳng hạn như (1) “hiệu ứng thoái lui đầu tư do sự gia tăng lãi suất
thực” và (2) “hiệu ứng Ricardo khơng hồn chỉnh” trong tiết kiệm tư nhân, có thể
dẫn đến các kết quả thực nghiệm trái ngược với lý thuyết. Đồng thời, mức giá cứng

nhắc cũng đóng vai trị khá quan trọng trong việc làm cho tỷ giá danh nghĩa và tỷ
giả thực sụt giảm theo sau một cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ. Có một số lời
giải thích cho vấn đề này liên quan đến đặc điểm của nền kinh tế Mỹ. Đầu tiên,
thâm hụt tài khóa dẫn đến thối lui đầu tư có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng dài
hạn của nền kinh tế, và do đó sẽ làm giảm giá trị đồng nội tệ. Thứ hai, nợ nước
ngồi rịng của Mỹ sẽ ngày càng chồng chất thơng qua tình trạng thâm hụt tài khoản
vãng lai dai dẳng. Sự gia tăng tỷ lệ nợ cuối cùng sẽ làm tăng rủi ro vỡ nợ và làm
giảm tỷ giá danh nghĩa lẫn tỷ giá thực.
Nhìn chung, các bằng chứng thực nghiệm trên thế giới về thực trạng “thâm hụt
kép” hay xu hướng “phân kỳ kép” – tức biến động trái chiều giữa thâm hụt ngân


16

sách và thâm hụt tài khoản vãng lai đã chứng minh mối quan hệ giữa cán cân ngân
sách và cán cân tài khoản vãng lai là hiện hữu. Tuy nhiên, các kết quả cho thấy
khơng có sự thống nhất về xu hướng cùng chiều hay ngược chiều ở những quốc gia
khác nhau trong các giai đoạn nghiên cứu khác nhau.
Trong khi đó, ở Việt Nam, cho đến nay vẫn có rất ít nghiên cứu chính thức về
mối quan hệ giữa cán cân tài khóa, tài khoản vãng lai và tỷ giá thực. Hầu hết các
nghiên cứu về thâm hụt kép ở Việt Nam chỉ mới hướng đến mục tiêu tìm kiếm mối
quan hệ nhân quả giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai, đồng thời
các kết quả thu thập được đều ủng hộ giả thuyết tồn tại mối quan hệ nhân quả cùng
chiều giữa cán cân tài khóa và tài khoản vãng lai. Một trong các nghiên cứu nổi bật
gần đây về chủ đề này là đề tài “Phân tích mối quan hệ giữa thâm hụt tài khóa và
thâm hụt tài khoản vãng lai ở Việt Nam” của nhóm tác giả Trịnh Thị Trinh, Lê
Phương Dung và Nguyễn Thị Thùy Trang. Bằng việc sử dụng mô hình VAR để
đánh giá mối quan hệ giữa các biến số và kiểm định Granger để xác định hướng
quan hệ nhân quả, nhóm tác giả này rút ra kết luận là có tồn tại mối quan hệ nhân
quả giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai, và mối quan hệ nhân

quả xảy ra theo một chiều duy nhất, đó là từ thâm hụt tài khoản vãng lai dẫn đến
thâm hụt tài khóa.Tuy vậy, hạn chế của bài báo là chưa xét đến ảnh hưởng của các
cú sốc như: cú sốc sản lượng, lãi suất, tỷ giá, cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ
đến mối quan hệ giữa cán cân tài khóa và tài khoản vãng lai.
3. PHƯƠNG PHÁP, DỮ LIỆU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Phương pháp nghiên cứu
Mơ hình nghiên cứu sẽ được xây dựng dựa trên phương trình cơ bản diễn tả mối
quan hệ giữa tài khoản vãng lai và cán cân ngân sách chính phủ:
(1) Tài khoản vãng lai = tiết kiệm – đầu tư + Sai số thống kê
= Tiết kiệm tư nhân – thâm hụt ngân sách cơ bản của chính phủ + thu nhập lãi
rịng của chính phủ - đầu tư + sai số thống kê
Theo đó, Tài khoản vãng lai sẽ bằng với chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư. Tiết
kiệm được chia thành tiết kiệm khu vực tư nhân và tiết kiệm của chính phủ. Tiết


17

kiệm của chính phủ lại được chia thành thu nhập lãi rịng của chính phủ và thâm hụt
ngân sách cơ bản.
Theo phương trình (1) ta thấy, khi các yếu tố khác khơng đổi thì tài khoản vãng
lai và tiết kiệm chính phủ có mối tương quan dương hay biến động cùng chiều với
nhau. Nghĩa là một sự tăng lên trong tiết kiệm chính phủ sẽ làm cải thiện tài khoản
vãng lai và ngược lại. Đây cũng chính là cơ sở cho luận điểm của các mơ hình lý
thuyết khi cho rằng tiết kiệm chính phủ và tài khoản vãng lai (hay thâm hụt ngân
sách chính phủ và thâm hụt tài khoản vãng lai) biến động “cùng chiều kép”.
Tuy nhiên, số liệu thống kê thực tế lại cho thấy có mối quan hệ ngược chiều
giữa cán cân tài khóa và tài khoản vãng lai. Điều này có thể được giải thích bởi
phản ứng nội sinh của tiết kiệm chính phủ và tài khoản vãng lai trước các biến động
sản lượng đầu ra. Cụ thể, cân đối ngân sách chính phủ, đặc biệt là nguồn thu của
chính phủ thường có tính chu kỳ, trong khi cả hai lý thuyết tài khoản vãng lai truyền

thống và lý thuyết chu kỳ kinh doanh hiện đại đều dự báo biến động ngược chu kỳ
của tài khoản vãng lai khi có cú sốc sản lượng đầu ra. Chính vì thế, để xác định tác
động của các cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ lên tài khoản vãng lai, chúng ta
cần phải kiểm soát sự tác động nội sinh của cán cân ngân sách chính phủ và tài
khoản vãng lai, đặc biệt là khi có sự hiện diện của các cú sốc sản lượng.
Dựa trên các lập luận trên, bài viết thiết kế mơ hình thực nghiệm sao cho kiểm
sốt được thuộc tính nội sinh của ngân sách chính phủ và tài khoản vãng lai, đồng
thời nhận dạng được các thành phần ngoại sinh của cán cân ngân sách chính phủ.
Theo đó, bài viết lựa chọn mơ hình tự hồi quy vectơ , cụ thể là mơ hình
RECURSIVE VAR , được đề xuất bởi Sims (1980) bởi lẽ mơ hình này khá hữu
dụng trong việc kiểm sốt các thành phần nội sinh và tìm ra các các thành phần
ngoại sinh của cán cân ngân sách chính phủ.
Có 3 mơ hình VAR lần lượt được kiểm định để tìm kiếm bằng chứng về hiện
tượng biến động trái chiều kép ở Việt Nam.


18

Mơ hình VAR với 5 biến cơ bản:
Trong mơ hình cơ bản, thứ tự sắp xếp các biến lần lượt là {RGDP, GOV, CUR,
RIR, RER}, bao gồm log của GDP thực, ngân sách chính phủ tính theo phần trăm
trên GDP, tài khoản vãng lai tính theo phần trăm trên GDP, lãi suất thực 3 tháng, và
log của tỷ giá thực. Trong mơ hình cơ bản, thâm hụt ngân sách chính phủ được ký
hiệu là GOV. GOV, CUR, và RER là các biến chính trong nghiên cứu này. Bên
cạnh đó, các biến ngoại sinh đồng thời sẽ được xếp trước. RIR cũng là biến vĩ mô
quan trọng để cung cấp đầu mối về kênh truyền dẫn của chính sách tài khóa, cũng
như phản ánh các tác động của chính sách tiền tệ mà mơ hình cần kiểm sốt. Đặc
biệt, RGDP là biến vĩ mô chủ chốt đại diện cho thành quả của nền kinh tế. RGDP
được đưa vào để kiểm soát tác động ngoại sinh của chu kỳ kinh tế trong một quý lên
thâm hụt ngân sách chính phủ, cũng như lên tất cả các biến vĩ mơ cịn lại.

Bên cạnh đó, trong mơ hình, các cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ được rút
ra bằng cách đặt điều kiện lên giá trị hiện tại và giá trị trễ của RGDP cùng với các
biến trễ khác. Việc đặt điều kiện lên RGDP hiện tại là do thâm hụt ngân sách chính
phủ có thể chịu ảnh hưởng nội sinh bởi tình hình hiện tại của nền kinh tế trong một
quý. Giả định này được ủng hộ bởi Blanchard và Perotti (2002), người đã tìm thấy
tác động khác 0 của sản lượng lên mức thuế rịng trong một q. Ngồi ra, thâm hụt
ngân sách chính phủ cũng có thể phụ thuộc vào độ trễ của các biến khác. Ví dụ, một
vài thành phần của nguồn thu ngân sách như thuế thu nhập có thể phụ thuộc vào độ
trễ của tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, bài viết không đặt điều kiện lên giá trị hiện
tại của các biến khác ngoại trừ RGDP – biến có tính đến độ trễ của các quyết định
quan trọng trong chính sách tài khóa. Như vậy, việc đặt điều kiện cho giá trị hiện tại
của GDP thực là điều cần thiết để kiểm soát phản ứng nội sinh của thâm hụt ngân
sách cơ bản trước mức độ hoạt động hiện hành của nền kinh tế, trong khi đó, việc
khơng đặt điều kiện lên giá trị hiện tại của các biến khác là cách hợp lý để nhận
dạng những thay đổi ngoại sinh trong thâm hụt ngân sách, do những thay đổi này ít
phụ thuộc vào các biến hiện hành khác bởi độ trễ của các quyết định trong chính
sách tài khóa.


19

Cấu trúc ma trận của hệ phương trình VAR cơ bản có dạng như sau:
Hình 1: Cấu trúc ma trận của mơ hình VAR với 5 biến cơ bản
{RGDP, GOV, CUR, RIR, RER} lần lượt đại diện cho GDP thực (%), thâm hụt
ngân sách (% GDP), tài khoản vãng lai (% GDP), lãi suất thực (%), tỷ giá thực
hiệu lực (%). G0(L) là ma trận vng (5×5) cho hệ số của các biến trễ. {eRGDP ,eGOV
, eCUR , eRIR , eRER} là các cú sốc cấu trúc tương ứng của 5 biến {RGDP, GOV, CUR,
RIR, RER}; các cú sốc này được xem là các nhiễu trắng, khơng có tương quan với
nhau trong từng thời kỳ cũng như trong cả giai đoạn


1
g 21
g 31
g 41
g 51

0
1
g 32
g 42
g 52

0
0
1
g 43
g 53

0
0
0
1
g 54

0 RGDPt
0 GOVt
0 CURt
0 RIRt
1 RERt


RGDPt 1
GOVt 1
G 0 ( L) CURt 1
RIRt 1
RERt 1

eRGDP
eGOV
eCUR
eRIR
eRER

Ngồi ra, mơ hình cũng xếp thứ tự biến CUR trước hai biến RIR và RER dựa
trên giả định rằng, các biến số thuộc khu vực sản xuất thực, chẳng hạn như tài
khoản vãng lai CUR, có mối quan hệ liên thời gian với các biến số tài chính như lãi
suất thực RIR và tỷ giá thực RER (Theo nghiên cứu của Sim và Zha (2006), Kim
(1999), Kim và Roubini (2000). Tuy nhiên, tác động của cú sốc thâm hụt ngân sách
lên các biến còn lại tương tự như trong lý thuyết, không phụ thuộc vào thứ tự sắp
xếp các biến CUR, RIR và RER (Theo Christiano và cộng sự, 1999).
Mơ hình VAR với các thành phần của tài khoản vãng lai (CURA) và tỷ giá
danh nghĩa hiệu lực (NER)
Tiếp đến, bài viết đi vào nghiên cứu sâu hơn tại sao cú sốc tăng thâm hụt ngân
sách lại có tác động làm cải thiện tài khoản vãng lai và làm thế nào để nhận dạng
các tác động đó. Đầu tiên, bài viết tìm hiểu phản ứng của từng thành phần trong tài
khoản vãng lai trước cú sốc sản lượng và cú sốc thâm hụt ngân sách bằng cách thêm
vào mơ hình cơ bản ban đầu một biến số mới, CURA, đại diện cho các thành phần


×